Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chức năng của Viện Kiểm sát trong giai đoạn truy tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.05 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI - 2015


Lời cám ơn
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiến, được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy, cô, sự quan tâm giúp đỡ của
cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành
Luận văn thạc sỹ Luật học.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu cùng các
thầy, cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sỹ đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu, cách nghiên
cứu để giúp tôi có thể hiểu và xử lý đề tài một cách phù hợp nhất với khả năng
của mình. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Vũ Gia Lâm,
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi thực hiện luận văn.


Cuối cùng xin chân thành cám ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Huyền


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những nội dung nghiên cứu và kết luận khoa học của Luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác. Các số liệu trong
các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác
giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo và
đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................

1

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

5

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT

TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ .......................................................................
1.1. Một số vấn đề chung về chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố.......

5

1.1.1. Giai đoạn truy tố và khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai

5

đoạn truy tố..............................................................................................................
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong

10

giai đoạn truy tố........................................................................................
1.1.3. Mối quan hệ giữa các chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

12

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng của

14

viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố.............................................................
1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng thực hành

14

quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố..................................
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng kiểm sát


33

việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố...................
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN

39

KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN ......................................................................................................
2.1. Thực trạng thực hiện chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố........

39

2.1.1. Những kết quả đạt được khi thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong

39

giai đoạn truy tố. ....................................................................................................
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc khi thực hiện chức năng của Viện kiểm sát

44

trong giai đoạn truy tố..............................................................................................
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc khi thực hiện chức năng của

52

Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố...................................................................
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện .........................................................................


59

2.2.1. Giải pháp lập pháp.........................................................................................

59

2.2.2. Các giải pháp khác........................................................................................

65

KẾT LUẬN............................................................................................................

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................

71


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.

BLHS

Bộ luật Hình sự

2.

BLTTHS


Bộ luật Tố tụng hình sự

3.

CQĐT

Cơ quan điều tra

4.

TNHS

Trách nhiệm hình sự

5.

TTHS

Tố tụng hình sự

6.

VKS

Viện kiểm sát

7.

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

8.

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện
mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải đẩy mạnh công cuộc cải
cách tư pháp, chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm
xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, công bằng và nghiêm minh theo hướng
ngày càng chú trọng hơn đến lợi ích của cá nhân và không xử oan người vô tội.
Viện kiểm sát (VKS) là một trong những cơ quan trọng yếu trong hệ thống các cơ
quan tư pháp được giao nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự
pháp luật, đảm bảo sự ổn định cho xã hội. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”. Chức năng cơ bản
và quan trọng này của VKS phải được thực hiện liên tục và xuyên suốt trong tất cả
các giai đoạn tố tụng hình sự, đặc biệt là giai đoạn truy tố.

Thực tiễn những năm qua, việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn
truy tố đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, góp phần vào công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và toàn
xã hội, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đó thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như một số
bản cáo trạng chưa đảm bảo về mặt hình thức cũng như nội dung, đánh giá các tình
tiết của vụ án không đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị can, sai lầm
trong áp dụng pháp luật dẫn đến quyết định trong cáo trạng chưa chính xác; việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án,... không đúng quy định
của pháp luật. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết các
vụ án hình sự.
Vì thế nghiên cứu khoa học một cách chuyên biệt về “Chức năng của VKS
trong giai đoạn truy tố” bằng việc phân tích một số vấn đề lý luận, đánh giá thực


2

trạng thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn truy tố, tìm ra nguyên nhân của
những hạn chế, vướng mắc để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn truy tố là cần thiết, mang
ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu thông tin, tác giả nhận thấy chưa có luận văn thạc sỹ,
luận án tiến sỹ nào nghiên cứu trực tiếp và đầy đủ vấn đề này. Công trình nghiên
cứu mang tính đại cương có “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự”, Học
viện tư pháp; “Giáo trình tố tụng hình sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội; “Trình tự,
thủ tục giải quyết các vụ án hình sự”, Mai Thanh Hiếu và Nguyễn Chí Công, “Thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Lê
Hữu Thể,...
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu nhưng chỉ viết về chức năng của

