Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Công ước Berne năm 1886 về quyền bảo hộ quyền tác giả và vấn đề thực thi ở Việt Nam trong xu thế hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 192 trang )

Trường đại học luật hà nội
khoa pháp luật quốc tế

-------- o0o --------

đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
công ước berne năm 1886
về bảo hộ quyền tác giả và vấn đề thực thi ở Việt
Nam trong xu thế hội nhập

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Hồng Bắc, Trưởng bộ môn Tư pháp
quốc tế, Khoa pháp luật quốc tế, Đại học Luật Hà Nội.
Thư ký đề tài: ThS. Nguyễn Bá Bình, Giảng viên Khoa pháp luật
quốc tế, Đại học Luật Hà Nội.

Các cộng tác viên tham gia đề tài:
1. PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, Trưởng bộ môn Luật quốc tế, Khoa Luật, ĐH
Quốc gia Hà Nội.
2. TS. Hoàng Phước Hiệp, Vụ trưởng Vụ pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
3. CVC. Hồ Văn Phú, Vụ pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
4. ThS. Lê Đình Nghị, Giảng viên Khoa Luật dân sự, ĐH Luật Hà Nội.
5. Phạm Thanh Tùng, Chuyên viên Cục bản quyền tác giả Việt Nam.
6. ThS. Bùi Thị Thu, Giảng viên Khoa pháp luật quốc tế, ĐH Luật Hà Nội.
7. Luật sư Nguyễn Thị Nam Hải, Công ty luật Huy Hoàng.


DANH MC CC T VIT TT
BERNE

Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả


BLDS

Bộ luật Dân sự

BTA

Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ

FAO

Tổ chức nông lương của Liên hợp quốc

GATT

Hiệp định chung về thương mại và thuế quan

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TRIPS


Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ

UNCTAD

Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển

WB

Ngân hàng thế giới

WIPO

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

WTC

Hiệp ước của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới về bản
quyền tác giả

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


mục lục
Mục

Trang


Phần thứ nhất: Tổng quan về đề tài nghiên cứu .....................01
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu ...........................................................01
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ................................................02
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................03
4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................04
Phần thứ hai: Kết quả nghiên cứu đề tài .....................................05
1. Những vấn đề cơ bản của Công ước Berne ..............................................05
2. Thực thi Công ước Berne tại Việt Nam .....................................................21
3. Thực trạng và giải pháp về thực thi quyền tác giả ở Việt Nam trong điều
kiện thực thi theo Công ước Berne................................................................42
Phần thứ ba: Các chuyên đề nghiên cứu thuộc đề tài ............60
1. Chuyên đề 1: Những nguyên tắc cơ bản của Công ước Berne ................61
2. Chuyên đề 2: Sự tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam
với quy định của Công ước Berne .................................................................69
3. Chuyên đề 3: Quan hệ giữa Công ước Berne và các Điều ước quốc tế
của WIPO về quyền tác giả ........................................................................100
4. Chuyên đề 4: Quan hệ giữa Công ước Berne và các điều ước quốc tế
của WTO về quyền tác giả .........................................................................108
5. Chuyên đề 5: Những lợi ích và bất lợi đối với Việt Nam khi gia nhập
Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả .................................114
6. Chuyên đề 6: Thiết chế thực thi quyền tác giả theo Công ước Berne ....128
7. Chuyên đề 7: Thực thi Công ước Berne theo pháp luật một số nước Châu
Âu...............................................................................................................138
8. Chuyên đề 8: Thực thi Công ước Berne theo pháp luật Hoa Kỳ .............145
9. Chuyên đề 9: Thực thi Công ước Berne theo pháp luật Nhật Bản và một số
kinh nghiệm đối với Việt Nam........................................................................151


10. Chuyên đề 10: Thực trạng và giải pháp về thực thi quyền tác giả ở
Việt Nam trong điều kiện thực thi theo Công ước Berne .............................163

11. Chuyên đề 11: Tình hình thi hành các quy định pháp luật về quyền tác
giả sau khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne .........................................171
12. Chuyên đề 12: Thực trạng hoạt động lập pháp tại Việt Nam trước và sau
khi tham gia Công ước Berne và một số kiến nghị .....................................180


báo cáo phúc trình
kết quả nghiên cứu đề tài

Công ước berne năm 1886 về bảo hộ
quyền tác giả và vấn đề thực thi ở Việt nam trong xu
thế hội nhập

*
A. phần thứ nhất
Tổng quan về đề tài nghiên cứu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Chúng ta đang sống trong một thời đại của nền kinh tế tri thức, thời đại của
sự bùng nổ về khoa học công nghệ. Chưa bao giờ các sáng tạo của trí tuệ con
người được phát huy mạnh mẽ đến thế. Mỗi ngày, thế giới một thay đổi do những
thành tựu mà sự sáng tạo của con người đem lại. Tuy nhiên, đằng sau những sáng
tạo đó là sự đầu tư không nhỏ về tiền bạc và chất xám của tư duy trí tuệ con
người. Do vậy, đi đôi với sự phát triển, thế giới cũng đòi hỏi cần có một cơ chế
hữu hiệu nhằm bảo vệ được những thành tựu sáng tạo của trí tuệ, nhằm không chỉ
bảo vệ khối di sản của tri thức nhân loại, mà còn tạo động lực khuyến khích sự
phát triển sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển.
Việc bảo hộ các quyền liên quan đến tài sản trí tuệ của con người đã được
pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế quan tâm xây dựng từ rất sớm.
Đến nay, việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng

không chỉ giới hạn theo những tiêu chuẩn trong phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc
gia mà đã phát triển trên phạm vi toàn cầu theo những chuẩn mực quốc tế cùng
1


