Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Kết hôn trái pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.5 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THU THẢO

KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ LAN

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Lan người
đã định hướng về mặt khoa học, luôn tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt quá
trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo
Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy chúng em
trong suốt thời gian qua.
Đồng thời, em cũng xin được cảm ơn cha mẹ, người thân và các bạn học viên đã
luôn ở bên, động viên, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập cũng như
nghiên cứu.
Mặc đù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thành Luận văn này nhưng Luận văn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của


các thầy, cô giáo để Luận văn thêm hoàn thiện.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Học viên
Phạm Thu Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong
luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai công bố
trong các công trình khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thu Thảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng dân sự
Hôn nhân và gia đình
Năng lực hành vi dân sự
Uỷ ban nhân dân

BLDS
BLHS
BLTTDS
HN&GĐ
NLHVDS
UBND



MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT

1
5

1.1.

KHÁI NIỆM VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT

5

1.1.1.

Khái niệm kết hôn

5

1.1.2.

Khái niệm kết hôn trái pháp luật

7

1.1.3.

Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật


9

1.2.

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VIỆT NAM

9

VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.2.1.

Quan niệm về kết hôn trái pháp luật

10

1.2.2.

Các trường hợp kết hôn trái pháp luật

12

1.2.3.

Chủ thể có quyền yêu cầu xử lý đối với trường hợp kết hôn trái pháp

15

luật
1.2.4.


Hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật

18

1.3.

PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP

22

LUẬT
1.3.1.

Pháp luật Thái Lan về kết hôn trái pháp luật

22

1.3.2.

Pháp luật Pháp về kết hôn trái pháp luật

24

Chương 2 KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

26

HIỆN HÀNH
2.1.


CÁC TRƯỜNG HỢP KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT

26

2.1.1.

Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn

26

2.1.2.

Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện

28

2.1.3.

Kết hôn khi một hoặc cả hai bên bị mất năng lực hành vi dân sự

31


2.1.4.

Kết hôn do vi phạm điều cấm

33


2.1.5.

Kết hôn giữa những người cùng giới tính

38

2.2

ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP

40

LUẬT
2.2.1.

Hủy kết hôn trái pháp luật

40

2.2.2.

Xử lý hành chính

51

2.2.3.

Xử lý hình sự

52


Chương 3 THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP

55

LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.1.

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP

55

LUẬT
3.1.1.

Nhận xét chung

55

3.1.2.

Một số vụ việc điển hình

60

3.2.

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

63


LUẬT VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
3.2.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kết hôn trái pháp luật

63

3.2.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kết hôn trái pháp luật

64

PHẦN KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
HN&GĐ là hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học, xã hội học,
luật học nghiên cứu, là một hình thái đặc biệt của quan hệ con người, nó
không những phản ánh chế độ xã hội mà còn thể hiện sự tiến bộ, văn minh của

xã hội đó. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào nhỏ nhất của
xã hội trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước
và xã hội.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình mà Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn dành sự quan tâm to lớn đối với vấn đề HN&GĐ nói chung
cũng như vấn đề kết hôn trái pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, trong xã hội hiện
nay, hiện tượng kết hôn trái pháp luật đang diễn ra khá phổ biến và phức tạp
đồng thời có xu hướng ngày càng gia tăng. Có nhiều nguyên nhân khách quan
cũng như chủ quan dẫn đến hiện tượng kết hôn trái pháp luật như: Do ảnh
hưởng của phong tục tập quán lạc hậu, do ý thức pháp luật của người dân còn
hạn chế, trình độ dân trí thấp, việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở
nhiều địa phương còn yếu kém… Việc kết hôn trái pháp luật không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể mà còn ảnh
hưởng đến đạo đức và trật tự xã hội.
Ngay từ Luật HN&GĐ năm 1959 Nhà nước ta đã quy định về kết hôn
trái pháp luật, theo thời gian quy định này tiếp tục được kế thừa và hoàn thiện
trong Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên, hiện
tượng kết hôn trái pháp luật vẫn không ngừng gia tăng và ngày càng có nhiều
diễn biến phức tạp hơn. Do đó để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đời sống Luật
HN&GĐ năm 2014 đã ra đời, với nhiều quy định mới về kết hôn trái pháp
luật. Với những quy định mới trong Luật HN&GĐ năm 2014 đòi hỏi cần phải
có sự tỉm hiểu và nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện. Xuất phát từ
những lý do trên cả về mặt lý luận và thực tiễn, chúng tôi đã quyết định chọn
đề tài: “Kết hôn trái pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận
văn tốt nghiệp cao học. Với mong muốn làm sáng tỏ hơn chế định kết hôn trái
pháp luật để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định
của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kết hôn trái pháp luật là một chế định pháp lý cơ bản và có ý nghĩa
quan trọng do đó, trong thời gian qua ở Việt Nam đã nhận được sự quan tâm

của một số tác giả, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này tuy


2

nhiên ở những cấp độ và khía cạnh khác nhau, có thể kể đến một số công trình
như:
- Nhóm giáo trình, sách bình luận: “Bình luận khoa học Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam” năm 2006 của tác giả Đinh Mai Phương; “Bình
luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” năm 2002 của tác giả
Nguyễn Ngọc Điện; “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình” năm 2008…
Các tài liệu trên hầu hết mới chỉ đưa ra phân tích, bình luận các quy
định về kết hôn trái pháp luật trong Luật HN&GĐ năm 2000 ở mức độ khái
quát, sơ lược có tính định hướng cho sinh viên tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi.
- Nhóm luận văn, đề tài khoa học: “Hủy việc kết hôn trái pháp luật –
Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật” Khóa luận tốt nghiệp cuả Đinh
Thị Thảo năm 2011; “Hủy kết hôn trái pháp luật” Khóa luận tốt nghiệp của
Hà Hương Giang năm 2012; “Về việc kết hôn trái pháp luật” của Thải Công
Khanh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2000; “Bàn về việc hủy kết hôn
trái pháp luật” của Thái Công Khanh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số
4/2007; “Bất cập của quy định hủy kết hôn trái pháp luật” của tác giả Huyền
Trang đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề sửa đổi, bổ sung
Luật HN&GĐ năm 2000/2013; “Thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật thuộc Tòa án nào?” của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng
trên tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2009.
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến một
số khía cạnh của vấn đề kết hôn trái pháp luật như: Hủy kết hôn trái pháp luật,
thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật…mà chưa đi
vào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện vấn đề kết hôn trái pháp luật.
Có thể thấy mỗi công trình nghiên cứu là sự nhìn nhận và giải quyết

