Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.39 KB, 16 trang )

CÁC ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
MỤC LỤC

1 / 16


CÁC ĐIỀU KIỆN THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
Kiểm tra, xác định các điều kiện thụ lý vụ án dân sự không tách rời với hoạt động
kiểm tra đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Đây là hoạt động tư duy của Thẩm
phán và là hoạt động nghiệp vụ quan trọng trong việc thụ lý vụ án dân sự. Thẩm phán
được phân công thụ lý vụ án dân sự phải tiến hành kiểm tra các điều kiện thụ lý để quyết
định có thụ lý hay không thụ lý vụ án. Để thực hiện quá trình này được đúng đắn cần phải
căn cứ vào quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự.

1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự phải có quyền khởi kiện và năng lực hành vi tố tụng
dân sự đầy đủ. Hai yếu tố này tạo thành điều kiện cần và đủ đối với điều kiện về chủ thể
khởi kiện vụ án. Về quyền khởi kiện của người khởi kiện Thẩm phán cần kiểm tra, xác
định các yếu tố:
- Người khởi kiện có quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự không? Về nguyên tắc,
quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có được khi các chủ thể tham gia vào quan hệ
pháp luật nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình…). Theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, quyền khởi kiện vụ án dân sự có thể do chủ thể có quyền lợi bị tranh chấp tự
mình thực hiện hoặc thông qua người đại diện hợp pháp. Do đó, đối với trường hợp cá
nhân khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp luật thì người đại diện là người khởi
kiện nhưng Thẩm phán cần phải kiểm tra xác định quyền và lợi ích hợp pháp dân sự của cá
nhân. Quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp có thể là quyền tài sản hoặc
quyền nhân thân.
- Quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khởi kiện có bị xâm phạm hoặc có tranh
chấp chưa? Có quyền và lợi ích dân sự hợp pháp của chủ thể khởi kiện chỉ là điều kiện
cần trong quyền khởi kiện của chủ thể khởi kiện. Mặc dù người khởi kiện có quyền và lợi



2 / 16


ích dân sự nhưng quyền đó chưa bị xâm phạm thì cũng chưa đủ điều kiện về chủ thể khởi
kiện.
Do việc xác định quyền lợi của chủ thể có bị xâm hại hay không phải được khẳng
định trong bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khi bản án, quyết định
của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm.
Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự của chủ thể khởi kiện bị xâm phạm
hoặc có tranh chấp là điều kiện cần và đủ của quyền khởi kiện. Tòa án thụ lý vụ án khi
người khởi kiện có căn cứ ban đầu chứng minh được mình có quyền và lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
Ngoài điều kiện kiện về quyền khởi kiện, người khởi kiện phải có năng lực hành vi
tố tụng dân sự. Không phải tất cả các chủ thể khởi kiện đều được tham gia thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng tại Tòa án. Chủ thể khởi kiện trong tố tụng dân sự phải có đầy
đủ năng lực hành vi tố tụng. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng bởi những
người không có năng lực hành vi tố tụng thì không có hiệu lực. Người khởi kiện trong vụ
án dân sự là cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không có quốc
tịch). Họ phải là người đạt độ tuổi nhất định, sức khỏe bình thường, không bị mất khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đánh giá năng lực hành vi tụng dân sự
của cá nhân phải căn cứ vào quy định tại Điều 57 BLTTDS. Để kiểm tra điều kiện này
Thẩm phán căn cứ vào giấy tờ tùy thân, các giấy tờ chứng minh quan hệ đại diện. Người
khởi kiện là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ khởi kiện thông qua người đại
diện hợp pháp tham gia tố tụng. Nếu cơ quan, tổ chức bị sáp nhập, phân chia, giải thể thì
cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ thực hiện quyền khởi kiện. Kiểm tra
tư cách chủ thể khởi kiện này, đối với trường hợp có việc ủy quyền khởi kiện, Thẩm phán
cần lưu ý kiểm tra thủ tục ủy quyền theo đúng quy định của pháp luật


3 / 16


2.

Sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực
pháp luật hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của tòa án nhưng người khởi kiện có quyền
khởi kiện lại theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Để đảm bảo việc thực hiện bản án, quyết định, điểm c khoản 1 Điều 168 BLTTDS

quy định nếu vụ án dân sự đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì các đương sự không được quyền khởi kiện nữa, trừ một số trường hợp sau
đây:
- Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng xin ly hôn vợ đang có
thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại vụ án xin ly
hôn của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 85
của Luật Hôn nhân và Gia đình ;
- Trường hợp bản án, quyết định về ly hôn có giải quyết quan hệ về con, mức cấp
dưỡng. Sau khi bản án, quyết định này có hiệu lực pháp luật, nếu điều kiện nuôi con thay
đổi, thì người bố hoặc mẹ có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu thay đổi người nuôi
con. Hoặc nếu có yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng thì các bên có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết;
- Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn; đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà
Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện, thì khi đã đủ điều kiện do
pháp luật quy định, nguyên đơn có thể khởi kiện lại;
- Trong các vụ án bồi thường thiệt hại, đương sự có thể khởi kiện lại yêu cầu Tòa án
xem xét lại mức bồi thường.
Ngoài ra, trường hợp Toà án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy ðịnh tại