với sự ra đời của các tổ chức quốc tế (WIPO, WTO ). Trước những yêu cầu
khách quan của quá trình toàn cầu hóa ngày càng xuất hiện nhiều các điều ước
quốc tế trong lĩnh vực này, điều đó đã minh chứng cho sự cần thiết của việc bảo
hộ quốc tế quyền tác giả. Một điều ước quốc tế đa phương về bảo hộ quyền tác
giả đã được các nước tham gia kí kết vào năm 1886 - Công ước Berne - Đây là
Công ước đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả. Ban đầu tham gia Công ước chỉ có 10
nước thành viên. Hiện nay, số thành viên tham gia Công ước đã lên tới 162 nước1.
Ngày 07/06/2004 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã kí Quyết định số
332/2004/QĐ-CTN về việc Việt Nam tham gia Công ước Berne và Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của Công ước Berne kể từ ngày 26.10.2004 (Việt
Nam là thành viên thứ 156 tham gia Công ước Berne). Việt Nam tuyên bố bảo
lưu các quy định tại Điều 33 của Công ước Berne về thẩm quyền xét xử của toà
án quốc tế và áp dụng chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo Điều
II và Điều III Phụ lục Công ước. Công ước Berne năm 1886 là Công ước đa
phương đầu tiên mà Việt Nam tham gia trong lĩnh vực quyền tác giả và Công ước
này thuộc lộ trình tham gia Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) của Việt Nam,
đồng thời cũng thuộc cam kết tại các Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa kì, Thuỵ
sĩ về quyền tác giả. Chúng ta biết rằng, thực thi quyền tác giả là một trong những
vấn đề quan trọng nhất của việc bảo hộ quyền tác giả, bởi vì nếu các quyền của
tác giả được pháp luật quy định mà không có khả năng thực thi thì giá trị của các
quyền đó coi như bằng không. Vì vậy, việc nghiên cứu về Công ước và nhất là
vấn đề thực thi Công ước tại Việt Nam là hết sức cần thiết trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng là một vấn

đề có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, được sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều
giới, nhiều ngành. Có thể kể tên một số công trình, hội thảo khoa học nghiên cứu
về vấn đề này như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học
1

Tính đến ngày 30.08.2006 (Brunei là thành viên thứ 162)

2


xét xử Toà án nhân dân tối cao về Nâng cao vai trò và năng lực thực thi quyền
SHTT ở Việt nam - những vấn đề lí luận và thực tiễn (năm 1999); Đề tài nghiên
cứu khoa học của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Về cơ chế thực thi pháp luật
Việt Nam bảo hộ quyền SHTT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ; Đề án
khoa học Tăng cường hiệu quả thực thi quyền SHTT do Bộ khoa học - công
nghệ và Bộ văn hoá - thông tin phối hợp thực hiện; Hội thảo khoa học Quyền
SHTT và chống cạnh tranh không lành mạnh do Cục SHTT tổ chức ngày
18.11.04 tại thành phố Hồ Chí Minh; Hội thảo SHTT với doanh nghiệp cơ hội và
thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế Do Hội sở hữu công nghiệp Việt
Nam tổ chức tháng 12.2004 tại Hà Nội

Tuy nhiên, tất cả các công trình khoa

học trên chỉ nghiên cứu về quyền SHTT nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả và vấn đề thực thi ở Việt
nam trong xu thế hội nhập làm rõ hơn những vấn đề mà các công trình khoa học
khác đã gợi mở.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng rõ những quy định của Công

ước Berne và quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả, từ đó
đánh giá đúng những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực
này để đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam cho phù hợp với chuẩn
mực quốc tế. Đồng thời, qua việc nghiên cứu vấn đề thực thi Công ước ở một số
nước và ở Việt Nam, đề tài đưa ra những giải pháp để thực thi Công ước ở Việt
Nam ngày càng có hiệu quả hơn.
Thực hiện thành công mục đích trên, đề tài sẽ có ý nghĩa lí luận và thực tiễn:
- Nâng cao nhận thức của cán bộ làm công tác nghiên cứu và thực thi pháp
luật về SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng, đặc biệt đối với năng lực của
thẩm phán toà án trong quá trình áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về
quyền tác giả. Qua đó bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của Nhà nước và của
các chủ sở hữu tác phẩm.
3


- Kết quả của đề tài nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu để phổ biến,
phục vụ cho việc giảng dạy ở Trường Đại học Luật Hà Nội, cũng như cho các cơ
sở đào tạo pháp luật, viện nghiên cứu cũng như cho các đối tượng khác có quan
tâm.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả.
Với mục đích trên đề tài được bố cục thành 3 phần với các nội dung sau:
1.

Những vấn đề cơ bản của Công ước Berne

2.

Vấn đề thực thi Công ước Berne tại Việt Nam

3.


Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Công ước

Berne nói riêng và bảo hộ quyền tác giả nói chung tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Tổng hợp, phân tích, thống kê, khái quát hoá

và đặc biệt là phương pháp so

sánh. Phương pháp so sánh được sử dụng trong các chuyên đề của đề tài nhằm
tìm ra những điểm giống nhau, nhất là những điểm khác nhau giữa quy định của
pháp luật Việt Nam và quy định của Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả.

4


B. Phần thứ hai
Kết quả nghiên cứu đề tài

1. Những vấn đề cơ bản của Công ước Berne

Công ước Berne là Công ước quốc tế đa phương đầu tiên về bảo hộ quyền
tác giả, được ký kết tại Berne (Thuỵ Sỹ) năm 1886. Công ước đã trải qua nhiều
lần bổ sung và sửa đổi bao gồm: năm 1896 tại Pari, năm 1908 tại Beclin, năm
1914 tại Berne, năm 1928 tại Rome, năm 1948 tại Brussels, năm 1967 tại
Stockholm, năm 1971 tại Paris và sau cùng được bổ sung vào ngày 2 - 10 - 1979.
Nhưng Công ước quốc tế hiện hành là Công ước Paris được sửa đổi năm 1971 và
được bổ sung vào năm 1979.
1.1. Các nguyên tắc cơ bản của Công ước Berne

Với mong muốn bảo hộ một cách hữu hiệu và đồng bộ đến mức tối đa các
quyền lợi của các tác giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật2, Công
ước Berne đã đặt ra một số nguyên tắc cơ bản mang tính chất nền tảng, là cơ sở
cho việc xác định cơ chế và cách thức bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật. Trong đó có quy tắc mang tính chung, có thể gặp trong nhiều điều ước
quốc tế khác như nguyên tắc đối xử quốc gia, cũng có các nguyên tắc mang tính
cá biệt, mang đặc điểm riêng của cơ chế bảo hộ quyền tác giả như nguyên tắc
bảo hộ đương nhiên.
1.1.1. Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment - NT)
Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan
trọng, không chỉ được quy định trong Công ước Berne mà còn được quy định
trong rất nhiều các điều ước quốc tế khác về SHTT. Ngoài ra, nguyên tắc này còn
được ghi nhận phổ biến trong pháp luật của rất nhiều các quốc gia trên thế giới.
Công ước Berne đã ghi nhận nguyên tắc đối xử quốc gia như là một trong những
nguyên tắc mang tính hạt nhân. Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 5 khoản 1
2

Lời mở đầu của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (Bản dịch của Cục bản quyền tác
giả - Bộ văn hoá thông tin tháng 6/2001).

