Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.26 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỒ THANH HUYỀN

KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban lãnh đạo nhà trường, các
thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện giúp
đỡ nhiệt tình em trong suốt thời gian em hoàn thành Luận văn.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo - Tiến sỹ Trần Anh
Tuấn - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình và động viên em để
em có thể hoàn thành tốt bản Luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo đã nhiệt tình,
tâm huyết giảng dạy, quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho chúng em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại Học Luật Hà Nội.


Mặc dù em đã cố gắng để hoàn thành Luận văn, tuy nhiên do trình độ hiểu
biết của em còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để Luận văn của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần Anh Tuấn.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Hồ Thanh Huyền


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.

BLDS:

Bộ luật dân sự

2.

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự


3.

BLTTHC:

Bộ luật tố tụng hành chính

4.

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

5.

CHXHCNVN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

6.

LTCTAND:

Luật tổ chức Tòa án nhân dân

7.

LTCVKSND:

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân


8.

HĐTPTANDTC:

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

9.

PLTTGQCVADS:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

10. PLTTGQCVAKT:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

11. PLTTGQCTCLĐ:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động

12. HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

13. TA:

Tòa án


14. TAND:

Tòa án nhân dân

15. TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

16. DSST:

Dân sự sơ thẩm

17. TTDS:

Tố tụng dân sự

18. VADS:

Vụ án dân sự

19. VKS:

Viện kiểm sát

20. VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

21. VKSNDTC:


Viện kiểm sát nhân dân tối cao

22. BLDSP:

Bộ luật dân sự Pháp


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN
DÂN SỰ ............................................................................................................... 5
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ
ÁN DÂN SỰ ...................................................................................................... 5
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN
SỰ .................................................................................................................... 17
1.3. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ
ÁN DÂN SỰ .................................................................................................... 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................. 28
CHƯƠNG 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ KHỞI
KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ ..................................................................... 29
2.1. QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ ................... 29
2.2. QUY ĐỊNH VỀ THỤ LÝ, TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN........................... 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................. 53
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHỞI KIỆN,
THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA VÀ
KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 54
3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA .................. 54

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ ....... 71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................. 76
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh
những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải
quyết. Một trong những vấn đề đó là sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và tính
chất phức tạp của các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động và các tranh chấp, các yêu
cầu của người dân yêu cầu Toà án giải quyết ngày một gia tăng cả về số lượng và mức
độ phức tạp.
Với tư cách là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, pháp luật
cũng đòi hỏi phải thay đổi sao cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. Bộ luật
Tố tụng dân sự (BLTTDS) ra đời năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011 với
những quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự (VADS) đã góp phần không
nhỏ trong việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự một cách nhanh chóng, kịp
thời, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Hiến pháp sửa đổi
năm 2013 ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền dân sự cơ bản của công dân,
các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự trong BLTTDS sửa đổi năm 2011
cũng cần được sửa đổi nhằm cụ thể hoá việc thực hiện các quyền này.
Vấn đề khởi kiện, thụ lý vụ việc dân sự, trong đó có khởi kiện, thụ lý vụ án dân
sự đã được quy định khá đầy đủ trong BLTTDS sửa đổi năm 2011. Tuy nhiên, một
số các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Sự thiếu cụ thể, rõ ràng của một số
quy định của pháp luật đã làm cho đương sự khó khăn khi xác định các điều kiện

khởi kiện để nộp đơn khởi kiện, khó khăn cho Tòa án khi thụ lý các đơn khởi kiện.
Thực tiễn vận dụng pháp luật để xác định các điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý
cũng nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập, tình trạng có nhiều ý kiến, quan điểm khác
nhau về cùng một vấn đề dẫn tới sự thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật vẫn
còn tồn tại.
Việc nghiên cứu chuyên sâu lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự giúp cho
ta có nhận thức sâu sắc hơn về các quy định của pháp luật hiện hành, phát hiện
những khiếm khuyết, hạn chế để hoàn thiện. Ngoài ra, việc nghiên cứu thực tiễn tố


2

tụng tại Tòa án nhân dân Quận Đống Đa về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự - nơi học
viên đang công tác sẽ giúp học viên có thể đánh giá chân xác hơn về thực trạng
thực hiện pháp luật, từ đó có thể giúp học viên rút ra những đề xuất, kiến nghị có
giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về khởi kiện, thụ lý vụ án tại các Toà án nói chung và đặc biệt là tại Toà án
nhân dân Quận Đống Đa nói riêng.
Với những lý do trên, việc tác giả đã lựa chọn đề tài “Khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa” làm Luận văn
tốt nghiệp cuối khoá học là cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài cho thấy, trong thời gian trước và sau
khi BLTTDS được ban hành đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề khởi kiện
và thụ lý vụ án dân sự. Ví dụ như công trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp cơ sở
của Trường đại học luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ
việc dân sự theo định hướng cái cách tư pháp” do TS. Trần Anh Tuấn chủ nhiệm
năm 2010. Một số bài viết được công bố trên tạp chí như bài viết: “Vấn đề khởi
kiện và thụ lý vụ án dân sự” của Ths. Lê Thị Bích Lan đăng trên Tạp chí Luật học –
số đặc san về BLTTDS năm 2005, bài viết “Quyền khởi kiện và việc xác định tư

cách tham gia tố tụng” của TS. Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân
số 23/2008 .v.v...
Các công trình Luận văn, luận án có: Luận văn tiến sĩ của tác giả Nguyễn
Công Bình năm 2006, đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS
Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học của học viên Liễu Thị Hạnh bảo vệ năm 2009
về đề tài “Thụ lý vụ án dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc
sỹ luật học của học viên Trần Thị Lượt bảo vệ năm 2014 với đề tài “Khởi kiện vụ
án dân sự”.v.v...
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến
việc khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, được nhìn nhận, giải quyết ở một góc độ
khác nhau. Thực tiễn đặt ra cần phải có sự nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện
và có hệ thống các vấn đề về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự theo quy định của pháp
luật. Xuyên suốt Luận văn là phân tích những nội dung pháp lý về khởi kiện và thụ