vấn đề kết hôn trái pháp luật ở các góc độ khác nhau mà chưa đi vào nghiên
cứu một cách bao quát và toàn diện vấn đề. Như vậy, trong khoa học pháp lý ở
nước ta từ trước đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện về lý luận cũng như thực tiễn các quy định về kết hôn
trái pháp luật theo Luật HN&GĐ năm 2014. Với công trình của mình, chúng
tôi sẽ tiếp cận vấn đề một cách tổng quan về lý luận cũng như thực tiễn của
việc kết hôn trái pháp luật theo Luật HN&GĐ năm 2014. Do đó, công trình sẽ
không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trước đó.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại trong sự kết
hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề kết hôn trái pháp luật. Việc


3

nghiên cứu không chỉ giới hạn trong Luật HN&GĐ năm 2014 mà còn được đề
cập tới một số văn bản pháp luật khác có quy định về vấn đề này, cũng như
pháp luật của một số nước trên thế giới để luận văn có chiều sâu hơn. Tuy
nhiên, chúng tôi không nghiên cứu những quy định của pháp luật về kết hôn
trái pháp luật có yếu tố nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về
HN&GĐ.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các
phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng để làm rõ những vấn đề thuộc
phạm vi nghiên cứu;
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung cần
nghiên cứu, đưa ra hướng nghiên cứu một cách có lô-gic để làm sáng tỏ vấn

đề cần nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để nghiên cứu, xem xét pháp
luật Việt Nam qua các thời kỳ về kết hôn trái pháp luật; đồng thời nghiên cứu
so sánh pháp luật Việt Nàm với pháp luật của một số nước khác về vấn đề
trên;
- Phương pháp thống kê: Thống kê các số liệu có liên quan đến vấn đề
kết hôn trái pháp luật, từ đó phân tích và tổng hợp số liệu để rút ra các nhận
định phù hợp để làm cơ sở thực tiễn cho việc đưa ra các kiến nghị về việc
hoàn thiện pháp luật.
5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn nhằm làm sáng tỏ:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật và ý nghĩa
của vấn đề này dưới góc độ xã hội và pháp lý;
- Những vấn đề lý luận liên quan đến kết hôn trái pháp luật;
- Những quy định pháp luật hiện hành về kết hôn trái pháp luật;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về kết hôn trái pháp luật;
- Nghiên cứu và đưa ra một vài ý kiến giúp cho việc hoàn thiện pháp
luật cũng như nâng cao hiệu quả điều chỉnh, đảm bảo sự ổn định của gia đình
và xã hội.
6. Những đóng góp mới của luận văn


4

Luận văn là công trình nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về vấn đề kết
hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn
đã trình bày được các điểm mới sau:
- Xây dựng khái niệm về kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật;
- Khái quát, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về kết hôn
trái pháp luật;

- Đánh giá khách quan các quy định hiện hành liên quan đến vấn đề kết
hôn trái pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định này;
- Làm sáng tỏ những vướng mắc, cản trở làm ảnh hưởng đến hiệu quả
của việc áp dụng pháp luật về kết hôn trái pháp luật;
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về kết hôn trái pháp luật
- Chương 2: Kết hôn trái pháp luật theo pháp luật Việt Nam hiện hành
- Chương 3: Thực tiễn giải quyết việc kết hôn trái pháp luật và một số
giải pháp


5

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.1. KHÁI NIỆM VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.1.1 Khái niệm kết hôn
Xét về mặt thuật ngữ, “kết hôn” theo Đại từ điển Tiếng Việt của
Nguyễn Như Ý được hiểu là “chính thức lấy nhau thành vợ thành chồng”
[25]. Hay trong từ điển Luật học có đưa ra khái niệm“Kết hôn là sự liên kết
giữa người đàn ông và người đàn bà thành vợ chồng, được pháp luật công
nhận” [23].
Xét về phương diện pháp luật kết hôn được hiểu là một sự kiện pháp lý
làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng. Khi xã hội loài
người mới xuất hiện, khi chưa có bất kỳ một quy tắc hay quy định pháp luật
nào con người đã chung sống với nhau và sinh con đẻ cái. Như vậy, dễ dàng

nhận thấy quyền kết hôn là một quyền tự nhiên của con người. Trải qua các
giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh tế xã hội và sự hình
thành của Nhà nước, pháp luật ra đời để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Lúc
này kết hôn không còn là một quyền tự do, mang tính bản năng của con người
mà trở thành quan hệ xã hội mang tính lợi ích của giai cấp thống trị. Trong xã
hội phong kiến hôn nhân không đơn thuần là sự kết hợp giữa hai bên nam, nữ
mà hôn nhân là sự kết giao giữa hai dòng họ. Sự quyết định của cha mẹ là yếu
tố bắt buộc trong quan hệ hôn nhân, hai bên nam, nữ không có quyền tự do
quyết định. Do đó, nam nữ thời kỳ này kết hôn chủ yếu không xuất phát từ
tình yêu mà bị lệ thuộc vào gia đình, dòng họ.
Trong hệ thống pháp luật trước năm 1945 chưa có văn bản chính thức
nào đề cập đến khái niệm kết hôn. Đến Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật
HN&GĐ năm 1986 cũng chưa xây dựng khái niệm này, mà kết hôn chỉ được
giải thích trong phần giải nghĩa một số danh từ của Luật HN&GĐ năm 1986
như sau: “Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo quy định của
pháp luật. Việc kết hôn phải tuân theo các Điều 5,6,7 và 8 của Luật Hôn nhân
và gia đình”. Đến Luật HN&GĐ năm 2000 khái niệm này chính thức được
định nghĩa tại Khoản 2, Điều 8, theo đó: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký
kết hôn”. Luật HN&GĐ năm 2014 khi xây dựng khái niệm kết hôn đã có sự
thay đổi. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 5, Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014
thì kết hôn được hiểu là: “Việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau
theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.”. Việc bổ