5


của Công ước Berne: "Đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các
tác giả được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp không phải là quốc gia
gốc của tác phẩm, những quyền do luật của nước đó dành cho công dân của
mình trong hiện tại và tương lai cũng như những quyền mà Công ước đặc biệt
quy định".
Như vậy, theo quy định trên, các tác giả sẽ nhận được sự bảo hộ tại tất cả
các quốc gia thành viên của Công ước tương tự như sự bảo hộ của quốc gia đó

dành cho chính công dân nước mình. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại
lệ. Đó là khả năng hạn chế sự bảo hộ đối với một số tác phẩm của công dân một
số nước ngoài Liên hiệp.
1.1.2. Nguyên tắc bảo hộ đương nhiên (Automatic protection)
Đây là nguyên tắc mang tính đặc thù trong lĩnh vực quyền tác giả, theo đó,
quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới một dạng vật chất
nhất định không lệ thuộc vào bất kỳ một thủ tục nào như là đăng ký, nộp lưu
chiểu hoặc theo các thủ tục tương tự.
Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể tại Điều 5 khoản 2 Công ước Berne Sự
thụ hưởng và thực hiện các quyền tác giả không lệ thuộc vào một thể thức, thủ
tục nào, sự thụ hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào
việc tác phẩm đó có đựơc bảo hộ hay không ở quốc gia gốc của tác phẩm.
1.1.3. Nguyên tắc bảo hộ độc lập (Independence of Protection)
Theo Công ước Berne, nguyên tắc bảo hộ độc lập được hiểu là việc hưởng và
thực thi các quyền theo Công ước độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất
xứ của tác phẩm.
Điều 5 Khoản 3 Công ước quy định: Sự bảo hộ trong quốc gia gốc do pháp
luật của quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của
quốc gia gốc của tác phẩm được Công ước này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng
trong quốc gia gốc này những quyền như tác giả công dân nước đó.
Tại quốc gia thành viên của Công ước nhưng không phải là quốc gia gốc của
tác phẩm, tác giả tác phẩm sẽ được hưởng hai loại quyền: Quyền theo quy định
6


của pháp luật quốc gia và quyền được quy định trong Công ước.Việc áp dụng các
quy định của Công ước Berne hay các quy định trong luật quốc gia phụ thuộc vào
việc áp dụng luật nào sẽ có lợi hơn cho tác giả. Tác giả hoàn toàn có quyền lựa
chọn. Việc lựa chọn áp dụng các quyền này không đồng nghĩa với việc tước bỏ
việc được hưởng các quyền kia. Đây là một trong những quy định nhằm đem lại

cho các tác giả sự bảo hộ hiệu quả hơn, giúp họ có cơ hội lựa chọn các quy định
có lợi nhất cho mình. Đây cũng là một quy định mang tính tích cực, không hạn
chế những quyền lợi mà mỗi quốc gia mong muốn dành cho công dân nước mình
trong hiện tại và trong tương lai.
Cùng với các quy định tại Điều 19 và Điều 20, Công ước Berne cho phép
các quốc gia có thể dành cho tác giả là công dân nước mình những quyền lợi lớn
hơn so với những quyền được quy định trong Công ước và không trái Công ước
bằng cách: Quy định trong pháp luật quốc gia hoặc ký kết và thực hiện các điều
ước quốc tế có liên quan.
1.2. Những nội dung cơ bản của Công ước Berne
1.2.1. Các tác phẩm được bảo hộ
Các tác phẩm được Công ước Berne bảo hộ được quy định cụ thể tại Điều 2
của Công ước. Sự liệt kê các loại hình tác phẩm tại điều này là tương đối đầy đủ,
chi tiết và toàn diện. Theo đó, các tác phẩm được bảo hộ có thể chia thành 3
nhóm sau đây:
- Các tác phẩm gốc trong lĩnh vực văn học, khoa học, nghệ thuật, không
phân biệt hình thức hay phương thức biểu hiện (Điều 2 khoản 1 Công ước Berne).
- Các tác phẩm phái sinh được Công ước Berne bảo hộ như tác phẩm gốc
miễn là sự bảo hộ này không làm phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm
gốc.
- Các tuyển tập các tác phẩm văn học và nghệ thuật (các hợp tuyển, bộ bách
khoa từ điển) theo Điều 2 khoản 5 Công ước Berne. Các tác phẩm này cũng được
bảo hộ như một tác phẩm nếu nó được chọn lọc và sắp xếp theo một nội dung nào
đó để tạo nên một sản phẩm của hoạt động sáng tạo, miễn là việc bảo hộ đó
7


không gây tổn hại đến quyền tác giả của mỗi tác phẩm tạo nên tác phẩm sưu tập
đó.
Bên cạnh việc quy định 3 nhóm tác phẩm được bảo hộ như trên, Công ước

Berne cũng cho phép các quốc gia thành viên có quyền quy định trong pháp luật
quốc gia mình việc bảo hộ hay không bảo hộ những thể loại cụ thể khi các tác
phẩm ấy chưa được ấn định trên một hình thái vật chất (Điều 2 khoản 2) và cách
thức bảo hộ riêng đối với các văn bản chính thức của nhà nước như văn bản lập
pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2 khoản 4).
Công ước không bảo hộ cho những tin tức hàng ngày hoặc những sự kiện, số
liệu vụn vặt chỉ mang tính chất thông tin báo chí vì chúng không phải là kết quả
của hoạt động sáng tạo của con người (Điều 2 khoản 8 Công ước Berne).
Nhìn chung, các tác phẩm được Công ước bảo hộ đã được quy định tương
đối đầy đủ, mang tính chất mở cho các loại tác phẩm. Tuy nhiên, do sự phát
triển của công nghệ và thị trường nên ngày nay đã có khá nhiều loại hình tác
phẩm cần được bảo hộ nhưng chưa được bổ sung vào Công ước, trong đó có các
chương trình máy tính và các sản phẩm của công nghệ đa phương tiện. Công ước
về bản quyền WCT (WIPO Copyright Treaty) của WIPO đã phần nào đáp ứng
được đòi hỏi này.
1.2.2. Điều kiện được bảo hộ
Tiền đề cơ bản của việc bảo hộ các tác phẩm theo quy định của Công ước
Berne là nước xuất xứ (quốc gia gốc) của tác phẩm phải là một trong những nước
thành viên của Công ước. Các tác phẩm muốn được bảo hộ sẽ phải thoả mãn ít
nhất một trong hai tiêu chí sau:



Tiêu chí quốc tịch của tác giả

Sự bảo hộ của Công ước Berne được dành cho các tác giả là công dân của
một trong những nước thành viên của Liên hiệp và cho các tác phẩm của họ dù
chúng được công bố hay chưa. Công ước Berne sử dụng một trong hai tiêu chuẩn
sau để xác định tư cách công dân của tác giả:


8


* Tác giả mang quốc tịch của một trong những nước thành viên của Liên
hiệp Berne, hoặc
* Tác giả có nơi cư trú thường xuyên tại một trong những nước thành viên
của Liên hiệp Berne.