Viện kiểm sát trong một số giai đoạn như “Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Trần Xuân
Quang, Luận văn thạc sỹ luật học 2009; “Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Nguyễn Hữu Khoa, Luận văn thạc sỹ luật học
năm 2010; “Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự”, Vương Thị Thanh Hương, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2010,... hay
nghiên cứu về từng chức năng của Viện kiểm sát như “Quyền công tố ở Việt Nam”,
Lê Thị Tuyết Hoa, Luận án tiến sỹ Luật học năm 2002; “Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Lê Lan Chi,
Luận văn thạc sỹ Luật học năm 1995,...
Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như
“Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự của Viện kiểm sát”, TS. Hoàng Thị Sơn, Tạp chí Luật học, Số đặc san về Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003; “Bàn về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình
sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, TS. Lê Thị Tuyết Hoa, Tạp chí Kiểm sát số
18/2007,...
Những công trình nghiên cứu trên đa số nghiên cứu chức năng của VKS
trong một số giai đoạn hoặc từng chức năng riêng lẻ của VKS. Vì vậy, việc nghiên


3

cứu một cách toàn diện và có hệ thống để làm sáng tỏ chức năng của VKS trong
giai đoạn truy tố là cần thiết.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận chung về chức năng của Viện
kiểm sát, quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố và thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về chức năng của Viện kiểm sát

trong giai đoạn truy tố đưới góc độ là một chế định pháp luật tố tụng hình sự. Cụ
thể:
Về lý luận, nghiên cứu khái niệm của giai đoạn truy tố nói chung và khái
niệm, các chức năng, các hình thức thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong giai đoạn truy tố nói riêng; nghiên cứu các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy
tố.
Thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố tại
Việt Nam từ năm 2010 - 2014 để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố, tác giả đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài
cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
và các hình thức thực hiện chức năng này.
- Làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố.


4

- Đánh giá thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của

Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; bám sát chủ trương
quan điểm của Đảng và Nhà nước về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Để thực hiện đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp để xây dựng khái niệm về chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố và nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành; phương
pháp thống kê, so sánh, phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn để làm rõ thực
trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố.
6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học, góp
phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn truy tố. Qua đó thấy được vai trò to lớn trong công tác đấu tranh phòng ngừa
tội phạm. Luận văn đã nêu ra một số giải pháp nâng cao chất lượng việc thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Hơn nữa, các kết quả nghiên
cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ quá trình học tập,
nghiên cứu môn Luật tố tụng hình sự cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát
trong hoạt động nghiệp vụ của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn chia thành 2 chương.
Chương 1: Một số vấn đề chung và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
Chương 2: Thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố và một số giải pháp hoàn thiện.


5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1.1. Giai đoạn truy tố và khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố
1.1.1.1. Giai đoạn truy tố
Tố tụng hình sự Việt Nam được xác định như một hệ thống các giai đoạn gắn
liền với hoạt động đặc trưng của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến
hành tố tụng và hoạt động của người tham gia tố tụng khác mà giai đoạn trước là
tiền đề của giai đoạn sau và giai đoạn sau là hệ quả của giai đoạn trước. Xuất phát
từ các cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn khác nhau mà có những cách
phân chia các giai đoạn của TTHS.
Nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003, nếu trừ phần thứ nhất và
coi mỗi phần của Bộ luật quy định một giai đoạn tố tụng thì thấy người làm luật
phân chia quá trình tố tụng thành năm giai đoạn khác nhau như sau:
- Khởi tố, điều tra và quyết định việc truy tố (Phần thứ hai);
- Xét xử sơ thẩm (Phần thứ ba);
- Xét xử phúc thẩm (Phần thứ tư);
- Thi hành bản án và quyết định của Tòa án (Phần thứ năm);
- Xét lại bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Phần thứ
sáu).
Việc phân chia các giai đoạn tố tụng theo BLTTHS chủ yếu dựa theo trình tự
thời gian và các hoạt động tố tụng được thực hiện. Tuy nhiên, việc quy định khởi tố,
điều tra vụ án và quyết định việc truy tố là một giai đoạn như BLTTHS năm 2003
chưa thực sự hợp lý. Bởi lẽ mỗi giai đoạn tố tụng có những nhiệm vụ tố tụng nhất
định, riêng biệt: nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án là xác định dấu hiệu tội phạm