6

sung thêm cụm từ “với nhau” trong Luật HN&GĐ năm 2014 đã cho thấy rõ
quan điểm của Nhà nước ta về kết hôn đó là kết hôn phải là sự kết hợp giữa
một người nam và một người nữ chứ không thể là sự kết hợp giữa hai người

cùng giới tính. Sự sửa đổi, bổ sung này là hoàn toàn cần thiết và phù hợp, bởi
lẽ hiện nay hiện tượng “hôn nhân đồng tính” đang có xu hướng gia tăng. Do
đó, việc thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước thừa nhận hay không thừa nhận
hôn nhân giữa những người cùng giới tính là vô cùng cần thiết.
Pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta quy định việc kết hôn phải được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp hai người kết
hôn cùng là công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Việt Nam thì cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kết hôn là UBND cấp cơ sở nơi cư trú của bên nam hoặc
bên nữ. Trong trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài mà việc kết hôn tiến
hành ở Việt Nam thì UBND cấp tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam
đăng ký kết hôn. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở
nước ngoài thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau
ở nước ngoài. Khi yêu cầu đăng ký kết hôn hai bên nam nữ phải cùng có mặt
tại cơ quan đăng ký kết hôn, nộp tờ khai đăng ký kết hôn và giấy tờ cần thiết
khác. Trong trường hợp có lý do chính đáng, một trong hai bên kết hôn không
thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi cho cơ quan đăng ký kết hôn
đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn phải nêu rõ lý do vắng mặt và phải có
xác nhận của UBND cấp cơ sở nơi người vắng mặt cư trú.
Để việc kết hôn được phù hợp với các quy định của pháp luật, cơ quan
đăng ký kết hôn sau khi nhận hồ sơ đăng ký kết hôn của hai bên kết hôn phải
tiến hành điều tra, xác minh về những vấn đề mà các bên nam nữ đã khai. Nếu
những điều mà các bên nam nữ khai là đúng sự thật và phù hợp với các điều
kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tiến hành đăng ký kết hôn cho họ
theo đúng nghi thức do pháp luật quy định. Khi việc đăng ký kết hôn đã được
đăng ký tại cơ quan đăng ký kết hôn và ghi vào số kết hôn thì giữa các bên
nam nữ phát sinh quan hệ hôn nhân. Điều đó có nghĩa là các bên nam, nữ sẽ
phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng theo luật đinh.
Qua những phân tích trên, chúng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra khái
niệm về kết hôn như sau: “Kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan
hệ vợ chồng giữa nam và nữ với nhau theo quy định của pháp luật về điều

kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.


7

1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Trước hết cần khẳng định rằng, kết hôn trái pháp luật là một khái niệm
pháp lý được pháp luật quy định và điều chỉnh bởi Luật HN&GĐ. Tuy nhiên,
đứng trên góc độ lý luận, để tìm hiểu những quan niệm sâu xa của vấn đề này
thì cần đặt nó trong sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội của mỗi thời kỳ. Bởi trong một xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân bị chi
phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua Nhà nước, bằng pháp luật,
giai cấp thống trị tác động vào các quan hệ HN&GĐ làm cho các quan hệ này
phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Trong xã hội
phong kiến, khi mà pháp luật là ý chí của một bộ phận rất nhỏ trong xã hội tầng lớp quan lại, vua chúa, họ mặc nhiên đề ra những quy định điều chỉnh
những quan hệ về HN&GĐ mà theo họ là phù hợp và đương nhiên cũng sẽ trở
thành những nguyên tắc chung của toàn xã hội. Ở thời kỳ đó, hôn nhân trái
pháp luật được quan niệm là những cuộc hôn nhân không tuân thủ các điều
kiện kết hôn như: Không "môn đăng hộ đối", những quan hệ hôn nhân không
được sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng… Những quy định này thể hiện rất rõ
trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Tương tự như vậy, đối với các
nước tư bản, chính điều kiện sống, yếu tố về xã hội, con người, kinh tế cũng
đã quyết định đến quan niệm của xã hội, theo đó, pháp luật điều chỉnh cũng có
những xu hướng phù hợp. Về vấn đề kết hôn, có thể nói pháp luật của một số
nước thuộc hệ thống Tư bản chủ nghĩa có những cách nhìn nhận rất khác với
pháp luật của Việt Nam. Do đó, những căn cứ để xác định kết hôn hợp pháp
và kết hôn trái pháp luật cũng có những khác biệt, như do các điều kiện về
kinh tế, khí hậu, sinh học… khiến con người phát triển nhanh hơn, sự trưởng
thành về thể lực cũng như trí lực sẽ khác với người Việt Nam, dẫn đến việc
quy định về tuổi kết hôn cũng sẽ khác. Hay việc kết hôn đồng giới hiện nay đã

được thừa nhận tại một số quốc gia là kết hôn hợp pháp.
Theo quy định tại Khoản 6, Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 thì kết hôn
trái pháp luật được hiểu là: “Việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn
theo quy định tại Điều 8 của Luật này”. Như vậy, chỉ khi nam, nữ đã tiến hành
đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đồng thời một hoặc cả
hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật thì việc kết hôn
mới bị coi là trái pháp luật. Trong trường hợp nam nữ vi phạm điều kiện kết
hôn nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thì trường hợp này sẽ không bị coi là kết hôn trái pháp luật.