3

lý VADS dưới góc độ lý luận, luật thực định và thực tiễn áp dụng tại một Tòa án
nhân dân quận điển hình là Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, Hà Nội, qua đó đưa ra
những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật trên
thực tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là vấn đề lý luận về các quy định của pháp
luật về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại Tòa
án nhân dân Quận Đống Đa.
Từ mục đích nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định
như sau:
Do giới hạn về thời gian nghiên cứu, thực hiện cũng như dung lượng cho phép
Luận văn nên Luận văn không nghiên cứu về thủ tục khởi kiện, thụ lý việc dân sự
mà chỉ nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản của khởi kiện, thụ lý

vụ án dân sự như: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự, nội dung các quy định của BLTTDS sửa đổi bổ sung và các văn bản hướng
dẫn về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự và giới hạn thực tiễn thực hiện việc khởi kiện,
thụ lý đó trong phạm vi Tòa án nhân dân Quận Đống Đa.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước qua
các giai đoạn lịch sử.
Việc thực hiện đề tài được tiến hành trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn, logic…
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý
vụ án dân sự; nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về khởi kiện, thụ lý
vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại Tòa án nhân dân quận Đống
Đa. Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ xác định những bất cập của pháp luật hiện hành, từ
đó tìm ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự.


4

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài tập trung vào
một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự như khái
niệm, đặc điểm và ý nghĩa, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định đó.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về khởi
kiện, thụ lý vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa; những vướng mắc, bất

cập trong thực tiễn áp dụng các quy định đó tại Tòa án.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự nhằm góp phần giải quyết nhanh
chóng, chính xác các vụ án dân sự.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan
đến khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự.
Những đóng góp mới của Luận văn:
Phân tích có hệ thống các quy định của BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011 liên
quan đến khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự; đánh giá được thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng những quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
quận Đống Đa; phân tích và luận giải những khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ thực
tiễn thực hiện pháp luật về khởi kiện, thụ lý vụ án trên thực tế. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu, Luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự cũng như bảo
đảm thực hiện các quy định của pháp luật trên thực tế.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân Quận Đống Đa và kiến nghị.


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA KHỞI KIỆN, THỤ
LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Trước năm 1959, trong một số văn bản pháp luật như Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17/4/1946 về xác định thẩm quyền xét xử về dân sự và thương sự của Toà án
sơ cấp, Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng...
thuật ngữ vụ kiện dân sự được sử dụng để chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu
Toà án giải quyết. Đến năm 1959, khi mà Hiến pháp 1959 ra đời, thuật ngữ vụ kiện
trước đây được thay thế bằng thuật ngữ vụ án, cụ thể theo Điều 1 Luật tổ chức Toà
án nhân dân năm 1960 quy định “Toà án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và
dân sự...”. Khái niệm vụ án dân sự ở đây được dùng để chỉ những vụ kiện dân sự
và cả những việc dân sự đặc biệt – bao gồm cả những việc trong đó có tranh chấp
hay không có tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Đến những năm 1990, các vấn đề phát sinh từ các mối quan hệ dân sự đều
được giải quyết thông qua các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989,
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động. Thuật ngữ vụ án dân sự là tiếp tục được kế thừa sử dụng trong
các văn bản pháp luật này. Theo đó, thủ tục để giải quyết các vấn đề phát sinh căn
cứ vào loại quan hệ cụ thể, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết cho quan hệ dân sự,
thủ tục tố tụng kinh tế giải quyết cho các quan hệ kinh tế, kinh doanh thương mại;
và thủ tục tố tụng lao động giải quyết cho các quan hệ lao động chứ không căn cứ
vào việc vụ việc đó có tranh chấp hay không. Hay nói cách khác, theo các Pháp
lệnh nói trên, khi các đương sự có nhu cầu đưa các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động
để giải quyết theo thủ tục tố tụng thì tất cả các vụ việc, tranh chấp hay không tranh
chấp vẫn được gọi chung là vụ án.


6


Thực tiễn giải quyết các loại việc về dân sự, kinh tế, lao động... cho thấy nếu
áp dụng một thủ tục tố tụng chung với những trình tự nghiêm ngặt như nhau, thông
qua phiên toà với những thủ tục như thẩm vấn, tranh luận, đối chất... cho một số
loại việc không có tranh chấp, chỉ đơn giản là việc xác nhận một sự kiện pháp lý
nào đó... thì lại dẫn đến sự rườm rà, kéo dài việc giải quyết, gây mất thời gian vừa
gây tốn kém cho công dân và Nhà nước, không bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên đương sự.
Vì vậy, khi cho soạn thảo BLTTDS 2004, nhà làm luật đã xây dựng hai loại
thủ tục riêng biệt là thủ tục giải quyết các vụán dân sự có tranh chấp và thủ tục giải
quyết việc dân sự không có tranh chấp. Theo đó, lần đầu tiên khái niệm vụ việc dân
sự và việc dân sự đã được BLTTDS ghi nhận chính thức. Khái niệm vụ việc dân sự
đã thay thế cho khái niệm vụ án dân sự trước đây, còn hiện tại, nếu các cá nhân, cơ
quan tổ chức có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ thì gọi là vụ án dân sự, nếu cơ
quan cá nhân tổ chức không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ nhưng có yêu cầu
Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự thì là việc dân sự. Có thể nói, từ thời
điểm này khái niệm vụ án dân sự không còn nội hàm bao rộng như trước nữa, bao
gồm cả các tranh chấp và yêu cầu mà chỉ bao hàm các tranh chấp về dân sự, các yêu
cầu về dân sự đã được tách ra thành một khái niệm riêng biệt. Tuy xét về góc độ nội
hàm thì khái niệm vụ án dân sự đã bị thu hẹp lại, nhưng xét về mặt phạm vi thì khái
niệm này lại được mở rộng ra thêm rất nhiều bởi lúc này vụ án dân sự bao gồm các
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động.
Nhà nước trong trường hợp cần yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi hay công
nhận các quyền của mình thì chủ thể có thể khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án giải
quyết. Theo quy định tại Điều 14 Hiến pháp 2013 thì “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”.
Trong đó quyền dân sự có ý nghĩa rất quan trọng. Theo đó các chủ thể có quyền thực
hiện các hành vi như lao động, sản xuất kinh doanh, tham gia vào các giao dịch dân
sự…theo quy định của pháp luật nhằm thỏa mãn lợi ích của mình, tạo ra của cải vật