Tiêu chí nơi công bố tác phẩm lần đầu tiên

Tác phẩm đã được công bố (Published work) là tác phẩm đã được phát hành
với sự cho phép của tác giả bằng bất kỳ phương pháp nào tạo ra bản sao in nhằm
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ thuộc vào bản chất của từng loại tác
phẩm.
Như vậy, nếu tác giả không thỏa mãn tiêu chí thứ nhất như đã trình bày ở
phần trên thì những tác phẩm của họ chỉ có thể được bảo hộ theo Công ước Berne
khi tác phẩm này được công bố lần đầu tiên tại một trong những quốc gia thành
viên của Liên hiệp hoặc đồng thời tại một quốc gia trong và quốc gia ngoài Liên
hiệp. Theo Công ước Berne, một tác phẩm được coi là công bố đồng thời ở nhiều
nước khi tác phẩm này được công bố ở hai hay nhiều nước trong thời hạn 30 ngày
kể từ lần công bố lần đầu tiên (Điều 3 khoản 4 Công ước Berne).
Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ, đối với các tác phẩm không thoả
mãn những điều kiện nêu trên nhưng vẫn nhận được sự bảo hộ của Công ước
Berne. Đó là trường hợp các tác phẩm điện ảnh, kiến trúc và một số tác phẩm
nghệ thuật (Điều 4 Công ước Berne).
1.2.3. Các quyền được bảo hộ
a. Quyền kinh tế (Economic Rights)3
Theo Công ước Berne, quyền kinh tế bao gồm: Quyền dịch; quyền sao chép;

quyền phóng tác, cải biên, chuyển thể tác phẩm; quyền trình diễn công cộng tác
phẩm kịch, nhạc kịch và âm nhạc; quyền trần thuật công cộng các tác phẩm văn
học; quyền truyền thông công cộng trình diễn các tác phẩm; quyền phát sóng.
3

Công ước Berne không có quy định về việc phân chia quyền tác giả thành quyền kinh tế và quyền tinh thần một
cách rõ ràng, sự phân loại này dựa vào quy định tại Điều 6bis (quyền tinh thần), theo đó độc lập với các quyền
kinh tế. Như vậy, trừ các quyền tại điều 6bis và điều 14ter các quyền còn lại được ngầm hiểu là các quyền kinh
tế (Economic right).

9


Các quyền kinh tế này có thể được tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả
chuyển nhượng cho người khác. Các quyền này có thể đem lại những lợi ích vật
chất nhất định cho chủ sở hữu quyền khi tác phẩm được sử dụng dưới nhiều hình
thức khác nhau như xuất bản, biểu diễn, phóng tác, cải biên, chuyển thể
b. Quyền tinh thần (Moral Rights)
Các quyền tinh thần tồn tại song song và độc lập với quyền kinh tế ngay từ
khi quyền tác phẩm hình thành dưới một hình thức nhất định (Điều 6 bis khoản 2
Công ước Berne). Cho dù quyền kinh tế đã được chuyển giao cho người khác thì
tác giả vẫn được bảo hộ toàn bộ các quyền tinh thần. Thời hạn duy trì các quyền
tinh thần này sau khi tác giả qua đời hoàn toàn do luật quốc gia quy định. Luật
quốc gia có thể duy trì việc bảo hộ các quyền tinh thần cho đến khi chấm dứt các
quyền kinh tế hoặc chấm dứt một số quyền tinh thần ngay sau khi tác giả qua đời
(Điều 6 bis khoản 2 Công ước Berne). Quyền tinh thần theo quy định của Công
ước Berne gồm:




Quyền đứng tên tác giả



Quyền phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những

vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm
của tác giả.
c. Quyền tiếp theo (Droit de suit)
Đặc trưng của Quyền tiếp theo là tính bất khả nhượng. Quyền này thuộc
về tác giả khi tác giả còn sống, tác giả không thể chuyển nhượng quyền này cho
người khác như những quyền kinh tế khác. Sau khi tác giả qua đời, những người
được hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm đó như người thừa kế của tác giả
(theo di chúc hoặc theo pháp luật) sẽ được hưởng Quyền tiếp theo và cũng
không được chuyển nhượng quyền đó cho người khác. Quyền này cũng đem lại
cho tác giả những lợi ích vật chất nhất định.
Do đó, Quyền tiếp theo không thể coi là quyền tinh thần nhưng cũng
không hẳn là một quyền kinh tế. Giá trị tăng lên đối với tác phẩm đã chuyển

10


nhượng lần đầu đã đem lại quyền này cho tác giả hay cá nhân, tổ chức được
hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm này sau khi tác giả qua đời.
Quyền tiếp theo là quy định đặc biệt chỉ dành cho bản gốc của các tác
phẩm nghệ thuật, bản thảo gốc viết tay của các nhà văn và các nhà soạn nhạc
nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng cho các tác giả đối với khoản lợi nhuận tăng
lên từ tác phẩm của mình do danh tiếng và tài năng của họ dù tác phẩm đó đã
được chuyển nhượng trước đó.
Theo quy định của Công ước Berne, chính tác giả hoặc sau khi tác giả chết,