để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án, nhiệm vụ giai đoạn điều tra là xác


6

định các tình tiết của tội phạm và người phạm tội để quyết định khởi tố bị can, kết
thúc điều tra đề nghị truy tố hay đình chỉ điều tra, nhiệm vụ của giai đoạn truy tố là
kiểm tra kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà
cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của
Viện kiểm sát được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Đồng thời, mỗi giai đoạn có những cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhất định và phạm vi quyền
và nghĩa vụ tố tụng của mỗi chủ thể quan hệ tố tụng cũng khác nhau trong mỗi giai
đoạn. Ví dụ: Trong giai đoạn điều tra vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng chính là
CQĐT, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra, còn VKS là cơ quan thực hiện
việc kiểm sát điều tra. Trong giai đoạn truy tố. VKS là cơ quan tiến hành tố tụng
chính. Mặt khác, quy định khởi tố, điều tra vụ án và quyết định việc truy tố thành
một giai đoạn tố tụng trong khi chưa có sự xác định rõ ràng các chức năng tố tụng
của các cơ quan tiến hành tố tụng khiến các hoạt động tố tụng không hiệu quả và
kéo dài.
Trong nghiên cứu lý luận về tố tụng hình sự, thường chia quá trình tố tụng
thành các giai đoạn tương ứng với những cơ quan và người tiến hành tố tụng. Đó là:
- Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự;
- Giai đoạn điều tra vụ án;
- Giai đoạn truy tố;
- Giai đoạn xét xử sơ thẩm;
- Giai đoạn xét xử phúc thẩm;
- Giai đoạn thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
- Giai đoạn xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bằng thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm [25, tr.10 - 11].

Theo GS.TSKH Lê Cảm, có 5 giai đoạn tố tụng hình sự là giai đoạn khởi tố
vụ án, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án
[6, tr.26].
Như vậy, hai quan điểm trên đều thống nhất truy tố là một giai đoạn tố tụng
độc lập. Điều đó đã đáp ứng tốt hơn và làm cơ sở cụ thể hơn cho việc nghiên cứu,
xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến


7

hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng khác.
Giai đoạn điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố.
Do đó, giai đoạn truy tố được bắt đầu từ khi VKS nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố của CQĐT, kết thúc khi VKS ban hành các quyết định nhằm
giải quyết đúng đắn vụ án.
Với vị trí là một giai đoạn tố tụng hình sự độc lập, truy tố là giai đoạn mà
trong đó VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các
biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của
vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do CQĐT
chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng
bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ
hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Là một giai đoạn hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
giai đoạn truy tố được quy định nhằm thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đảm bảo hoạt động điều tra đã được tiến hành hoàn toàn tuân thủ pháp luật,
khách quan, toàn diện và đầy đủ.
- Đảm bảo việc ban hành các quyết định tố tụng là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 10 BLTTHS xác định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải
áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác

định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng...”. Trong giai đoạn này, VKS cần nghiên cứu tất cả các vấn đề được
thể hiện trong hồ sơ điều tra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án có tuân thủ các
quy định của pháp luật TTHS hay không? các vấn đề cần điều tra đã được làm rõ
chưa? còn có thiếu sót, sai lầm nào cần khắc phục không?,... Từ đó kịp thời ban
hành các quyết định tố tụng cần thiết nhằm hoàn thiện hồ sơ, khắc phục những vi
phạm pháp luật của CQĐT nếu có để đảm bảo việc quyết định truy tố bị can đúng
đắn, tạo cơ sở vững chắc cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước, tổ chức, công dân