chất phục vụ cho nhu cầu của bản thân và xã hội. Khi quyền và lợi ích của họ bị xâm
phạm hay tranh chấp thì họ có quyền thực hiện những biện pháp mà pháp luật cho
phép để bảo vệ và một trong những biện pháp đó chính là khởi kiện VADS.


7

Về nguyên tắc, chỉ có cá nhân, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có lợi ích bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền lợi của mình. Pháp luật cũng quy định các trường hợp khởi kiện vụ án dân sự
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích
của Nhà nước. Điều 162 BLTTDS sửa đổi xác định những chủ thể có quyền khởi
kiện mặc dù không có quyền lợi tranh chấp hay vi phạm. Đó là:
- Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi
nhiệm vụ và quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình
trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định;
- Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động
trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động
do pháp luật quy định;
- Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền
khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
- Ngoài ra theo quy định của BLDS, hộ gia đình, tổ hợp tác là các chủ thể
đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự, vì vậy khi tham gia các quan hệ dân sự nếu
xảy ra tranh chấp các chủ thể này cũng có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, khởi kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan , tổ chức hoặc các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật TTDS nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích công
cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị xâm phạm hay có

tranh chấp với chủ thể khác.
Khởi kiện VADS là hoạt động đầu tiên của TTDS, là hành vi tố tụng đầu
tiên của nguyên đơn làm phát sinh các quan hệ pháp luật TTDS. Việc thực hiện
quyền khởi kiện VADS thể hiện bằng việc nguyên đơn nộp đơn yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án, được xác định là sự kiện thực tế có ý nghĩa pháp lý làm phát sinh quá
trình tố tụng. Khởi kiện VADS là giai đoạn đầu tiên để bắt đầu thủ tục tố tụng.
1.1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện VADS được xem là “Công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ các
phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải quyết các tranh chấp
và mâu thuẫn lợi ích” [4,390]. Hoạt động khởi kiện VADS có những đặc điểm sau:


8

- Khởi kiện vụ án dân sự được pháp luật ghi nhận là hoạt động bảo vệ quyền
dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Cụ thể khởi kiện
được pháp luật ghi nhận dưới dạng quyền khởi kiện tại Điều 161 BLTTDS, theo đó
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện VADS (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm
quyền để yêu cầu bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình. Xuất phát từ yêu
cầu của việc cần đảm bảo quyền con người, khi quyền hay lợi ích bị xâm phạm chủ
thể có quyền cần phải có một công cụ để bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người
khác mà phương pháp hiệu quả nhất chính là nhờ vào quyền lực cũng như sự công
minh của Nhà nước và pháp luật thông qua việc làm đơn khởi kiện. Việc làm đơn
khởi kiện là bước đầu tiên trong hoạt động khởi kiện, từ việc làm đơn gửi Tòa án sẽ
phát sinh những thủ tục tố tụng tiếp theo như đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý hay
không thụ lý, nếu đơn được chấp nhận Tòa án sẽ ra các quyết định tố tụng khác để
giải quyết vụ án…Chính vì vậy, khởi kiện được coi là hoạt động không thể thiếu để
làm phát sinh vụ án dân sự.
- Khởi kiện là hoạt động do các chủ thể có quyền lợi hoặc được pháp luật

trao quyền thực hiện theo quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng quy
định. Các hoạt động khác do các cơ quan tố tụng thực hiện ví dụ: Tòa án thực hiện
việc thụ lý, việc chuẩn bị xét xử, hòa giải, phiên tòa, Chi cục thi hành án dân sự
thực hiện việc thu tạm ứng án phí, lệ phí….Trừ các trường hợp đặc biệt mà pháp
luật có quy định thì chủ thể có quyền khởi kiện thường là chủ thể của các quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại có tranh chấp.
- Khởi kiện VADS là tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự. Khởi kiện VADS được thực hiện ở thời điểm trước khi
Tòa án thụ lý vụ án. Hoạt động ngay sau việc nộp đơn khởi kiện là hoạt động xem
xét đơn khởi kiện. Tòa án sau khi nhận đơn khởi kiện sẽ xem xét đơn và trong thời
hạn luật định phải ra một trong các quyết định thụ lý nếu thuộc thẩm quyền; chuyển
đơn nếu không thuộc thẩm quyền và trả lại đơn. Khởi kiện chính là hành vi đầu tiên
của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhau tham gia vào quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
- Khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động trong đó các đương sự được tự do định
đoạt, theo đó các nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp


9

pháp bị xâm hại có quyền thực hiện hoặc không thực hiện hoạt động khởi kiện vụ
án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm
quyền dân sự phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc theo thỏa
thuận của các bên. Đây là đặc điểm đặc trưng của hoạt động này. Việc khởi kiện
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do của cá nhân, đồng thời pháp
luật cũng ghi nhận việc tự định đoạt và tự thỏa thuận của các chủ thể. Điều này
xuất phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật Dân sự (DS), Hôn nhân gia
đình (HNGĐ), Kinh doanh thương mại (KDTM), Lao động (LĐ) nên trong tố tụng
dân sự thì các đương sự có quyền tự định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình.
Các đương sự được tự do lựa chọn các phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích của

mình như trung gian hòa giải, trọng tài hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án bằng
việc thực hiện hoạt động khởi kiện.
1.1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
- Thứ nhất, khởi kiện VADS là một biện pháp được pháp luật quy định nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Pháp luật ghi nhận khởi kiện là hoạt động của chủ thể pháp luật dân sự nhằm
bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hay của người khác khi bị tranh chấp hay bị vi
phạm đồng nghĩa với việc trao cho người dân một phương thức bảo vệ hữu hiệu
quyền dân sự của mình. Bằng việc thực hiện hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền
khởi kiện có thể nhờ tới sự can thiệp kịp thời của Tòa án, thông qua hoạt động xét
xử Tòa án để bảo vệ các quyền hay lợi ích hợp pháp của đương sự, ngăn chặn được
các thiệt hại, chấm dứt hành vi trái pháp luật và khôi phục lại các quyền dân sự của
các chủ thể…Một khi chủ thể lựa chọn việc khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án có
nghĩa là họ mong muốn được Nhà nước sử dụng quyền lực đặc biệt để phán xét,
khôi phục quyền hay lợi ích mà họ đã bị tranh chấp hay bị vi phạm, quyết định của
Tòa án mang tính cưỡng chế, bắt buộc thi hành đối với người vi phạm. Do đó, pháp
luật ghi nhận vấn đề khởi kiện, trao quyền khởi kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức
cũng có nghĩa là trao trách nhiệm cho những người thực thi pháp luật, điều đó thể
hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với đời sống nhân dân, thể hiện đúng đường lối
của Đảng và Nhà nước đó là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.


10

- Thứ hai, khởi kiện VADS là tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo
tại Tòa án
Bản chất của việc khởi kiện là triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một
trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của
người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp. Khởi kiện
được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Chủ thể thực hiện hoạt

động khởi kiện nhằm bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hoặc của người khác bằng
việc nộp đơn, chứng cứ và tài liệu đi kèm nếu có tại Tòa án. Khi đơn được nộp tại
Tòa án thì người có thẩm quyền sẽ thực hiện việc tiếp nhận đơn và xem xét trong
thời hạn do pháp luật quy định để đưa ra quyết định thụ lý hay không thụ lý. Khi có
quyết định thụ lý Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo. Nếu chủ thể
có quyền khởi kiện không thực hiện hoạt động khởi kiện thì sẽ không có những
hoạt động tiếp theo và vụ án dân sự cũng không được phát sinh kéo theo tranh chấp
sẽ không được giải quyết triệt để. Vì vậy, có thể thấy khởi kiện là hành vi đầu tiên
của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS;
là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, hoạt động khởi
kiện là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Thông qua hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền khởi kiện đã nhờ tới sự can
thiệp của một chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp
pháp của mình. Nhà nước sử dụng quyền lực mang tính chất cưỡng chế không
những khôi phục lại quyền hay lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm đồng thời
chịu những chế tài, trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc của pháp luật. Vì vậy cơ chế
khởi kiện dân sự ra đời không những bảo vệ được quyền dân sự của các chủ thể mà
còn có ý nghĩa răn đe, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi hợp pháp của
các chủ thể, đảm bảo sự ổn định của các quan hệ xã hội, nâng cao ý thức pháp luật
của người dân.
- Thứ ba, khởi kiện VADS là một phương thức xử sự văn minh thay thế cho
việc các cá nhân tự do hành xử trong việc giải quyết tranh chấp
Do địa vị pháp lý của các bên trong quan hệ pháp luật nội dung là bình đẳng
nên một bên không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ của mình,
họ cần phải tìm đến một chủ thể có địa vị pháp lý cao hơn, có quyền năng đặc biệt để


11

can thiệp giúp họ khôi phục lại quyền hay lợi ích bị xâm hại và chủ thể đặc biệt đó

chính là Nhà nước. Thay vì hành xử bằng các hành vi, lời nói giữa các bên thì việc
lựa chọn khởi kiện tại cơ quan có thẩm quyền là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, tránh
đẩy mâu thuẫn, tranh chấp đến mức xử sự thiếu văn minh, thậm chí tiếp tục làm
phương hại tới nhau. Vì vậy, việc khởi kiện với nghĩa là hoạt động của chủ thể có
quyền triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo
vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi
ích này bị xâm phạm được coi là một hoạt động mang tính chất văn minh.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thụ lý vụ án dân sự
1.1.2.1. Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Thụ lý vụ án dân sự không phải là một quyền của chủ thể pháp luật, mà nó là
một tổ hợp các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự.
Khái niệm “thụ lý” các vụ án dân sự hình thành từ rất lâu trong lịch sử lập pháp và
có mối quan hệ biện chứng với quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật. Có thể nói,
chỉ khi quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật được thực thi thì mới có hoạt động
thụ lý đơn khởi kiện của các cơ quan tiến hành tố tụng. Và ngược lại, chỉ khi hoạt
động thụ lý được thực hiện thì quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật mới được
thực hiện và quyền lợi hợp pháp của chủ thể mới có khả năng được đảm bảo.
Xét về mặt thuật ngữ, theo Từ điển tiếng việt “Thụ lý là tiếp nhận giải quyết
vụ kiện” (Viện khoa học ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt 2003, NXB Đà Nẵng). Dưới
góc độ pháp lý, theo Từ điển Luật học thì “Thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một vụ
việc để xem xét giải quyết. Theo pháp luật TTDS, thụ lý vụ án là việc toà dân sự
nhận đơn yêu cầu của đương sự đề nghị xem xét, giải quyết một vụ việc để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ quan”. [38, 754]
Như vậy có thể thấy về mặt thuật ngữ thì khái niệm thụ lý vụ án dân sự là
việc Toà án bắt đầu nhận trách nhiệm giải quyết vụ án dân sự. Còn về mặt khoa học
pháp lý, khái niệm thụ lý vụ án dân sự được tiếp cận từ khái quát đến cụ thể, nghĩa
là thụ lý vụ án dân sự là việc toà án tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự để xem xét
giải quyết.
Về mặt lý luận, cũng tồn tại hai quan điểm khác nhau về thụ lý vụ án dân sự.
Quan điểm thứ nhất thì cho rằng thụ lý vụ án dân sự “là hành vi tố tụng của Toà án