tổ chức hay cá nhân theo Luật quốc gia được hưởng quyền tác giả sẽ được hưởng
một quyền, không thể chuyển nhượng liên quan đến việc bán đổi tác phẩm đó sau
khi tác giả đã chuyển nhượng lần đầu.
1.2.4. Thời hạn bảo hộ
Thời hạn bảo hộ có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo hộ quyền tác giả. Trong
thời hạn bảo hộ, tác giả của các tác phẩm được bảo vệ chống lại mọi hành vi xâm
hại quyền tác giả và được toàn quyền khai thác, sử dụng tác phẩm. Hết thời hạn
này, tác phẩm sẽ thuộc về công cộng, bất kỳ ai cũng có quyền sử dụng, khai thác
mà không phải trả tiền.
Theo quy định chung của Công ước Berne, thời hạn bảo hộ quyền tác giả
được ấn định là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời (Điều 7
khoản 1). Trong trường hợp tác phẩm của đồng tác giả, thời hạn bảo hộ theo
Công ước Berne là suốt cuộc đời các tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời
nhưng thời hạn 50 năm này chỉ được tính sau khi đồng tác giả cuối cùng qua đời
(Điều 7 bis).
Ngoài ra, Công ước còn quy định thời hạn bảo hộ riêng cho từng đối tượng
như: Tác phẩm điện ảnh, tác phẩm bút danh hoặc khuyết danh, tác phẩm nhiếp
ảnh và mỹ thuật ứng dụng.
1.2.5. Các hình thức sử dụng tự do tác phẩm
Bên cạnh các quyền độc quyền của tác giả (chủ sở hữu quyền hoàn toàn có
quyền cho phép hoặc không cho phép sử dụng, khai thác tác phẩm), Công ước
11


Berne cũng quy định một số trường hợp sử dụng tự do tác phẩm mà không cần
xin phép tác giả. Các trường hợp này được quy định tại Điều 10 và Điều 10 bis
Công ước Berne. Tuy nhiên, dù không xin phép tác giả nhưng trong mọi trường
hợp sử dụng tự do tác phẩm nêu trên, người sử dụng đều phải ghi rõ nguồn gốc
tác phẩm và tên tác giả (nếu có). Mọi trường hợp sử dụng tác phẩm thiếu hành vi
xử sự trên đều coi là vi phạm quyền tác giả.

1.2.6. Các quy định liên quan đến thực thi quyền được bảo hộ
Đây là quy định nhằm đảm bảo cho tác giả có thể thực thi các quyền mà
Công ước Berne dành cho họ. Để chứng minh mình là tác giả, từ đó có thể được
hưởng những quyền lợi chính đáng đối với thành quả sáng tạo của mình, tác giả
chỉ cần ghi tên mình trên tác phẩm theo thông lệ ngay cả khi tên tác giả là một
bút hiệu (không gây nên một nghi vấn nào về danh tính thực của tác giả). Công
ước Berne không đòi hỏi việc ghi tên tác giả phải được thể hiện dưới những ký
hiệu hay quy ước nhất định như một số Công ước khác về SHTT.
Đối với những tác phẩm bút danh hoặc khuyết danh, nhà xuất bản có tên ghi
trên tác phẩm được thừa nhận là đại diện của tác giả tác phẩm đó mà không cần
một bằng chứng gì khác. Nhà xuất bản này sẽ được hưởng quyền được bảo hộ và
thực thi các quyền ấy cho đến khi tác giả của tác phẩm đó tiết lộ danh tính và
chứng minh mình là tác giả của tác phẩm đó.
Nếu tác phẩm chưa được công bố và chưa xác định được tác giả là ai nhưng
có căn cứ cho rằng tác giả là công dân của một trong những nước thành viên của
Công ước thì quốc gia thành viên của Liên hiệp có quyền chỉ định một cơ quan
có thẩm quyền (có thẩm quyền bảo hộ và thực thi quyền tác giả) đại diện cho tác
giả đó. Trong trường hợp này, quốc gia bắt buộc phải thông báo bằng văn bản
cho Tổng Giám đốc của tổ chức SHTT thế giới - WIPO (công chức cao cấp nhất
và là đại diện của Liên hiệp Berne) về cơ quan được chỉ định đại diện để Tổng
Giám đốc thông báo cho các quốc gia thành viên khác (Điều 15 khoản 4 Công
ước Berne).

12


Ngoài ra, Công ước Berne (Điều 16) còn có những quy định liên quan đến
biện pháp chống lại việc sử dụng, lưu thông các bản sao tác phẩm phi pháp.
1.2.7. Những điều khoản đặc biệt dành cho các nước đang phát triển
Công ước Berne đã dành phụ lục gồm 6 điều khoản (từ điều I đến Điều VI)

để quy định về các điều khoản đặc biệt dành cho các nước thành viên của Liên
hiệp hiện đang là những quốc gia đang phát triển. Phụ lục này là một phần thống
nhất của Đạo luật hiện hành. Theo đó, các nước thành viên khác của Công ước
Berne mong muốn dành cho các nước thành viên đang phát triển những điều kiện
thuận lợi hơn để có thể hội nhập vào sân chơi chung của Công ước, bởi thật
không công bằng cho các nước này khi phải áp dụng ngay tất cả những quy định
khá khắt khe của Công ước khi điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn.
Các nước đang phát triển sẽ có thêm một khoảng thời gian phù hợp để thích nghi
và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết nhằm thực thi đầy đủ các quy định của Công
ước Berne như bất kỳ một nước thành viên nào khác của Liên hiệp. Đồng thời các
quy định này cũng giúp cho các tác phẩm đến được công chúng dễ dàng, nhanh
chóng, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Khi các nước đang phát triển đáp ứng được các điều kiện về nội dung và thủ
tục sẽ được hưởng những ưu đãi theo quy định tại Phụ lục Công ước Berne. Đó
là: Hạn chế quyền dịch (Điều II), hạn chế quyền sao chép (Điều III). Tuyên bố về
việc áp dụng các ưu đãi được thông báo theo thời hạn do Công ước quy định.
1.3. Mối quan hệ giữa Công ước Berne với Công ước của WIPO về bảo hộ
quyền tác giả
Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) là tổ chức quốc tế liên chính phủ có trụ sở
tại Geneva Thuỵ sỹ. WIPO là một trong 16 tổ chức chuyên môn của hệ thống các
tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc, chịu trách nhiệm đối với việc xúc tiến bảo hộ
quyền SHTT trên toàn cầu thông qua các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia, và
là tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm quản lý các điều ước quốc tế đa biên khác
nhau liên quan đến các khía cạnh pháp lý và hành chính của SHTT.