8

được tôn trọng và bảo đảm. Thực hiện tốt chức năng của VKS trong giai đoạn truy
tố sẽ góp phần tích cực và hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.1.2. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
Chức năng theo tiếng Latin là “functio” có nhiều nghĩa khác nhau, có thể
hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, vai trò hay hiểu là loại hoạt động đặc biệt của
sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó. Tùy ngữ cảnh cụ thể để áp dụng nhưng
nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt động để thực hiện nhiệm vụ của
mình [12, tr.05].
Theo Từ điển luật học, chức năng là phương diện, mặt hoạt động chủ yếu của
một thiết chế (cơ quan, tổ chức) [5, tr.13]. Theo nghĩa Hán Việt, chức là việc phần
mình, năng là sức làm được. Từ đó, chức năng cũng còn được hiểu là hoạt động chủ
yếu của một cơ quan, tổ chức nào đó. Có thể lấy ví dụ như: chức năng của Tòa án là
xét xử.
Các cơ quan nhà nước cấu thành nên bộ máy nhà nước và các nhiệm vụ,
chức năng của Nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước. Trong quá
trình hoạt động, mọi nhà nước đều thiết lập các cơ quan khác nhau và trao cho

chúng những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để thực hiện chức năng của mình. Chức
năng của cơ quan nhà nước được hiểu là phương diện hoạt động chủ yếu, có tính
chất cơ bản, lâu dài và xuất phát từ bản chất của nhà nước để thực hiện các quyền
và nghĩa vụ trong phạm vi thẩm quyền nhằm đạt được những mục đích nhất định
phục vụ việc thực hiện chức năng chung của bộ máy nhà nước.
Trong tố tụng hình sự, VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng đồng thời thực hành quyền công tố nhà nước đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất [23, tr.327]. Thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS
được ghi nhận trong khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức
VKSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tại
Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án. Viện


9

kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát
hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy
định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, VKS có hai chức năng là thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đây là hai chức năng đặc trưng,
cơ bản của VKS, gắn bó chặt chẽ với nhau và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tố
tụng hình sự. Đồng thời, trong một phạm vi nhất định, hai chức năng này có những
nội dung xâm nhập nhau không thể tách rời, vừa thuộc chức năng này vừa thuộc
chức năng kia. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự thống nhất trong chức năng của
VKS trong cả quá trình tố tụng hình sự cũng như trong giai đoạn truy tố. Với tính

chất là một giai đoạn tố tụng hình sự độc lập và quan trọng, pháp luật quy định VKS
có những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau để thực hiện các chức năng của mình.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Chức năng của VKS trong
giai đoạn truy tố là việc VKS tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị can
ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định khác để giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự, đồng thời bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
Chức năng của VKS trong tố tụng hình sự nói chung cũng như trong giai
đoạn truy tố nói riêng bao gồm: thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Ta có thể đưa ra khái niệm cho từng chức năng cụ thể này như sau:
Thứ nhất, chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Thuật ngữ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp
năm 1980 khi quy định về chức năng của VKS. Mặc dù đến nay trong nghiên cứu
khoa học còn nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau về quyền công tố và thực hành
quyền công tố, song cơ bản đều cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền
này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện để phát
hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi
phạm tội. Ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho VKS. Thực hành
quyền công tố là chức năng đặc thù của VKS, thể hiện ở việc sử dụng tổng hợp các


10

quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
vụ án hình sự [19, tr.57].
Như vậy, từ khái niệm giai đoạn truy tố (đã đề cập ở trên) có thể rút ra khái
niệm: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố là việc VKS sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bằng việc quyết định truy tố bị can
trước Tòa án để xét xử; trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hay tạm đình chỉ
vụ án hình sự.
Thứ hai, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy
tố
Trong khoa học tố tụng hình sự Việt Nam chưa có một định nghĩa thống nhất
về khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”. Theo từ điển
Tiếng Việt thì kiểm sát là kiểm tra việc chấp hành pháp luật nhà nước [22, tr.523].
Theo Từ điển Luật học thì kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem
xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành
vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất [27, tr.441]. Theo quy định tại pháp luật hiện
hành thì chỉ có một chủ thể duy nhất là VKS có chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự.
Xuất phát từ khái niệm giai đoạn truy tố và những nội dung đã trình bày trên,
có thể kết luận rằng: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố là
việc VKS kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể
tham gia tố tụng hình sự trong giai đoạn truy tố nhằm đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện chức năng của Viện kiểm
sát trong giai đoạn truy tố
1.1.2.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Việc quy định chức năng của VKS trong giai đoạn truy tố có ý nghĩa hết sức
to lớn. Từ khi ra đời đến nay, Viện kiểm sát nhân dân là thiết chế Hiến định trong
bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Nhà nước và pháp