12

chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự và như vậy đã chính thức ràng buộc trách
nhiệm của các chủ thể vào các quan hệ tố tụng. Việc thụ lý là bước khởi điểm làm
phát sinh các quan hệ pháp luật TTDS. Mặc dù vậy, nói một cách chính xác thì thụ
lý gồm có nhiều hành vi tố tụng được diễn ra trong thời hạn nhất định, do đó nó
được coi như là một giai đoạn tố tụng nhỏ” (Tống Công Cường, Luật TTDS Việt
Nam, nghiên cứu so sánh, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh). Quan điểm
thứ hai lại cho rằng “Thụ lý vụ án dân sự là việc Toà án nhận đơn khởi kiện của
người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết”. (Giáo trình Luật TTDS, Đại
học Luật Hà Nội, NXB CAND, 2014).
Có thể thấy các quan điểm này đã nói lên một cách tương đối thống nhất nội
dung cơ bản của khái niệm thụ lý VADS, đó là việc chấp nhận đơn khởi kiện của
đương sự để xem xét. Tuy nhiên ở quan điểm thứ hai đã nêu được rõ ràng hoạt động
cơ bản của việc thụ lý VADS bao gồm nhận đơn và vào sổ thụ lý, với cách tiếp cận
này giúp ta có thể nhìn nhận rõ hơn về nội dung của khái niệm thụ lý. Còn quan điểm
thứ nhất tác giả mới chỉ đề cập đến việc Toà án chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự
nhưng mà chưa đề cập đến các hoạt động cơ bản của việc thụ lý VADS.
Khi có mẫu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, HN&GĐ, kinh
doanh thương mại và lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác,
yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận quyền về dân sự, HN&GĐ..., và
các chủ thể này có yêu cầu Toà án giải quyết VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ thì Toà án sẽ phải tiến hành giải quyết theo một trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.
Sau khi nhận được đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo thì Toà
án phải vào sổ nhận đơn và xem xét trong thời hạn do pháp luật quy định. Tòa án sẽ
phải kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ khởi kiện, xác định các điều kiện

để thụ lý VADS như điều kiện về quyền khởi kiện của chủ thể; điều kiện về thẩm
quyền; điều kiện sự việc chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác… Trong
trường hợp thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì Toà án phải thông báo cho
người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí (trừ trường hợp


13

được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí và lệ
phí). Sau khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, tạm
ứng lệ phí thì Toà án quyết định nhận giải quyết và vào sổ thụ lý VADS. Các hoạt
động đó của Toà án được gọi là thụ lý VADS.
Thụ lý VADS là công việc đầu tiên của Toà án trong quá trình tố tụng. Nếu
không có việc thụ lý vụ việc thì Toà án sẽ không có các bước tiếp theo của quá
trình tố tụng. Thụ lý VADS bao gồm 02 hoạt động cơ bản là nhận đơn khởi kiện và
vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết. Các hoạt động này bao gồm nhiều công
đoạn nhỏ như tiếp nhận đơn khởi kiện, kiểm tra nội dung đơn đã đầy đủ điều kiện
luật định hay chưa, Toà án nhận những tài liệu chứng cứ ban đầu kèm theo đơn
khởi kiện, thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí và vào sổ thụ lý... Khi Tòa án
đã vào sổ thụ lý VADS đồng nghĩa với việc Toà án đã xác nhận trách nhiệm giải
quyết vụ việc thuộc về mình mà không phải thuộc về một cơ quan Nhà nước nào
khác, và cũng từ đây các mối quan hệ pháp luật tố tụng sẽ được phát sinh, các chủ
thể sẽ bị ràng buộc với nhau và mối quan hệ đó sẽ tiếp tục được điều chỉnh bằng
các quy định cụ thể của pháp luật TTDS.
Như vậy, thụ lý VADS là việc Toà án chấp nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu
cầu của người khởi kiện, người yêu cầu khi đã thỏa mãn các điều kiện thụ lý và vào
sổ thụ lý để giải quyết VADS theo quy định của pháp luật TTDS.
1.1.2.2. Đặc điểm thụ lý vụ án dân sự
Thụ lý vụ án dân sự bao gồm những đặc điểm sau:

- Thụ lý vụ án dân sự là một hoạt động do Toà án có thẩm quyền thực hiện:
Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Do đó, Tòa án là cơ quan xét xử các VADS nên thụ lý VADS là một trong những
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn chỉ do Toà án thực hiện mà không một cơ quan
Nhà nước nào khác có thẩm quyền thực hiện.
- Thụ lý VADS trong pháp luật TTDS chỉ được thực hiện trên cơ sở có yêu
cầu của chủ thể có đầy đủ điều kiện mà pháp luật quy định:
Điều này có thể hiểu dù có tranh chấp, mâu thuẫn dân sự diễn ra, hay có
những sự kiện pháp lý xảy ra là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của một