8

Từ quy định của Luật HN&GĐ có thể đưa ra căn cứ để xác định việc
kết hôn trái pháp luật bao gồm:
- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn;
- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện;
- Kết hôn vi phạm nguyên tắc một vợ, một chồng;
- Kết hôn với người mất NLHVDS hoặc kết hôn khi đang mất
NLHVDS;
- Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có
họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc;
- Kết hôn giữa những người cùng giới tính.
Bên cạnh đó, cần thiết phải phân biệt trường hợp kết hôn trái pháp luật
với trường hợp chung sống như vợ chồng. Theo quy định tại Khoản 7, Điều 3
Luật HN&GĐ năm 2014 chung sống như vợ chồng được hiểu là việc “nam,
nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”.
Chung sống như vợ chồng bao gồm hai trường hợp: Trường hợp chung
sống như vợ chồng không trái pháp luật và trường hợp chung sống như vợ

chồng trái pháp luật.
- Chung sống như vợ chồng không trái pháp luật là trường hợp nam, nữ
không đăng ký kết hôn sống chung như vợ chồng nhưng không vi phạm điều
cấm được quy định tại Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014. Chẳng hạn như:
Trường hợp hai người cùng giới tính chung sống với nhau hay trường hợp
người mất NLHVDS chung sống với một người bình thường… Trong trường
hợp này khi các bên chung sống như vợ chồng sẽ không bị coi là trái pháp luật
nhưng nếu kết hôn sẽ thuộc trường hợp kết hôn trái pháp luật.
- Chung sống như vợ chồng trái pháp luật là trường hợp nam, nữ không
đăng ký kết hôn chung sống với nhau như vợ chồng đồng thời vi phạm điều
cấm được quy định tại Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014, bao gồm:
+ Người chưa đủ tuổi kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng
hay còn gọi là trường hợp tảo hôn;
+ Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc người không có vợ, có chồng nhưng chung sống như vợ chồng với
người đang có vợ, có chồng;
+ Chung sống như vợ chồng giữa người người cùng dòng máu về trực
hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,


9

mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng.
Từ những phân tích trên, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với khái niệm kết
hôn trái pháp luật được xây dựng trong Luật HN&GĐ năm 2014.
1.1.3. Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật
Sự tồn tại của những quan hệ hôn nhân trái pháp luật không những
không đem lại quyền và lợi ích cho các cá nhân, cho xã hội mà nó còn xâm hại

nghiêm trọng đến quyền và lợi ích đó. Vì vậy cần thiết phải có những chế tài
đối với những cá nhân đã cố tình xác lập quan hệ hôn nhân trái pháp luật. Luật
HN&GĐ Việt Nam bên cạnh việc quy định căn cứ để xác định kết hôn trái
pháp luật đã quy định thêm biện pháp hủy kết hôn trái pháp luật nhằm bảo
đảm trật tự xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý “hủy” có nghĩa là
“phá bỏ, làm cho không còn tồn tại hoặc không còn giá trị” [24]. Từ đó,
chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “Hủy
kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi
phạm điều kiện kết hôn nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật
HN&GĐ”.
Hủy kết hôn trái pháp luật có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, hủy việc kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ của Nhà
nước đối với hành vi vi phạm pháp luật HN&GĐ.
- Thứ hai, hủy kết hôn trái pháp luật là chế tài đối với cá nhân có hành
vi vi phạm pháp luật.
- Thứ ba, hủy kết hôn trái pháp luật là một chế tài mang tính chất mềm
dẻo và linh hoạt. Bởi lẽ, không phải bất mọi hành vi kết hôn trái pháp luật đều
bị Tòa án ra quyết định hủy.
1.2. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
Từ thời phong kiến cho đến nay Nhà nước ta đã trải qua bốn thời kỳ:
Thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ Việt Nam dưới chế độ Cộng
hòa, thời kỳ Việt Nam dưới chế độ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tương ứng với mỗi thời kỳ Nhà nước lại ban hành những văn bản pháp
luật khác nhau để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ. Trong thời kỳ phong kiến, các
quy phạm pháp luật HN&GĐ được quy định chủ yếu trong hai Bộ luật: Bộ
Luật Hồng Đức và Bộ Luật Gia Long. Thời kỳ Pháp thuộc để thực hiện chính



10

sách “chia để trị”, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở mỗi
miền ban hành, áp dụng theo từng Bộ dân luật, cụ thể:
- Ở Bắc kỳ áp dụng những quy định theo Bộ dân luật ban hành năm
1931;
- Ở Trung kỳ áp dụng những quy định theo Bộ dân luật năm 1936;
- Ở Nam kỳ áp dụng Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ 1883.
Dưới chế độ Việt Nam cộng hòa đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền Sài
Gòn đã cho ban hành ba văn bản pháp luật áp dụng trong các quan hệ
HN&GĐ, bao gồm:
- Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm (Luật số 159);
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng
đồng (Sắc luật số 15/64);
- Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền ngụy Sài Gòn (Bộ Dân
luật năm 1972).
Năm 1945 với sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước ta đã có nhiều sự thay đổi.
Theo đó, cùng với thời gian Nhà nước đã ban hành bốn văn bản luật chuyên
ngành để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ, bao gồm: Luật HN&GĐ năm 1959,
Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm
2014.
Trong tất cả các văn bản pháp luật từ thời kỳ phong kiến cho đến nay
vấn đề kết hôn trái pháp luật đều được đề cập bao gồm những nội dung sẽ
được chúng tôi trình bày dưới đây.
1.2.1. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật
Trong thời kỳ phong kiến pháp luật không yêu cầu các bên phải tiến
hành làm thủ tục đăng ký kết hôn khi kết hôn. Đồng thời quan điểm về kết hôn
trong thời kỳ này mang nhiều điểm gần gũi với thực tiễn đời sống và đề cao
phong tục tập quán. Theo pháp luật thời kỳ này thì về nguyên tắc, giấy chứng

nhận kết hôn được coi là một văn bằng pháp lý đặc biệt quan trọng làm gắn bó
vợ chồng trong các quyền và nghĩa vụ nhất định. Nếu việc ký kết văn bằng đó
đã phạm các điều cấm của pháp luật thì sẽ không có giá trị pháp lý. Vì vậy,
khi xác lập quan hệ hôn nhân, nếu các bên vi phạm các điều kiện về cấm kết
hôn thì dù có giấy chứng nhận do cơ quan có thẩm quyền cấp thì hôn nhân đó
cũng bị coi là trái pháp luật và bị tiêu hủy. Như vậy, trong pháp luật phong
kiến kết hôn sẽ bị coi là trái pháp luật khi các bên vi phạm các trường hợp cấm