13


Đã có hơn 160 quốc gia là thành viên phải tuân theo các qui định của các
Hiệp định của WIPO. Ngoài ra có khoảng 10 quốc gia khác tuy chưa phải là

thành viên WIPO nhưng đã tự nguyện cam kết tuân theo các hiệp định của
WIPO. Các điều ước quốc tế của WIPO về bảo hộ quyền tác giả gồm: Công ước
Berne (1886) bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Hiệp ước của WIPO
(1996) về quyền tác giả.
Vào những năm 1970 và 1980, nhiều tiến bộ công nghệ mới đã diễn ra: Như
công nghệ sao chép trên giấy, công nghệ video, hệ thống ghi băng thuận lợi cho
băng đĩa gia đình, phát sóng qua vệ tinh, truyền hình cáp, việc tăng thêm các
chương trình máy tính quan trọng, lưu trữ trên máy tính tác phẩm và cơ sở dữ liệu
điện tử đòi hỏi cần phải được điều chỉnh.
Sau khi phê chuẩn Hiệp định TRIPs dưới sự bảo trợ của GATT, công việc
chuẩn bị cho các quy tắc mới về quyền tác giả tại các uỷ ban của WIPO đã triển
khai, nhằm giải quyết triệt để những vấn đề chưa được Hiệp định TRIPs đề cập
tới. Cuối cùng, vào năm 1996, Hội nghị ngoại giao WIPO về một số vấn đề bản
quyền tác giả đã phê chuẩn Hiệp ước của WIPO về Bản quyền tác giả (WCT).
Theo quy định, số lượng các nước thành viên phê chuẩn để Hiệp ước có hiệu lực
là 30 thành viên. WTC bắt đầu có hiệu lực từ 6.3.2002. Tính đến 17.4.2005 đã có
51 nước tham gia WTC.
Bản chất pháp lý và mối quan hệ của WCT với Công ước Berne thể hiện
ngay ở câu đầu tiên của WCT. Điều 1(1) quy định rằng Hiệp ước này là một
cam kết đặc biệt được đề cập tới trong Điều 20 Công ước Berne và ràng buộc đối
với những quốc gia thành viên của Liên minh Berne. Điều 1(4) của Hiệp ước
WTC quy định rằng Các nước thành viên sẽ tuân thủ từ Điều 1 tới Điều 21 và
phần phụ lục của Công ước Berne.
Qua các điều trên có thể thấy, mối quan hệ giữa WCT với Công ước Berne
thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, WTC khẳng định lại những nội dung quyền tác giả bảo hộ theo
Công ước Berne cũng được bảo hộ theo WTC.
14



Thứ hai, WTC b sung thờm hai loi i tng c th c bo h l cỏc
chng trỡnh mỏy tớnh v cỏc b su tp d liu.
Tại Điều 6 (1) WTC quy định quyền độc quyền cho phép xuất bản tác phẩm
gốc và các bản sao của tác phẩm thông qua việc bán hay chuyển nhượng quyền
sở hữu, nói cách khác, đó là quyền độc quyền phân phối. Trong Công ước Berne,
chỉ có tác phẩm quay phim mới được trao quyền này.
Thứ ba, việc các nước tham gia WTC không ảnh hưởng đến nghĩa vụ mà các
thành viên có với nhau theo Công ước Berne. Điều 1(2) của Hiệp ước quy định:
Không quy định nào trong Hiệp ước gây tổn hại tới các nghĩa vụ hiện đang tồn
tại mà các thành viên có với nhau theo Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm
văn học và nghệ thuật.
Ngoài quan hệ với Công ước Berne, WTC không liên quan tới bất kì điều
ước quốc tế nào khác trong lĩnh vực SHTT, kể cả TRIPs và UCC (Universal
Copyright Convention), cũng như bản thân nó không được mâu thuẫn với bất kì
Công ước nào khác trong cùng lĩnh vực.
1.4. Mối quan hệ giữa Công ước Berne với điều ước của WTO về bảo hộ
quyền tác giả
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) là tổ chức quốc tế chỉ hoạt động chuyên
về các vấn đề liên quan đến các qui tắc của thương mại toàn cầu liên quốc gia.
Khác với WIPO, WTO không phải là tổ chức chuyên môn của hệ thống các tổ
chức quốc tế của Liên Hợp quốc. Tuy vậy, hoạt động của WTO có quan hệ mật
thiết với hoạt động của Liên Hợp quốc. Được thành lập và đi vào hoạt động từ
1/1/1995, đến nay WTO đã có 150 thành viên và hàng loạt quan sát viên. Liên
Hợp quốc, UNCTAD, IMF, WB, FAO, WIPO, OECD là các tổ chức quốc tế
quan sát viên tại Hội đồng toàn thể của WTO.
Tại Vòng đàm phán Uruguay năm 1986 - 1994 các nước đã ký Hiệp định
TRIPs (Agreement on Trade Related Aspects of Intellectural Property Rights).
Hip nh TRIPs quy nh vic bo h nhiu i tng SHTT khỏc nhau, trong

15



ú cú quyn tỏc gi. Hip nh TRIPs ó khng nh li v m rng cỏc chun
mc v quy nh ca Cụng c Berne.
Công ước Berne có mối quan hệ mật thiết với Hiệp định TRIPs. Điều 20 của
Công ước Berne đặt ra qui định quan hệ với TRIPs như sau: "Chính phủ các nước
liên hiệp (Berne) được bảo lưu quyền ký kết những thoả thuận chuyên biệt giữa
họ với nhau nhằm nhờ những thoả thuận đó mà các tác giả bản quyền có được
những quyền ưu đãi hơn những quyền có được theo Công ước Berne, hoặc có
chứa đựng những qui định không trái với Công ước này.
Qui định này là đặc biệt quan trọng khi các thành viên Công ước Berne
đồng thời là thành viên của WTO (và bị ràng buộc theo TRIPs). Trong trương
hợp như vậy TRIPs sẽ là luật riêng (lex specialis) của Công ước Berne (lex
generals) theo nghĩa Điều 20 của Công ước Berne đã nêu trên.
Mi quan h cht ch gia Hip nh TRIPs v Cụng c Berne còn c
th hin trong iu 9 khon 1 ca Hip nh Cỏc thnh viờn phi tuõn th cỏc
iu t iu 1 n iu 21 v Ph lc ca Cụng c Berne (1971). Tuy nhiờn,
cỏc thnh viờn khụng cú cỏc quyn v ngha v theo Hip nh ny i vi cỏc
quyn c cp theo hoc phỏt sinh trờn c s iu 6bis ca Cụng c ú.
TRIPs chỉ điều chỉnh các quyền kinh tế của Công ước Berne.
Ngoài việc khẳng định lại những chuẩn mực của Công ước Berne, Hip nh
TRIPs còn bổ sung nhng im mi sau:
- V cỏc nguyờn tc: ngoi vic cp n cỏc nguyờn tc c bn ca Cụng
c Berne, Hip nh TRIPs ó i xa hn Cụng c Berne vi vic ln u tiờn
a ra mt nguyờn tc mi, ú l nguyờn tc i x ti hu quc ti iu 4
Hip nh TRIPs. Trong xu th hi nhp v ton cu hoỏ hin nay, nguyờn tc
ny l mt nhu cu bc thit v cú ý ngha vụ cựng quan trng.
- V phm vi bo h: ngoi cỏc quy nh ti iu 2 khon 8 Cụng c
Berne, Hip nh cng loi tr c vic bo h i vi trỡnh t, phng phỏp tớnh
hoc cỏc khỏi nim toỏn hc.