11


luật trao chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hai chức
năng đặc trưng, tiêu biểu trên của VKS đã được ghi nhận và khẳng định trong các
bản Hiến pháp; các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020”, Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Pháp lệnh Kiểm sát viên
VKSND năm 2002. Do đó, việc quy định chức năng của VKS nói chung cũng như
trong giai đoạn tố tụng nói riêng đã góp phần thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng,
chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, đặt nền tảng và dần hoàn thiện
cho việc hình thành cơ sở lý luận về chức năng tố tụng hình sự và chức năng trong
giai đoạn truy tố của VKS, bảo đảm thống nhất về mặt nhận thức.
Truy tố là một giai đoạn tố tụng hình sự quan trọng. Do đó, với việc thực
hiện hiệu quả và tích cực chức năng của mình, VKS đã góp phần không nhỏ vào sự
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và tự do của công dân
trong các giai đoạn trước khi xét xử tại Tòa án, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực
của Nhà nước pháp quyền. Đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động
của VKS nói riêng cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung; tham gia
tích cực vào việc giáo dục ý thức pháp luật của nhân dân, từ đó góp phần giữ vững
an ninh chính trị, ổn định an ninh trật tự xã hội, tăng cường hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc quy định chức năng cụ thể, rõ ràng còn góp phần tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trong
phạm vi chức năng của mình, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động
thực tiễn.
Trước hết, thực hiện tốt chức năng của VKS trong giai đoạn truy tố đã góp
phần khẳng định và nâng cao vai trò của VKS. Các quyết định của VKS trong giai
đoạn này tạo cơ sở pháp lý để phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các giai đoạn tố
tụng và các quan hệ tố tụng. Nếu có đủ căn cứ để truy tố thì quyết định truy tố sẽ
phát sinh trình tự giải quyết tố tụng mới đó là giai đoạn xét xử sơ thẩm, quan hệ tố

tụng mới là quan hệ giữa VKS với Tòa án, giữa Tòa án với bị can, những người


12

tham gia tố tụng. Giai đoạn truy tố là tiền đề của giai đoạn xét xử, nếu VKS không
truy tố thì Tòa án sẽ không có cơ sở pháp lý để đưa vụ án ra xét xử. Quyết định truy
tố của VKS xác định phạm vi xét xử của Tòa án. Việc truy tố kịp thời, chính xác sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử các vụ án hình sự của Tòa án. Nếu có
căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
sẽ đưa vụ án quay trở lại giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra thực hiện các yêu cầu
điều tra bổ sung của VKS, quan hệ tố tụng lúc này là quan hệ giữa VKS và Cơ quan
điều tra. Trong trường hợp tạm đình chỉ vụ án thì trình tự giải quyết vụ án cũng bị
tạm dừng, còn nếu trong trường hợp đình chỉ vụ án thì trình tự tố tụng và quan hệ tố
tụng đều chấm dứt.
Thêm vào đó, ở giai đoạn truy tố, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình giúp kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng
mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng; phát hiện và kịp thời sửa chữa,
khắc phục những thiếu sót cũng như vi phạm pháp luật của CQĐT trong quá trình
điều tra. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để xác định căn cứ xây dựng cáo trạng,
VKS có trách nhiệm trực tiếp kiểm tra, xem xét, phát hiện những thiếu sót hay vi
phạm pháp luật của CQĐT để kịp thời sửa chữa, khắc phục hoặc đề nghị CQĐT sửa
chữa, khắc phục những thiếu sót ấy. Nếu phát hiện việc điều tra chưa đầy đủ, chưa
làm rõ những chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến nội dung vụ án hoặc
có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra thì VKS trả lại
hồ sơ yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung; nếu phát hiện có những căn cứ pháp luật
không cho phép tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc bị can nên phải tạm
đình chỉ hoặc thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật thấy không cần thiết
phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ
án.