14

chủ thể nào đó...nhưng nếu các đương sự, chủ thể không yêu cầu Toà án giải quyết
mâu thuẫn, công nhận sự kiện pháp lý thì Toà án cũng không thể thực hiện hoạt
động thụ lý VADS để giải quyết. Điều này chính là do sự đặc trưng của quan hệ
dân sự, luôn đề cao sự tự thoả thuận, tự quyết định của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Mặt khác, không phải mọi chủ thể khi có tranh chấp, mâu thuẫn hoặc có
quyền lợi cần được bảo vệ đều có quyền thực hiện việc khởi kiện, yêu cầu Toà án
mà chỉ những chủ thể đầy đủ điều kiện do pháp luật quy định mới được thực hiện.
Hay nói cách khác, chỉ có những “người trong cuộc” mới có quyền thực hiện yêu
cầu Toà án thụ lý VADS, còn những người không liên quan thì không có quyền này
(trừ một số trường hợp bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, hay bảo vệ lợi
ích những người chưa hoặc không có khả năng thực hiện quyền khởi kiện, quyền
yêu cầu của mình...).
- Thụ lý VADS bao gồm hai hoạt động cơ bản là nhận đơn khởi kiện và vào
sổ thụ lý vụ án để giải quyết:
Các hoạt động này bao gồm nhiều công đoạn nhỏ như tiếp nhận đơn khởi
kiện kiểm tra nội dung đơn đã đầy đủ điều kiện khởi kiện và điều kiện thụ lý theo

luật định hay chưa, Toà án nhận những tài liệu chứng cứ ban đầu kèm theo đơn
khởi kiện, thông báo yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện (nếu cần), thông báo về việc
nộp tiền tạm ứng án phí... và cuối cùng là việc vào sổ thụ lý VADS.
- Thụ lý VADS phải được thực hiện theo quy định của pháp luật TTDS
Tương tự như mọi hoạt động tố tụng khác, khi thực hiện thụ lý VADS, Toà
án đều phải tuân theo đầy đủ, chính xác mọi quy định của pháp luật TTDS. Các vấn
đề về chủ thể có quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết của Toà án, thu tiền tạm
ứng án phí, hình thức của đơn khởi kiện, việc trả lại đơn khởi kiện, thời hạn thông
báo việc thụ lý... đều phải đảm bảo tuân theo các quy định về điều kiện, trình tự,
thủ tục, thời gian, cách thức thực hiện... đã được quy định cụ thể trong pháp luật tố
tụng dân sự. Ngoài ra, điều kiện để vụ án được thụ lý còn phải tuân theo các quy
định trong luật nội dung như Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ), Bộ luật Lao
động (BLLĐ), Luật Thương mại (LTM), Luật Đất đai (LĐĐ) chẳng hạn như thụ lý
vụ án khi vụ án chưa thoả mãn điều kiện khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu


15

cầu không có lý do chính đáng, khách quan... đều là sự vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Tòa án chỉ thực hiện hoạt động thụ lý khi việc khởi kiện của các chủ thể có
quyền khởi kiện thỏa mãn các điều kiện thụ lý theo quy định của pháp luật TTDS:
Để Tòa án có thể thụ lý VADS thì Tòa án phải xem xét việc khởi kiện của
các chủ thể có thỏa mãn đầy đủ các điều kiện thụ lý VADS hay không? Các điều
kiện này bao gồm điều kiện khởi kiện; điều kiện về hình thức khởi kiện; tài liệu,
chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện và điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí, tạm
ứng lệ phí.
1.1.2.3. Ý nghĩa thụ lý vụ án dân sự
Thứ nhất, thụ lý VADS là một hình thức bảo đảm của Nhà nước trong việc
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp của công dân

Bản chất cốt lõi của việc người dân đi kiện, hay yêu cầu Toà án công nhận
hay không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó xét cho cùng đều là nhằm mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc ghi nhận các quy định về thụ
lý VADS chính là thể hiện việc Nhà nước sẽ đảm bảo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân thực sự trong đời sống xã hội. Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền năm 1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã khẳng định: Khi một người bị
xâm phạm đến quyền và lợi ích thì họ có quyền yêu cầu cơ quan tài phán bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, khi người dân tìm đến cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền là Toà án để mong muốn Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Khi Tòa án chấp nhận giúp họ giải quyết những khó khăn này bằng
việc thụ lý giải quyết VADS chính là thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với
quyền con người của công dân đồng thời cũng khẳng định Nhà nước luôn “của dân,
do dân, vì dân”. Ngoài ra, việc đặt ra các quy định về thụ lý VADS còn là tiền đề
để phòng ngừa và ngăn chặn mọi hành vi, mọi sự xâm phạm đến quyền và lợi ích
của người khác.
- Thứ hai, thụ lý VADS chính là cơ sở pháp lý để Toà án tiến hành các hoạt
động tố tụng, giải quyết VADS


16

Mỗi cơ quan Nhà nước khác nhau đều thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn trong phạm vi hoạt động của mình, Toà án cũng vậy. Muốn thực hiện
chức năng bảo vệ pháp luật, giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội cũng
như tạo điều kiện cho người dân có thể nhận được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, đảm bảo sự ổn định trong xã hội, Toà án phải tiến hành các hoạt động giải
quyết VADS đó. Do đó, thụ lý VADS chính là cơ sở pháp lý để Toà án tiến hành
các hoạt động tố tụng, giải quyết VADS bởi lẽ Toà án chỉ được tiến hành hoạt động
tố tụng giải quyết VADS khi đã thụ lý. Hơn nữa, việc làm tốt các hoạt động thụ lý
sẽ tạo tiền đề để giải quyết vụ việc nhanh chóng, hiệu quả, chính xác.