16


- V cỏc i tng c bo h: cng ging nh Hip c quyn tỏc gi
ca WIPO, Hip nh b sung thờm hai loi i tng c th c bo h l cỏc
chng trỡnh mỏy tớnh v cỏc b su tp d liu. Ngoài ra, Điều 11 TRIPs nói
đến quyền cho thuê, quyền này không có trong Công ước Berne.
- V vn thc thi quyn tỏc gi: Nu nh Cụng c Berne mi ch
cp n vn thc thi quyn tỏc gi mt cỏch s lc thỡ Hip nh TRIPs ó
ginh hn Phn III quy nh v vn thc thi quyn SHTT, bao gm c
quyn tỏc gi. Phn III v IV ca Hip nh quy nh rng cỏc nc thnh viờn
phi quy nh trong lut phỏp quc gia ca mỡnh cỏc th tc cho phộp ỏp dng
cỏc bin phỏp cú hiu qu i vi cỏc hnh vi xõm phm quyn SHTT. ng
thi, cỏc quc gia thnh viờn cng phi quy nh mt c ch nhm ngn chn cỏc
hnh vi tỏi vi phm cỏc quyn ú. c bit, Cụng c Berne cha cú ch ti no
ỏp dng i vi cỏc nc thnh viờn khụng thc thi ngha v theo quy nh ca
Cụng c. Vi TRIPs, iu ny hon ton khỏc, nu quc gia no khụng thc
hin s khụng th gia nhp WTO v b ỏp dng nhiu ch ti khỏc. õy l mt
li th rt ln ca TRIPs so vi Cụng c Berne v cỏc iu c quc t v
quyn tỏc gi khỏc.
1.5. Sự tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy
định của Công ước Berne về quyền tác giả
1.5.1. Sự tương đồng giữa quy định của pháp luật Việt Nam với quy định
của Công ước Berne về quyền tác giả
Hiện nay, các quy định về bảo hộ quyền tác giả được ghi nhận trong BLDS
sửa đổi năm 2005 (từ Điều 735 đến Điều 743), Luật SHTT năm 2005 và văn bản
pháp luật khác.
Luật SHTT 2005 là đạo luật thống nhất đầu tiên về SHTT của Việt Nam. Sự
ra đời của Luật SHTT 2005 đánh dấu bước chuyển biến lớn trong việc hoàn thiện
khung pháp lý về quyền tác giả. Luật về cơ bản đã khắc phục được những hạn


17


chế của BLDS cũ4, tiếp cận được các tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với Công ước
Berne cũng như các Công ước quốc tế, các Hiệp định song phương về quyền tác
giả mà Việt Nam đã tham gia. Điều này được thể hiện ở một số điểm dưới đây:
Về quyền nhân thân và quyền tài sản, Luật SHTT 2005 đã được thiết kế theo
hướng chỉ rõ các quyền nhân thân (Điều 19), quyền tài sản (Điều 20), đồng thời
quy định về chủ sở hữu quyền tác giả phù hợp với quy định tại Luật mẫu của
WIPO về quyền tác giả và quyền liên quan cũng như Công ước Berne.
Các thuật ngữ, khái niệm tại Luật SHTT cũng đã được tiếp thu từ phần giải
thích thuật ngữ của Luật mẫu WIPO về quyền tác giả, do đó đã phù hợp với Công
ước Berne. Ví dụ: Về thuật ngữ tác phẩm đã công bố, Luật SHTT 2005 quy
định là tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả
để phổ biến đến công chúng với một số lượng bản sao hợp lý5 hoàn toàn phù hợp
với Công ước Berne, đã khắc phục được sai sót trong Điều 5 Nghị định 76/CP
ngày 29/11/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong
BLDS. Tại Nghị định 76/CP đã không quy định rõ công bố phải có sự đồng ý của
tác giả, không lấy sự dịch chuyển bản sao của tác phẩm làm yếu tố quyết định.
Khái niệm chủ sở hữu quyền tác giả6 cũng đã được sử dụng để thay thế cho khái
niệm chủ sở hữu tác phẩm trong BLDS cũ, khắc phục tình trạng gây hiểu lầm
giữa sở hữu quyền tác giả với sở hữu đồ vật cụ thể.
Ngoài ra tại Luật SHTT 2005 cũng đã đưa ra quy định về các hành vi xâm
phạm quyền tác giả7, có một phần riêng về bảo vệ quyền SHTT, trong đó có
quyền tác giả8, qua đó các chủ thể có thể tự bảo vệ quyền hoặc yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền9 tiến hành các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự và
các biện pháp khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, các
biện pháp bảo đảm thực thi theo quy định của Hiệp định TRIPs về các khía cạnh
liên quan đến thương mại của quyền SHTT cũng đã được thể chế hoá trong Luật

4

BLDS 1995
Thuật ngữ 9, Điều 4 Luật SHTT 2005
6
Điều 36 Luật SHTT 2005
7
Điều 28 Luật SHTT 2005
8
Phần V Luật SHTT 2005
9
Điều 200 Luật SHTT 2005
5