11

kết hôn trong luật định mà không bắt buộc các bên phải tiến hành đăng ký kết
hôn với nhau.
Đến thời kỳ Pháp thuộc việc kết hôn bắt buộc phải khai với hương hộ
thì mới được coi là hợp pháp. Khi kết hôn nếu các bên không khai với hương
hộ thì việc kết hôn ấy sẽ đương nhiên bị vô hiệu. Trong thời kỳ này việc kết
hôn sẽ bị coi là vô hiệu nếu vi phạm các điều kiện kết hôn. Pháp luật thời kỳ
Pháp thuộc đã sử dụng thuật ngữ hôn thú “vô hiệu” để nói về việc kết hôn trái
pháp luật mà không dùng thuật ngữ kết hôn trái pháp luật như pháp luật hiện
hành. Như vậy, so với pháp luật thời kỳ phong kiến, pháp luật thời kỳ Pháp
thuộc đã quy định chặt chẽ hơn về thủ tục kết hôn.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa pháp luật quy định việc kết hôn phải
được khai với viên chức hộ tịch và phải đăng ký vào số hôn thú. Cũng giống
như pháp luật thời kỳ Pháp thuộc pháp luật dưới chế độ Việt Nam cộng hòa đã
sử dụng thuật ngữ “vô hiệu” để nói về kết hôn trái pháp luật, theo đó kết hôn
sẽ bị coi là vô hiệu nếu vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định.
Năm 1945 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính
thức ra đời. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm
lược nước ta lần nữa, toàn quốc đang tiến hành cuộc kháng chiến. Do đặc
điểm của cách mạng Việt Nam, quan hệ sản xuất phong kiến vẫn tồn tại và

việc xóa bỏ nó cũng như chế độ hôn nhân gia đình phong kiến lạc hậu không
hề dễ dàng. Vì thế nước ta vẫn chưa ban hành đạo luật cụ thể nào trong việc
quy định vấn đề HN&GĐ ở Việt Nam, mà chỉ áp dụng những quy định trong
pháp luật cũ có chọn lọc. Do đó vấn đề hôn nhân cũng như kết hôn trái pháp
luật không có nhiều điểm mới. Năm 1950 Nhà nước ta ban hành sắc lệnh số
97/SL và sắc lệnh số 159/SL để điều chỉnh về quan hệ hôn nhân gia đình, tuy
nhiên cả hai sắc lệnh này đều không đề cập đến vấn đề kết hôn trái pháp luật.
Năm 1959 lần đầu tiên Nhà nước ta ban hành đạo luật chuyên ngành về
HN&GĐ, nhằm đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc. Trong Luật HN&GĐ năm 1959 không đưa ra khái niệm kết
hôn trái pháp luật, tuy nhiên có thể hiểu kết hôn trái pháp luật là việc vi phạm
các điều kiện về độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện cũng như các trường hợp cấm
kết hôn. Năm 1986 với sự ra đời của Luật HN&GĐ lần đầu tiên khái niệm kết
hôn trái pháp luật được đưa vào trong luật. Theo đó, Điều 9 Luật HN&GĐ
năm 1986 quy định: “Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của
Luật này là trái pháp luật.”. Như vậy, trong Luật HN&GĐ năm 1986 kết hôn
trái pháp luật được hiểu là việc kết hôn vi phạm các quy định tại các Điều


12

5,6,7 của Luật mà không quy định việc kết hôn đó phải được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Đến Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật
HN&GĐ năm 2014 đều xác định kết hôn trái pháp luật phải là việc xác lập
quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do
pháp luật quy định.
Như vậy, có thể thấy theo thời gian thì quan niệm về kết hôn trái pháp
luật đã có sự thay đổi. Nếu như trong pháp luật phong kiến kết hôn trái pháp
luật được hiểu là việc kết hôn vi phạm các trường hợp cấm của pháp luật, thì
đến nay kết hôn trái pháp luật phải là việc kết hôn đã được đăng ký tại cơ quan

nhà nước có thẩm quyền đồng thời vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật
quy định. Điều này cho thấy các quy định của pháp luật ngày càng chặt chẽ
hơn về mặt hình thức, từ đó đòi hỏi mỗi người dân phải nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật.
1.2.2. Các trường hợp kết hôn trái pháp luật
Ngay từ pháp luật phong kiến các trường hợp kết hôn trái pháp luật đã
được quy định một cách cụ thể và chi tiết. Theo đó, pháp luật phong kiến quy
định các trường hợp kết hôn trái pháp luật bao gồm:
- Kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng;
- Kết hôn khi cha mẹ bị giam cầm tù tội;
- Kết hôn giữa những người thân thích.
Riêng Bộ luật Hồng Đức còn quy định thêm một số trường hợp kết hôn
trái pháp luật khác như:
- Quan lại lấy con hát làm vợ ( Điều 323);
- Học trò lấy vợ của thầy học đã chết, anh, em lấy vợ của em, anh đã
chết
( Điều 324);
- Quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng vùng đó ( Điều 33);
- Quan ty lấy con gái trong hạt mình ( Điều 316).
Như vậy, có thể thấy trong thời kỳ phong kiến việc quy định các trường
hợp kết hôn trái pháp luật chủ yếu nhằm mục đích bảo vệ các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc cũng như lợi ích của Nhà nước phong kiến mà chưa
tính đến yếu tố khoa học.
Đến thời kỳ Pháp thuộc quy định về các trường hợp kết hôn trái pháp
luật đã có sự thay đổi, theo đó kết hôn sẽ bị coi là trái pháp luật khi thuộc một
trong các trường hợp sau:
- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn;