1.1.3. Mối quan hệ giữa các chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố
Theo Từ điển Tiếng Việt “mối quan hệ” được hiểu là “sự gắn liền về mặt nào
đó giữa hai hay nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có
thể tác động đến sự vật kia” [28, tr.485]. Từ đó có thể hiểu mối quan hệ giữa hai
hay nhiều sự vật, hiện tượng thể hiện ở sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự
tồn tại và phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ đã khẳng định rằng các sự vật, hiện


13

tượng tồn tại trong thế giới khách quan không thể tồn tại độc lập mà luôn là một thể
thống nhất, có sự tác động lẫn nhau.
Vì vậy, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hai
chức năng độc lập, có đối tượng tác động, phạm vi, nội dung hoạt động khác nhau
nhưng lại có quan hệ chặt chẽ, gắn bó, tác động qua lại với nhau. Hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật có hiệu quả sẽ là cơ sở giúp hoạt động thực hành quyền
công tố đúng đắn, chính xác, khách quan và ngược lại hoạt động thực hành quyền
công tố cũng là tiền đề cho hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Thực tiễn
thực hiện chức năng của ngành kiểm sát cho thấy, trên cơ sở các quy định của pháp
luật, VKS các cấp luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm đấu tranh
chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội được phát hiện phải
được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo hoạt động
của các cơ quan tư pháp hợp pháp và có căn cứ, tuân thủ đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong giai đoạn truy tố, VKS thực hiện chức năng,
nhiệm vụ nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố
tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định
của Viện kiểm sát được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm
hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật.

Khi tiếp nhận hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra đề nghị truy tố, Kiểm sát viên
phải nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng bao gồm: kết luận điều tra của Cơ quan điều tra,
các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và biên bản hoạt động điều tra của Điều
tra viên, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các tài liệu chứng cứ có trong
hồ sơ. Đồng thời, kiểm tra, xem xét các vấn đề về tố tụng đã đúng với quy định của
pháp luật chưa, các vấn đề cần chứng minh làm rõ trong vụ án đã được điều tra toàn
diện chưa, chứng cứ đã thu thập đầy đủ chưa. Trên cơ sở đánh giá tính hợp pháp và
có căn cứ các hoạt động của Cơ quan điều tra, VKS sẽ ban hành quyết định truy tố
nếu thấy đủ căn cứ truy tố, trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu thấy chưa đủ căn cứ mà
cần thiết phải bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án
hình sự nếu phát hiện có những căn cứ pháp luật không cho phép tiếp tục tiến hành
tố tụng đối với vụ án hoặc bị can. Như vậy, chính hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc ra các quyết định tố tụng và thực hiện hành vi tố tụng của Cơ


14

quan điều tra trong giai đoạn trước đó đã tạo cơ sở cho việc thực hiện công tác thực
hành quyền công tố. Các quyết định trong giai đoạn truy tố của VKS chỉ chính xác,
đúng đắn nếu các hoạt động tố tụng của giai đoạn điều tra được tiến hành hợp pháp
và có căn cứ. Ngược lại, trong giai đoạn truy tố, VKS thực hành quyền công tố tức
là truy tố người phạm tội và hành vi phạm tội, đồng thời cũng kiểm tra lại tính hợp
pháp và có căn cứ của các hoạt động điều tra (hoạt động chứng minh tội phạm) ở
giai đoạn trước.
Như vậy, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn truy tố là hai chức năng có tính độc lập tương đối nhưng quan hệ mật thiết
với nhau tạo thành hai mặt thống nhất trong hoạt động của VKS ở giai đoạn tố tụng
này. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động tố
tụng được hợp pháp, khách quan, đầy đủ, tương hỗ cho chức năng thực hành quyền
công tố nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, truy tố đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật.
Cả hai chức năng này đều có chung mục đích là nhằm đảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều bị xử lý kịp thời, truy tố được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người phạm tội; đồng thời,
vụ án phải được giải quyết một cách đúng đắn, khách quan, hợp pháp và công bằng.
Tính độc lập của hai chức năng này chỉ là tương đối, trong một số trường hợp khó
có thể phân định cụ thể và rõ ràng giữa hai chức năng này. Việc thực hiện đồng thời
hai chức năng này là nhiệm vụ hết sức nặng nề đòi hỏi Kiểm sát viên phải nỗ lực
rèn luyện, nêu cao tinh thần trách nhiệm.
1.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
1.2.1.1. Phạm vi thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai
đoạn truy tố
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố
có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định nhằm kiểm tra lại tính hợp


15

pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT đã áp dụng để bảo
đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu
trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Phạm vi thực hành
quyền công tố của VKS trong giai đoạn truy tố được thực hiện từ khi VKS nhận hồ
sơ vụ án hình sự kèm theo bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố do Cơ quan điều
tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong các quyết định sau:
Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng theo thủ tục thông thường hoặc bằng
quyết định truy tố theo thủ tục đặc biệt; Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự.