- Thứ ba, thụ lý VADS xác định trách nhiệm giải quyết VADS của Tòa án
Tòa án thụ lý VADS tức là Tòa án đã nhận trách nhiệm giải quyết mâu
thuẫn, yêu cầu của đương sự. Bất cứ người dân nào khi đã tìm đến sự trợ giúp của
Toà án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đều rất quan tâm đến thời gian
mà vấn đề của mình được giải quyết, nếu việc giải quyết bị kéo dài không những
ảnh hưởng đến tâm lý của họ mà còn có thể ảnh hưởng đến việc thực thi quyết định
đó, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Khi đã nhận giải quyết, Toà án sẽ phải thực
hiện đúng chức năng, căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết dứt điểm
các tranh chấp. Toà án sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác trong quyết định của
mình. Việc Toà án thụ lý, giải quyết góp phần giảm bớt mẫu thuẫn trong xã hội, tạo
điều kiện cho người dân có được quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình một cách
nhanh chóng, đúng đắn tạo niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Thứ tư, thụ lý VADS là cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo:
Các hoạt động tố tụng giải quyết VADS như hòa giải, thu thập chứng cứ, xét
xử… chỉ có thể được tiến hành nếu Tòa án đã thụ lý VADS. Nếu Tòa án làm tốt
hoạt động thụ lý sẽ tạo tiền đề giải quyết vụ việc nhanh chóng, chính xác, hiệu quả.
Còn nếu thực hiện hoạt động thụ lý một cách qua loa, thiếu chính xác, thiếu kỹ
càng, Toà án sẽ khó xác định chính xác nội dung tranh chấp, khó xác định được các
tài liệu chứng cứ cơ bản đã đầy đủ để làm cơ sở tiến hành giải quyết về sau, từ đó
nếu có tiếp tục giải quyết VADS thì cũng không đúng đắn và chính xác.
- Thứ năm, thụ lý VADS là cơ sở để Toà án tính thời hạn để giải quyết VADS:


17

Pháp luật quy định một thời hạn nhất định để giải quyết vụ án và thời hạn đó sẽ
được bắt đầu tính kể từ thời điểm thụ lý. Nếu Tòa án thực hiện đúng thủ tục thụ lý vụ án
thì sẽ đảm bảo được thời hạn giải quyết vụ án, tránh tình trạng án quá hạn luật định, án
tồn đọng, kéo dài, kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo
cho việc thực thi pháp luật và góp phần bảo vệ pháp chế XHCN.

Việc thụ lý không chỉ làm phát sinh trách nhiệm của Toà án với người dân,
đảm bảo giúp người dân giải quyết vấn đề của mình mà nó còn làm phát sinh tư
cách của các chủ thể pháp luật, sẽ có nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan...Những người này sẽ có những quyền và nghĩa vụ tố tụng do pháp
luật TTDS quy định. Do đó, khi vụ án đã được thụ lý, sẽ tạo nên mối quan hệ ràng
buộc giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với Toà án... đánh dấu sự phát
sinh một số quyền và nghĩa vụ mới cho các đương sự khi chính thức bước vào quá
trình tố tụng. Khi Toà án thụ lý vụ án, các đương sự đã bắt đầu được thực hiện các
biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
chẳng hạn như họ có quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ trong
vụ án mà họ đang lưu giữ; cùng với việc nộp đơn khởi kiện nguyên đơn có thể nộp
đơn yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, yêu cầu Tòa án tiến hành
thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình hoặc khiếu nại về việc trả
lại đơn khởi kiện, yêu cầu của Tòa án...
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN
DÂN SỰ
1.2.1. Về cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về khởi kiện, thụ
lý vụ án dân sự
Trước hết việc quy định khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự dựa trên cơ sở ghi
nhận và đảm bảo các quyền con người về dân sự. Quyền khởi kiện được ghi nhận là
một quyền con người trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các
Công ước quốc tế khác, cụ thể Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm
1948 ghi nhận “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có
thẩm quyền với phương diện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm
các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Kế thừa các quy
định về quyền con người, Điều 14 Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ


18


nghĩa Việt Nam đã quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể
hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Trên cơ sở
quy định về quyền con người của Hiến pháp 2013, pháp luật tố tụng dân sự cũng cụ
thể hóa cơ chế bảo vệ các quyền này thông qua phương thức khởi kiện tại Tòa án.
Do đó, việc ghi nhận khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động triển khai thực hiện
quyền khởi kiện của chủ thể có quyền trong TTDS trước hết phải dựa trên cơ sở ghi
nhận và bảo đảm các quyền con người về dân sự.
Việc thụ lý vụ án dân sự cũng là hoạt động của chủ thể có quyền triển khai
thực hiện quyền theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp
pháp của mình hay của người khác, khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay
tranh chấp. Theo đó khi chủ thể có quyền khởi kiện thì được thực hiện hoạt động
này, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể là vấn đề nhân quyền luôn được các
quốc gia trên thế giới quan tâm và được ghi nhận trong đạo luật mỗi quốc gia, tuy
nhiên nếu pháp luật chỉ công nhận quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể là
chưa đầy đủ mà điều quan trọng và cơ bản nhất là cần phải thiết lập cơ chế thực
hiện và bảo vệ chúng trong trường hợp bị xâm phạm. Việc ghi nhận quyền khởi
kiện, Toà án giải quyết vụ án dân sự thôi là chưa đủ khi mà các quyền này sẽ được
Toà án tiếp nhận ra sao, với những điều kiện cụ thể nào, trong thời hạn nào... nếu
không được quy định cụ thể thì sẽ không đảm bảo các quyền này được thực thi thực
sự trong cuộc sống, cũng như việc thực hiện nó sẽ trở nên thiếu thống nhất, kém
hiệu quả... Do đó, pháp luật đặt ra các quy định cụ thể về thụ lý vụ án để đảm bảo
khi người dân thực hiện quyền khởi kiện, Toà án giải quyết vụ án dân sự cho mình
hoàn toàn công khai, minh bạch, theo cơ chế rõ ràng, ràng buộc trách nhiệm của cả
Toà án và các đương sự.
Hơn thế nữa, việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong xã hội là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, khi mà
Nhà nước chính là đại diện cho lợi ích của các giai cấp trong xã hội, các quyền và
lợi ích chính đáng của các chủ thể đều được Nhà nước bảo hộ. Nguyên tắc này
được quy định tại pháp luật TTDS trước đây qua các văn bản như Bản hướng dẫn