13


- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện của những người kết
hôn;
- Kết hôn trái pháp luật do thiếu sự đồng ý của cha mẹ;
- Việc kết hôn vi phạm các điều cấm.
Ngoài ra hôn nhân còn được coi là vô hiệu khi vi phạm một trong các
trường hợp kết hôn không khai với bộ lại ( Điều 82 Dân luật Bắc kỳ) hoặc
trong trường hợp người đàn bà trước đã có giá thú làm chính thất hoặc thứ thất
mà chưa tiêu hôn ( Điều 84 Bộ Dân luật Bắc kỳ).
Ba bộ Dân luật thời kỳ Pháp thuộc đã chia hôn nhân vô hiệu ra làm hai
loại: Vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tương đối chỉ do một số
người nhất định mà luật quy định mới có quyền yêu cầu tiêu hủy hôn nhân đó,
sự vô hiệu đó có thể mất đi do một sự kiện nào đó xuất hiện. Vô hiệu tuyệt đối
thì bất cứ người nào cũng có quyền yêu cầu tiêu hủy và sự vô hiệu ấy không bị
mất đi do một thời hiệu hoặc một sự kiện nào.
Có thể thấy so với pháp luật thời kỳ phong kiến pháp luật thời kỳ Pháp
thuộc đã phần nào mang tính tiến bộ hơn, cụ thể: Đã quy định hôn nhân cần có
sự tự nguyện của hai bên bên nam, nữ. Tuy sự tự nguyện trong thời kỳ này
còn mang tính hình thức, bởi bên cạnh sự tự nguyện của hai bên nam, nữ thì
vẫn cần cả sự đồng ý của cha mẹ, nhưng điều này đã cho thấy sự thay đổi
trong quan điểm về hôn nhân, hôn nhân lúc này không chỉ là mối quan hệ giữa
hai dòng họ mà hôn nhân còn là mối quan hệ giữa hai bên nam, nữ. Do đó bên
cạnh sự đồng ý của cha mẹ thì sự tự nguyện của hai bên nam, nữ cũng được
quy định là một trong những điều kiện cần thiết khi kết hôn.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa việc kết hôn sẽ bị coi là trái pháp luật
khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Kết hôn mà không có sự ưng thuận của vợ hay chồng hay của hai
người;
- Kết hôn mà không có sự ưng thuận của cha mẹ, hay những người có
quyền ưng thuận trong việc kết hôn;

- Hai bên nam, nữ chưa đủ tuổi mà đã kết hôn, trừ phi được miễn tuổi;
- Hai bên kết hôn là bà con do huyết tộc hay do hôn nhân vào hàng luật
cấm.
Ngoài các trường hợp kết hôn trái pháp luật trên, theo Luật số 1- 59 thì
trường hợp người kết hôn bị bất lực vĩnh viễn và đã có trước khi lập hôn thú
hay trường hợp người đàn bà tái hôn trước mười tháng sau khi có án tuyên bố
vô hiệu cuộc hôn nhân trước hoặc người quả phụ tái giá trước mười tháng từ


14

ngày người chồng mệnh một cũng sẽ bị coi là trái pháp luật. Sắc luật số 15/64
và Bộ Dân luật năm 1972 đã bổ sung thêm trường hợp kết hôn trái pháp luật
do hôn lễ đã được cử hành không công khai hay do một viên hộ lại không có
thẩm quyền với điều kiện là sự cử hành trái luật ấy có tính cách gian lận.
Năm 1959 dưới sự lãnh đạo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam lần đầu tiên Nhà nước ta ban hành đạo luật chuyên ngành về
HN&GĐ. Theo đó, kết hôn trái pháp luật bao gồm những trường hợp sau:
- Kết hôn do vi phạm độ tuổi kết hôn;
- Kết hôn do vi phạm sự tự nguyện;
- Kết hôn với người đang có vợ, có chồng;
- Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi;
- Kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc
cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm đời
hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ, thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo
phong tục tập quán;
- Kết hôn mà một trong hai bên kết hôn là người: bất lực hoàn toàn về
sinh lý; mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc, mà chưa chữa khỏi.
Với Luật HN&GĐ năm 1959 lần đầu tiên nguyên tắc hôn nhân một vợ

một chồng được xác lập, xóa bỏ hoàn toàn chế độ đa thê tồn tại trong xã hội
cũ. Tuy nhiên, theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập
kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác thì trường hợp này không bị coi là kết
hôn trái pháp luật do vi phạm nguyên tắc một vợ, một chồng. Bên cạnh đó,
Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định điều kiện về sức khỏe của người kết hôn
là một trong những điều kiện kết hôn đòi hỏi các bên phải tuân thủ, nếu vi
phạm thì việc kết hôn sẽ bị coi là trái pháp luật.
Sau một thời gian áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959, đời sống xã hội đã
có nhiều biến đổi, đòi hỏi sự thay đổi trong các quy định của pháp luật, do đó
Nhà nước ta đã cho ban hành Luật HN&GĐ năm 1986. Trong đó xác định các
trường hợp kết hôn trái pháp luật bao gồm:
- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn;
- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện;
- Kết hôn với những người đang có vợ, có chồng;
- Một trong các bên kết hôn đang mắc bệnh tâm thần không có khả
năng nhận thức hành vi của mình; đang mắc bệnh hoa liễu;


15

- Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em
cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những người
khác có họ trong phạm vi ba đời;
- Kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.
Như vậy, so với quy định trước đây, Luật HN&GĐ năm 1986 đã bổ
sung thêm trường hợp kết hôn trái pháp luật giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.
Ngày 02/12/1993 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
HN&GĐ giữa công dân Việt nam với người nước ngoài trong đó quy định
cấm người nhiễm HIV kết hôn. Do đó, trường hợp người nước ngoài nhiễm