1.2.1.2. Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai
đoạn truy tố
Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả
những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội [19, tr.62]. Pháp luật hiện hành đã quy định một số quyền năng pháp lý
mà VKS có thể sử dụng để thực hiện chức năng của mình. Nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong giai đoạn truy tố đã được quy định tại các Điều 166, 168, 169
BLTTHS năm 2003. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (hoặc quyết định
truy tố)
Theo quy định của BLTTHS, thì sau khi kết thúc điều tra, CQĐT phải gửi hồ
sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố đến VKS để quyết định việc truy
tố bị can (nếu vụ án không bị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra). Sau khi nghiên
cứu, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ, khách quan hồ sơ vụ án và bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố của CQĐT, nếu thấy có đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình
sự thì VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng (hoặc quyết
định truy tố). Khoản 1 Điều 23 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa
án”. Quyết định việc truy tố bị can cũng là một nhiệm vụ, quyền hạn được quy định
tại Điều 16 Luật tổ chức VKSND năm 2014. Quyền quyết định truy tố là quyền
năng pháp lý rất quan trọng mà VKS là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao cho


16

và hình thức thể hiện của nó trong tố tụng hình sự là việc truy tố bị can ra trước Tòa
án bằng bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố). Như vậy, cáo trạng (hoặc quyết
định truy tố) là hình thức thực hiện quyền truy tố của VKS, qua đó VKS thay mặt
Nhà nước nêu lên những căn cứ pháp lý chứng minh tội phạm và thể hiện quan

điểm của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội. Về cơ bản, VKS chỉ được
ra quyết định truy tố để xét xử những người có hành vi phạm tội đã được khởi tố,
điều tra và được Cơ quan điều tra hoàn thành hồ sơ đề nghị truy tố (có trường hợp
VKS truy tố cả bị can đã được CQĐT đình chỉ điều tra (khoản 4 Điều 164
BLTTHS). Do đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải
đảm bảo tính có căn cứ, đúng pháp luật và chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước.
Theo Điều 166 BLTTHS năm 2003, thời hạn quyết định truy tố của VKS đối
với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng là hai mươi ngày, đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là ba mươi ngày, kể từ
ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của CQĐT. Trong trường hợp
cần thiết, Viện trưởng VKS có thể gia hạn thêm, nhưng không quá mười ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày
đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.
Bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố) là văn bản pháp lý thể hiện quan
điểm của VKS về việc xử lý tội phạm và người phạm tội. Quan trọng hơn, nó còn là
một trong những căn cứ để Tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đồng
thời, bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố) cũng quy định giới hạn xét xử của Tòa
án. Điều này đã được quy định cụ thể và rõ ràng tại Điều 196 BLTTHS. Đó là: “Tòa
án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố
và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác
với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”. Trên cơ sở đó, Tòa án
thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo chuẩn bị cho việc xét xử như phân công
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, thành lập Hội đồng xét xử, yêu cầu Đoàn luật sư phân