18


SHTT 2005, nó sẽ góp phần khắc phục tình trạng thực thi quyền SHTT nói chung
và quyền tác giả nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế trong thời gian qua.
Với những phân tích ở trên, có thể thấy Luật SHTT 2005 bao gồm 6 Phần
với 222 Điều, về cơ bản phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và Công ước Berne.
Đồng thời, Luật là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo hộ và thực thi quyền tác giả
trong giai đoạn hiện nay, góp phần thúc đẩy quá trình gia nhập WTO của Việt
Nam.
1.5.2. Một số quy định khác nhau giữa Luật SHTT 2005 và Công ước
Berne
Như phần trên đã phân tích, các quy định về quyền tác giả trong Luật sở hữu
trí tụê 2005, về cơ bản phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và Công ước Berne.
Tuy nhiên, một số quy định của Luật sở hữu trí tụê 2005 chưa phù hợp với Công
ước, cụ thể:

Thứ nhất, về các loại hình tác phẩm được bảo hộ
Luật SHTT 2005 điểm b khoản 1 Điều 14 có quy định bài nói khác cũng
là một trong những tác phẩm được bảo hộ. Với quy định này Việt Nam đã đơn
phương mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ quyền tác giả sang một phạm trù
không xác định là tác phẩm nói miệng, tức tác phẩm không được định hình dưới
dạng vật chất cụ thể. Thực tế cho thấy, nếu không có các quy định hướng dẫn cụ
thể như thế nào là bài nói, bài nói như thế nào thì được bảo hộ, bào nói nào
không được coi là đối tượng cần bảo hộ

thì quy định này sẽ tạo nên rất nhiều

cách hiều khác nhau và gây khó khăn cho quá trình giải thích và áp dụng pháp
luật. Đồng thời, việc bảo hộ loại tác phẩm này kéo theo nhiều hậu quả, chẳng hạn
số lượng tác phẩm phải bảo hộ tăng lên đáng kể, không có bằng chứng để xử lí
khi xảy ra tranh chấp. Đồng thời, trên thực tế công chúng không được hưởng lợi
gì từ việc nhà nước bảo hộ tác phẩm, vì hộ không thể tiếp cận được tác phẩm nói
miệng. Cho đến nay, không có một điều ước quốc tế nào cũng hầu như không có
nước nào quy định như vậy.
Thứ hai, giới hạn quyền đối với chương trình máy tính
19


Chương trình máy tính là loại đối tượng mới, rất phức tạp nhưng đồng thời
cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động khoa học, công nghệ, thông tin, giải
trí... Nhưng Luật không quy định giới hạn cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc
tế đê đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công chúng, nhất là công chúng ở
một nước nghèo như Việt Nam. Công chúng không được quy định rõ quyền làm
một bản sao chương trình để lưu giữ, đề phòng khi có sự cố kĩ thuật khi sử dụng
bản gốc. Công chúng không được quy định rõ quyền giải mã, phân tích chương
trình để tìm hiểu nguyên lí hoạt động, cấu trúc... phục vụ cho việc sáng tạo

chương trình mới hoặc sửa đổi chương trình cho tương thích với giao diện, đảm
bảo cho việc hoạt động đồng bộ với các hệ thống chương trình ứng dụng khác.
Luật không sử dụng khả năng rút ngắn thời hạn bảo hộ so với thời hạn bảo hộ
chung (tính thời hạn theo đời người cộng 50 năm)10.
Thứ ba, tác phẩm văn học và nghệ thuật dân gian
Khoản 2 điều 23 Luật SHTT 2005 quy định về quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Với quy định này, tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian giống như tác phẩm thuộc về công chúng do hết thời hạn bảo hộ
quyền tài sản theo quy định tại Điều 43 Luật SHTT 2005.
Như vậy tất cả mọi người, kể cả người nước ngoài được tự do sử dụng kho
tàng di sản văn học và nghệ thuật dân gian của Việt Nam, chỉ với điều kiện người
sử dụng thực hiện một số nghĩa vụ mang tính phi kinh tế và điều kiện khác. Quy
định này không phù hợp với khoản 4 Điều 15 Công ước Berne.
Thứ năm, về nội dung quyền tác giả. Nhìn chung, những quy định liên quan
đến nội dung quyền tác giả trong Luật SHTT 2005 là thống nhất với các quy định
của Công ước. Tuy nhiên, tại điều 20 Luật SHTT 2005 còn quy định thêm một
quyền tài sản khác là quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh,
chương trình máy tính. Đây là quy định tương đối phù hợp với hiện trạng sử
dụng và khai thác tác phẩm tại Việt Nam. Công ước Berne không quy định quyền
trên.
10

Đỗ Khắc Chiến, "10 ẩn họa đối với lợi ích của Việt Nam", Người đại biểu nhân dân số 221 (613), ngày
15.11.2005.

20


2. Thực thi Công ước Berne tại Việt Nam
2.1. ý nghĩa, mục đích của việc thực thi Công ước

Thực thi quyền tác giả được hiểu là tổng hợp các phương thức, biện pháp
nhằm triển khai trên thực tế cũng như bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu các
tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật.
Việc thực thi quyền tác giả nói chung và Công ước Berne nói riêng có ý
nghĩa lớn đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cần nhận thức rõ
một điều rằng việc thực thi Công ước Benrne nằm trong cả một tổng thể của việc
thực thi quyền SHTT và không tách rời hệ thống các biện pháp thực thi tổng thể
trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do các đối tượng của quyền SHTT có những đặc
trưng khác nhau nên việc bảo hộ đối với từng lĩnh vực cũng có những điểm riêng,
đặc thù.
Thực thi quyền SHTT đem lại ý nghĩa to lớn đối với các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau đây:
- Ghi nhận và bảo vệ quyền của các chủ thể của quyền SHTT;
- Khuyến khích hoạt động sáng tạo ra các đối tượng của SHTT;
- Làm lạnh mạnh hoá hoạt động sáng tạo;
- Nâng cao ý thức tôn trọng quyền SHTT;
- Ngăn chặn, răn đe và xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT;
- Nâng cao vị thế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực SHTT;...
Mục đích, yêu cầu của việc thực thi Công ước
- Việc thực thi Công ước Berne cũng có các mục tiêu chung như việc thực
thi quyền SHTT, một mặt nhằm đáp ứng được đòi hỏi về bồi thường nhanh chóng
các vi phạm và để ngăn ngừa các vi phạm tiếp theo, mặt khác việc thực thi cũng
cần được áp dụng theo một cách thức nhất định để tránh tạo ra rào cản đối với
hoạt động thương mại hợp pháp và đưa ra những sự đảm bảo chống lại sự lạm
dụng các thủ tục đó.
21



×