HIV kết hôn với công dân Việt Nam sẽ thuộc trường hợp kết hôn trái pháp
luật Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 1986 được Nhà nước ta ban hành trong
những năm đầu thời kỳ đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã tác động không nhỏ đến các quan hệ hôn nhân gia đình. Bên cạnh đó,
sau 10 năm áp dụng Luật HN&GĐ năm 1986 đã cho thấy những hạn chế,
vướng mắc và thiếu sót. Trước tình hình đó, Nhà nước đã thay đổi toàn diện
các luật điều chỉnh về quan hệ hôn nhân. Năm 1992 Nhà nước ta đã ban hành
bản Hiến pháp mới, làm cơ sở để xây dựng Luật HN&GĐ năm 2000. Bên
cạnh việc kế thừa điểm tiến bộ về các trường hợp kết hôn trái pháp luật của
Luật HN&GĐ trước đây, Luật HN&GĐ năm 2000 đã bổ sung một số quy
định mới về các trường hợp kết hôn trái pháp luật như: Việc kết hôn của người
bị hủi không còn bị coi là trái pháp luật; bổ sung trường hợp kết hôn trái pháp
luật giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng; giữa những người cùng giới tính. Sau hơn 10 năm kể từ khi áp dụng
Luật HN&GĐ năm 2000 đến nay đời sống thực tiễn đã phát sinh nhiều vấn đề
xã hội phức tạp cần sự điều chỉnh của pháp luật, tuy nhiên những vấn đề này
lại chưa được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000. Xuất phát từ thực tiễn
này mà Luật HN&GĐ năm 2014 đã ra đời. Trong Luật HN&GĐ năm 2014
bên cạnh những điểm đã được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000, Luật
HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung thêm trường hợp kết hôn trái pháp luật do giả
tạo. Điều này góp phần khắc phục được “lỗ hổng” còn tồn tại trong Luật
HN&GĐ năm 2000 từ đó tạo cơ sở pháp lý để xử lý những trường hợp vi
phạm do kết hôn giả tạo xảy ra trên thực tế.
1.2.3. Chủ thể có quyền yêu cầu xử lý đối với trường hợp kết hôn trái
pháp luật


16


Pháp luật thời kỳ phong kiến mới chỉ đưa ra quy định về các trường
hợp cấm kết hôn mà chưa quy định cụ thể, rõ ràng về chủ thể có quyền yêu
cầu xử lý đối với trường hợp kết hôn trái pháp luật. Tại Điều 309 Bộ luật
Hồng Đức quy định đối với trường hợp người chồng lấy nàng hầu lên làm vợ
thì người vợ có quyền thưa quan để xử phạt. Hay trường hợp cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy mà con lại trái lời cha mẹ thì cha mẹ có quyền thưa quan.
Đến thời kỳ Pháp thuộc pháp luật đã quy định cụ thể về người có quyền
yêu cầu xin tiêu hôn bao gồm:
- Người có quan thiết đều có quyền được xin tiêu hôn. Quan địa
phương sở tại cũng có thể tự mình xét mà đòi tiêu hôn;
- Người bị lầm lẫn hay bị cưỡng bức;
- Người nào có tư cách ưng thuận việc giá thú mà các bên khi kết hôn
không hỏi xem người ấy có bằng lòng hay không.
Dưới chế độ Việt Nam cộng hòa chủ thể có quyền yêu cầu xin tiêu hôn
cũng được quy định một cách cụ thể. Theo đó bao gồm những chủ thể sau:
- Người vợ hay người chồng đã bị lầm lẫn hay cưỡng bách.
Trong trường hợp này Bộ Dân luật năm 1972 quy định chỉ người vợ
hay người chồng bị lầm lẫn hay cưỡng bách mới có quyền xin tiêu hôn. Trái
lại trong Luật số 1-59 và Sắc Luật số 15/64 còn quy định thêm trường hợp
người vợ hay chồng bị lầm lẫn hoặc bị cưỡng bách, nếu người ấy còn vị thành
niên, những người có quyền ưng thuận cho kết hôn có thể khởi tố xin tiêu hôn.
Ngoài ra Luật số 1-59 còn quy định trong trường hợp các đương sự còn vị
thành niên mà những người có quyền ưng thuận cho kết hôn không chịu khởi
tố, đương sự có thể đặc biệt xin phép tòa để khởi tố.
- Cha, mẹ hay những người có quyền ưng thuận trong việc kết hôn có
thể xin tiêu hủy hôn nhân nếu không có sự ưng thuận của họ trong việc kết
hôn.
Tuy nhiên, những người này không thể khởi tố nếu đã thừa nhận hôn
thú một cách công nhiên hay mặc nhiên, hoặc biết việc lập hôn thú mà để yên
một năm không khiếu nại hoặc nếu người đàn bà đã thụ thai hay có con. Trong

Luật số 1-59 và Bộ Dân luật năm 1972 còn quy định thêm trường hợp cha, mẹ
hay những người có quyền ưng thuận trong việc kết hôn không thể khởi tố nếu
người phối ngẫu còn vị thành niên khi kết lập hôn thú đã đến tuổi trưởng
thành.
- Cả hai vợ chồng, công tố viên và mọi người có quyền lợi đều có thể
khởi tố xin tiêu hôn trong trường hợp:


17

+ Trai gái chưa đến tuổi luật định mà đã kết hôn, trừ phi được miễn tuổi
hợp lệ;
+ Hai người là bà con huyết tộc hoặc kết hôn vào hàng luật cấm.
Ngoài hai trường hợp trên Luật số 15/64 và Bộ Dân luật năm 1972 còn
quy định cả hai vợ chồng cũng như công tố viên và mọi người có quyền lợi
đều có thể khởi tố xin tiêu hôn trong trường hợp: Khi lập hôn thú, một trong
hai người còn bị ràng buộc bởi một hôn thú khác chưa đoạn tiêu; hôn lễ cử
hành không công khai hay do một viên hộ lại không có thẩm quyền,với điều
kiện sự cử hành hôn lễ trái phép có tính cách gian lận. Riêng Bộ Dân luật năm
1972 quy định trường hợp hôn thú kết lập mà không có sự ưng thuận của vợ
hay chồng hoặc của hai người thì cả hai vợ chồng, cũng như công tố viên và
mọi người có quyền lợi đều có thể khởi tố xin tiêu hôn.
Bên cạnh những chủ thể có quyền yêu cầu xin tiêu hôn trên, đối với
trường hợp người đàn bà tái hôn trước mười tháng sau khi có án tuyên bố vô
hiệu cuộc hôn nhân trước, hoặc người quả phụ tái giá trước mười tháng từ
ngày người chồng mệnh một được quy định trong Luật số 1-59 thì người
chồng hoặc nếu không còn người chồng; các con của cuộc hôn nhân trước
hoặc nếu không có con, người tộc trưởng của người chồng mệnh một có thể
khởi tố xin tiêu hôn.
Tuy nhiên, đến Luật HN&GĐ năm 1959 mới chỉ đưa ra các trường hợp