về trình tự xét xử sở thẩm về dân sự ban hành kèm theo Thông tư 96/NCPL ngày


19

8/2/1977 của Toà án nhân dân tối cao, hay trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án
dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế... nay được quy định tại Điều 4
BLTTDS “Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện
vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Sự quy
định về khởi kiện, thụ lý VADS chính là sự cụ thể hoá nguyên tắc này.
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, có tác dụng đảm bảo cho hoạt động của bộ
máy Nhà nước được nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy hiệu lực của Nhà nước và đảm
bảo công bằng xã hội. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong
TTDS ở chỗ yêu cầu mọi hoạt động TTDS của người tiến hành tố tụng dân sự,
người tham gia TTDS, của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều phải tuân
theo quy định của pháp luật TTDS, mọi hành vi vi phạm đều được xử lý theo quy
định của pháp luật. Do đó, việc khởi kiện, thụ lý VADS - bước đầu tiên trong giai
đoạn tố tụng, không có bước này sẽ không có các bước tố tụng về sau, cũng đồng
nghĩa với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ mãi chỉ nằm trên
giấy tờ mà không thể được thực thi thực sự.
Việc đặt ra các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự còn xuất phát từ
nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự. Các chủ thể khi
tham gia quan hệ TTDS hoàn toàn bình đẳng về việc được hưởng quyền, thực hiện
nghĩa vụ, địa vị pháp lý, một người có nhiều tiền hơn, hay có địa vị xã hội cao hơn
khi tham gia một quan hệ dân sự với người khác không có nghĩa là họ có quyền coi
thường quyền của người kia, có quyền coi nhẹ, thiếu trách nhiệm trong việc thực
hiện nghĩa vụ của mình... Do vậy, việc ghi nhận các quy định cụ thể về khởi kiện, thụ
lý vụ án dân sự chính là góp phần đảm bảo sự bình đẳng của các đương sự khi tham

gia vào quan hệ pháp luật TTDS, dù họ có là ai, ở địa vị xã hội nào... thì khi muốn
khởi kiện vụ án dân sự thì vẫn phải thực hiện đầy đủ và tuân thủ các yêu cầu của
pháp luật, như phải cung cấp đầy đủ chứng cứ để chứng minh việc khởi kiện của
mình là chính đáng, phải nộp tiền tạm ứng án phí.v.v...Nếu có sự vi phạm các điều
kiện, thì dù bất cứ là ai cũng sẽ bị trả lại đơn khởi kiện theo pháp luật đã quy định.


20

1.2.2. Về cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các quy định về khởi kiện,
thụ lý vụ án dân sự
Việc ghi nhận các quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự ngoài việc dựa
trên các cơ sở lý luận trên thì còn dựa trên các cơ sở thực tiễn sau:
- Thứ nhất, do nhận thức, cũng như hiểu biết pháp luật của người dân còn
chưa cao, hoặc do tâm lý ai cũng muốn giành lấy cho mình những lợi ích hơn người
khác, do đó việc xâm phạm quyền và lợi ích của người khác có thể bị thực hiện dù
là vô tình hay cố tình, thì người bị xâm phạm vẫn phải chịu sự thiệt thòi không
đáng có. Do đó, cần có cơ chế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ
thể bị xâm phạm này. Không chỉ trao cho họ quyền khởi kiện mà còn phải đảm bảo
cho quyền khởi kiện đó của họ, Nhà nước cần có cơ chế thụ lý để giải quyết các
tranh chấp của người dân.
- Thứ hai, các quan hệ dân sự trong xã hội ngày càng trở nên phức tạp, kéo
theo đó là các tranh chấp cũng ngày càng đa dạng phức tạp hơn, nhưng trình độ
hiểu biết pháp luật của người dân nói chung còn chưa cao, khi xảy ra tranh chấp
khó tránh khỏi lúng túng khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó,
việc quy định rõ về vấn đề khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự là một vấn đề tất yếu
được đặt ra không chỉ giúp cho người dân có thể dễ dàng hơn trong việc khởi kiện
mà còn nắm cách thức Toà án sẽ thực hiện như thế nào đối với yêu cầu của mình,
vì sao yêu cầu của mình không được chấp nhận, Toà án cần bao lâu để giải quyết
yêu cầu đó... Việc quy định cụ thể này không những đảm bảo cho Toà án có thể

thực hiện đúng, thống nhất cách thức thụ lý vụ án mà còn tạo điều kiện cho người
dân theo dõi, kiểm tra hoạt động của Toà án có đúng hay không...
- Thứ ba, quá trình hình thành, phát triển của pháp luật tố tụng dân sự đã cho
thấy những khó khăn, thiếu sót khi không có quy định về khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự. Chính những thiếu sót này không những khiến cho quyền và lợi ích chính
đáng của người dân khó được đảm bảo, thực hiện, bảo vệ một cách nhanh chóng,
đúng đắn mà còn khiến cho hệ thống pháp luật trở nên rối loạn, thiếu thống nhất,
gây áp lực lớn lên những người thực thi pháp luật... dần dần khiến người dân mất
niềm tin vào cuộc sống khi mà chỉ cho họ quyền khởi kiện, nhưng việc đảm bảo
cho quyền đó được Toà án thực hiện ra sao thì lại không có quy định cụ thể.


×