17


công Văn phòng luật sư cử người bào chữa trong trường hợp pháp luật quy định, dự
kiến triệu tập những người tham gia tố tụng tại phiên tòa,...
Là văn bản pháp lý tố tụng thể hiện quyền đặc trưng nhất của Viện kiểm sát,
bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố) phải tuân thủ đúng hình thức của một văn
bản pháp lý đặc thù. Đặc biết đối với hình thức quyết định truy tố phổ biến nhất
hiện nay là bản cáo trạng thì nội dung của cáo trạng đã được quy định cụ thể, rõ
ràng tại Điều 167 BLTTHS năm 2003. Theo đó:
1. Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra
tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những
tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và
mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật
hình sự được áp dụng.
2. Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng; họ tên, chức vụ
và chữ ký của người ra bản cáo trạng.
Ngoài ra, theo mẫu cáo trạng số 107 kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐVKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì bố
cục bản cáo trạng gồm 04 phần: Phần nêu căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của
VKS, Phần trình bày hành vi (các hành vi phạm tội) của bị can (các bị can), Phần
kết luận và Phần quyết định.
Ngoài yêu cầu về nội dung, hình thức của cáo trạng cũng phải được đảm bảo.
Đó là phải được lập theo đúng kỹ thuật xây dựng văn bản, được đánh máy rõ ràng,
không sai lỗi chính tả, không tẩy xóa, viết thêm. Nếu bản cáo trạng có nhiều trang
thì phải đóng dấu giáp lai các trang. Người ký cáo trạng phải là người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật (Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND các
cấp, Vụ trưởng hoặc Phó Vụ trưởng VKSND tối cao).
Trong thời hạn 3 ngày kể từ khi ban hành cáo trạng, VKS phải thông báo cho
người bào chữa biết, giao cáo trạng cho bị can (có biên bản giao nhận). Cũng trong
thời hạn trên, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
Thứ hai, trả hồ sơ để điều tra bổ sung



18

Để đảm bảo giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và có căn cứ,
sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu thấy có căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTHS
thì trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
Theo quy định tại Điều 168 BLTTHS, VKS ra quyết định trả hồ sơ cho
CQĐT để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy:
1. Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát
không thể tự mình bổ sung được;
2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng
phạm khác;
3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần được điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định
yêu cầu điều tra bổ sung.
- Trường hợp thứ nhất, còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án
mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định và giải thích chứng cứ
quan trọng là gì và thế nào là không thể tự mình bổ sung được. Có quan điểm cho
rằng “đã là chứng cứ thì đều có giá trị chứng minh như nhau, không thể chia thành
chứng cứ quan trọng và không quan trọng” [7, tr.32]. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch
số 01/2010/TTLT-VKSTC-BCA-TATC ngày 28/7/2010 của Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung (gọi tắt là Thông tư số
01/2010/TTLT) đã quy định rất cụ thể thế nào là chứng cứ quan trọng, khắc phục
được những bất đồng về nhận thức và áp dụng về chứng cứ quan trọng của vụ án.
Theo đó, “Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 và
điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS
dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và

nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện,
đúng pháp luật. Thiếu chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng
đối với vụ án:
- Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng
cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được


19

quy định trong Bộ luật hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi
phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự,
kinh tế, vi phạm hành chính...);
- Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra
vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội
phạm như thế nào;
- Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là
chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
- Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì
thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi
vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ
luật hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là
chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào,
trong giai đoạn tố tụng nào;
- Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác

định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường
hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là
yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình
phạt;
- Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; có tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự hoặc là
chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;


20

- Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là
chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo;
- Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của
hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
- Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63
của BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án,
như: Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên hoặc xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng
minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm
tội có tổ chức,...
Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng VKS
đều trả hồ sơ để điều tra bổ sung. VKS chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu thiếu
những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ
sung được. Trong thực tiễn áp dụng, vẫn còn nhiều bất đồng trong việc xác định
như thế nào là việc không thể tự mình bổ sung được. Có thể hiểu việc VKS không
thể tự mình bổ sung được là do không có điều kiện về phương tiện, công cụ, lực

lượng để thu thập, bổ sung chứng cứ hoặc việc điều tra bổ sung có nhiều khả năng
dẫn tới thay đổi tội danh của bị can [10, tr.17].
- Trường hợp thứ hai, có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc
có người đồng phạm khác
Thực tiễn đã chứng minh, trong rất nhiều vụ án, bị can không chỉ thực hiện
một hành vi phạm tội mà thực hiện nhiều hành vi phạm tội xâm phạm đến nhiều
quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Ngoài ra còn có trường hợp nhiều bị
can cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội với sự chuẩn bị, lên kế hoạch kỹ càng,
phân công và phối hợp thực hiện giữa các thành viên, tập trung nhiều vào một số vụ
án như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy,
mua bán phụ nữ và trẻ em,... Vì vậy, sau khi nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy có căn cứ
để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác thì VKS trả
hồ sơ để điều tra bổ sung. Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 01/2010/TTLT thì
có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác”


×