kết hôn trái pháp luật mà không quy định về người có quyền yêu cầu hủy kết
hôn trái pháp luật.
Khắc phục khiếm khuyết của Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ
năm 1986 đã bổ sung quy định về chủ thể có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái
pháp luật. Tại Điều 9 Luật HN&GĐ năm 1986 quy định các cá nhân, tổ chức
sau có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật:
- Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật;
- Vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với
người khác;
- Viện kiếm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam.
Đến Luật HN&GĐ năm 2000 thì quy định về chủ thể có quyền yêu cầu
hủy kết hôn trái pháp luật đã có sự thay đổi. Cụ thể, theo Điều 15, Luật
HN&GĐ năm 2000 thì người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật bao
gồm:
- Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn;


18

- Viện kiểm sát;
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án
hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10
của Luật này: Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; Uỷ ban bảo vệ và chăm
sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ;
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét,
yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Như vậy, so với Luật HN&GĐ năm 1986 thì các cơ quan có thẩm quyền yêu
cầu hủy kết hôn trái pháp luật đã được thu hẹp. Theo đó, Đoán thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam không còn quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp
luật. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 lại quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn
trái pháp luật.
Với Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc
kết hôn trái pháp luật một lần nữa lại được sửa đổi. Theo đó, những chủ thể có quyền
yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật bao gồm:
- Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn;
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi
phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
+ Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác;
cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết
hôn trái pháp luật;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
+ Hội liên hiệp phụ nữ.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì
có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này
yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Có thể thấy điểm khác biệt cơ bản của Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật
HN&GĐ năm 2000 về chủ thể có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật đó là đã
bỏ quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật của Viện kiểm sát.
1.2.4. Hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật
Theo pháp luật thời kỳ phong kiến nếu việc kết hôn phạm vào một
trong các điều cấm thì hôn nhân đó sẽ bị coi là vô hiệu và về nguyên tắc hôn


19


nhân đó có thể bị tiêu hủy. Sự tiêu hủy hôn nhân trái pháp luật trong cổ luật có
sự khác biệt so với việc tiêu hủy hôn nhân trong pháp luật hiện hành. Tiêu hủy
hôn nhân trong cổ luật không có hiệu lực trở về trước mà chỉ có hiệu lực trong
tương lai. Có nghĩa là hôn nhân vẫn có hiệu lực trong quá khứ. Trước khi bị
tiêu hủy thì hôn nhân đó vẫn được coi là có giá trị pháp lý, các bên tham gia
quan hệ hôn nhân đó vẫn là vợ chồng, họ chỉ bị chia lìa hay ly dị kể từ khi hôn
nhân bị tuyên bố tiêu hủy mà thôi. Như vậy, có thể thấy trường hợp tiêu hôn
trong cổ luật hoàn toàn giống với trường hợp ly hôn trong pháp luật hiện hành.
Thông qua các quy định trong các Bộ luật Hồng Đức và Gia Long có
thể kết luận rằng không phải trong tất cả các trường hợp hôn nhân vô hiệu đều
bị xử lý mà pháp luật quy định chỉ những trường hợp vi phạm nghiêm trọng
các điều kiện về cấm kết hôn thì mới tiêu hủy hôn nhân. Hậu quả của việc tiêu
hủy hôn nhân là buộc các bên phải ly dị đồng thời có thể phải chịu thêm các
hình phạt nhất định tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật quy định hôn nhân vô hiệu sẽ bị
Tòa án tiêu hủy. Tuy nhiên, hậu quả của việc tiêu hủy có sự quy định khác
nhau trong ba bộ Dân luật thời kỳ này. Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật
Trung Kỳ đã dựa trên nguyên tắc giảm bớt những hậu quả quá nặng nề đối với
vợ chồng, đối với các con nên đã tìm ra những biện pháp nhằm giảm bớt
những quy định quá nghiêm ngặt, như quy định khi hôn nhân bị tiêu hủy thì
việc tiêu hủy đó chỉ có hiệu lực trong tương lai, có nghĩa là trước khi bị tiêu
hủy hôn nhân, giữa các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng, con sinh ra vẫn là
con trong giá thú, các bên chỉ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ khi hôn
nhân bị tiêu hủy mà thôi. Nói cách khác về hậu quả pháp lý, trường hợp tiêu
hủy hôn nhân cũng giống như trường hợp ly hôn. Giải pháp trên đây được
thừa nhận trong Điều 89 của bộ Dân luật Bắc kỳ. Điều 89 bộ Dân luật Bắc kỳ
quy định: “Phàm có giá thú mà sinh con, dẫu sau có sự tiêu hôn, không cứ vì
duyên cớ gì, những đứa con ấy vẫn là con chính thức. Thuộc về quyền lợi,
nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa con ấy thì cũng theo cùng một lệ định như
khi ly hôn. Việc thanh toán các tài sản của vợ chồng đã tiêu hôn thì cũng làm

theo như khi ly hôn”.
Trong Tập Dân luật giản yếu Nam kỳ lại có quy định rằng, khi hôn
nhân bị tiêu hủy thì nó không còn hiệu lực gì không những trong tương lai mà
còn trong quá khứ. Đối với hai vợ chồng thì kể từ ngày họ kết hôn cho đến khi
hôn nhân bị tiêu hủy họ không phải là vợ chồng của nhau, có nghĩa là hai bên
chưa hề xác lập quan hệ vợ chồng. Vì vậy, nếu họ có tài sản chung thì tài sản


×