ðiểm c, e và g khoản 1 Ðiều 192 BLTTDS bao gồm: Người khởi kiện rút ðõn khởi kiện và
ðýợc Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; nguyên ðõn ðýợc
4 / 16


triệu tập hợp lệ ðến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; ðã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ
án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó thì theo quy định tại
khoản 1 Điều 193 BLTTDS đương sự có quyền khởi kiện lại.
Do vậy, Toà án chỉ được giải quyết những việc trước đó chưa được giải quyết bằng
bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã
có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp được quyền khởi kiện lại. Điều kiện này
nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các quan hệ xã hội. Trên
cơ sở các quy định của pháp luật, khi xác định điều kiện này Toà án phải căn cứ vào các
tài liệu do đương sự cung cấp về quá trình xảy ra tranh chấp để xác định sự việc đã giải
quyết hay chưa.

3. Điều kiện về thẩm quyền của tòa án
Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án là một trong những yêu cầu quan
trọng khi kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án dân sự. Việc kiểm tra điều kiện thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự, Thẩm phán cần phải kiểm tra xác định rõ thẩm quyền theo loại việc,
thẩm quyền theo cấp xét xử và thẩm quyền theo lãnh thổ. Kiểm tra điều kiện này Thẩm
phán cũng cần phải căn cứ quy định của luật tố tụng và luật nội dung .
3.1. Thẩm quyền theo loại việc
Việc xác định đúng thẩm quyền theo loại việc của Tòa án có ý nghĩa quan trọng
trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án. Theo các điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS,
Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án phát sinh từ bốn loại quan hệ pháp luật như
những vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, những vụ án phát sinh từ quan hệ
pháp luật hôn nhân và gia đình, những vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanhthương mại, những vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền theo loại việc, Thẩm phán cần phải có kỹ năng

phân biệt rõ thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự và tố

5 / 16


tụng hành chính. Thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự và
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước.
Ví dụ khi giải quyết các tranh chấp về đất đai thì theo Luật Đất đai năm 2003, Tòa
án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là các tranh chấp về đất đai mà
đất đó có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy
định tại khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Đối với đất tranh chấp đất
đai mà đất đó không có các loại giấy tờ nêu trên thì thẩm quyền giải quyết thuộc UBND.
Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014 đã mở rộng hơn thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định Tòa án có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng
nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp
về tài sản gắn liền với đất. Đối với tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng
nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì
đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức hoặc là nộp đơn yêu cầu giải quyết
tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có
thẩm quyền. Như vậy, theo quy định mới này thì Tòa án cũng có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100, nếu đương sự lựa chọn khởi kiện ra Tòa.
Trong trường hợp người sử dụng đất không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các
giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 nhưng họ lại có các hành vi như
xây dựng trái phép công trình trên đất không được phép của UBND và đã bị UBND xử lý
hành chính như buộc tháo dỡ công trình… thì đương sự có quyền khiếu nại quyết định
hành chính, hành vi hành chính đó đối với chủ tịch UBND cấp có thẩm quyền hoặc khởi
kiện ra Tòa hành chính để giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Trường hợp đất đó
không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai

năm 2013 nhưng trên đất có các tài sản như nhà ở, cây cối lưu niên… đương sự không
tranh chấp quyền sử dụng đất mà chỉ tranh chấp về tài sản trên đất và có yêu cầu Tòa án
giải quyết thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự,
6 / 16


nếu đương sự không tranh chấp về tài sản trên đất mà chỉ tranh chấp về quyền sử dụng
đất đó thì đương sự có quyền lựa chọn yêu cầu UBND giải quyết hoặc khởi kiện ra Tòa
án.
Bên cạnh đó cũng cần phân biệt thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án theo thủ
tục tố tụng dân sự với thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương mại như các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại nếu các bên đã có thỏa thuận trọng
tài thì thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương
mại quy định “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”.
Khi một bên khởi kiện tại Tòa án thì Toà án phải từ chối thụ lý vụ án trừ trường hợp thoả
thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Ngoài ra cần lưu ý là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 quy
định bổ sung Điều 32a về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan,
tổ chức như sau:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ
giải quyết. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức đó có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng.
2. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt bị yêu cầu hủy
quy định tại khoản 1 Điều này, thì quyết định cá biệt đó được Tòa án xem xét trong cùng
vụ việc dân sự. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đó được xác định
theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính.”
Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ

những bất cập cần phải bổ sung theo quy định tại Điều 32a BLTTDS năm 2011. Trong
quá trình xét xử nhiều vụ án dân sự Tòa án xét thấy có những quyết định cá biệt của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó rõ ràng trái pháp luật, xâm
7 / 16


phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án dân sự và đương sự có yêu
cầu hủy, nhưng Tòa án không có căn cứ để giải quyết. Trước đây, theo quy định tại Điều
12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì Tòa án có quyền hủy quyết định
này: “Khi xét xử vụ án dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định rõ ràng là trái pháp luật
của cơ quan tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà
Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”, nhưng BLTTDS năm 2004 không quy định vấn đề này,
nên Tòa án không có thẩm quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức khác. Vì vậy, đương sự nếu có yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó thì họ
phải khởi kiện vụ án hành chính. Mặt khác, trong những trường hợp như vậy nhiều vụ án
dân sự phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án bởi cần phải đợi kết quả giải quyết vụ án
hành chính mới có thể tiếp tục giải quyết được vụ án dân sự nên gây phiền hà cho đương
sự và kéo dài việc giải quyết vụ án.
Một kỹ năng rất quan trọng khi thụ lý giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến việc
hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức
đó là việc nhận biết quyết định cá biệt là gì? Quyết định đó có rõ ràng trái pháp luật hay
không? Và đương sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt đó không? Chúng ta có thể hiểu
Quyết định cá biệt có thể bị Tòa án tuyên hủy vì rõ ràng trái pháp luật là các quyết định
thuộc đối tượng có thể bị khiếu kiện theo quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính
và theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố
tụng hành chính. Quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật khi quyết định đó được ban
hành không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục hoặc nội dung do pháp luật quy định xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự Tòa án đang có

nhiệm vụ giải quyết; có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự đó. Tòa
án đồng thời giải quyết việc hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật đó trong cùng
vụ án dân sự khi có yêu cầu của đương sự và tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức, người có

8 / 16


thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tuy nhiên, trong quá trình thụ lý vụ án dân sự cần xem xét yêu cầu hủy quyết định
cá biệt thì đương sự đã khởi kiện vụ án hành chính hay khiếu nại theo thủ tục hành chính
về quyết định cá biệt đó hay chưa? Trong trường hợp đương sự không khởi kiện vụ án
hành chính hay khiếu nại theo thủ tục hành chính thì Tòa án mới xem xét yêu cầu hủy
quyết định cá biệt đó trong cùng một vụ án dân sự. Trong trường hợp một vụ án dân sự
có một người vừa có yêu cầu hủy quyết định cá biệt vừa khiếu nại theo thủ tục hành
chính và khởi kiện vụ án hành chính thì Tòa án phải yêu cầu đương sự lựa chọn một
trong ba loại tài phán đó. Trường hợp quyết định cá biệt có liên quan đến nhiều người mà
có người khởi kiện vụ việc dân sự, có người có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì
Toà án có văn bản yêu cầu các đương sự thỏa thuận bằng văn bản lựa chọn hình thức giải
quyết đối với quyết định cá biệt để khẳng định việc sẽ tiếp tục khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, hay khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm
quyền hay đề nghị giải quyết trong vụ việc dân sự để từ đó tòa án có căn cứ để tạm đình
chỉ việc giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 4 Điều 189 BLTTDS để chờ kết
quả giải quyết vụ án hành chính hay kết quả giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính
hoặc tiếp tục giải quyết yêu cầu hủy quyết định rõ ràng trái pháp luật trong vụ án dân sự.
3.2. Thẩm quyền của Tòa án các cấp
Theo các điều 33 và 34 BLTTDS, Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục sơ thẩm gồm có Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
Theo các quy định nêu trên hầu hết các loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án

đều thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Xác định thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện cần căn cứ vào Điều 33, 34
BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất
“những quy định chung” của BLTTDS (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 03/2012/NQ9 / 16


HĐTP). Hiện nay, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thẩm quyền của
Tòa án cấp huyện đã được mở rộng hơn so với BLTTDS 2004. Nhiều tranh chấp kinh
doanh -thương mại thuộc thẩm quyền của toà án cấp tỉnh trước đây, nay theo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện giải quyết.
Theo quy định tại Điều 33 BLTTDS năm 2004 thì Toà án nhân dân cấp huyện chỉ có
thẩm quyền giải quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương
mại từ điểm a đến điểm i Khoản 1 Điều 29 BLTTDS giữa các tổ chức, cá nhân có đăng
ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Song, theo Luật sửa đổi, Toà án
nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp kinh doanh thương
mại thuộc Khoản 1 Điều 29 BLTTDS và theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì các
chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không nhưng nếu đều có mục đích lợi nhuận thì xác
định là các tranh chấp về kinh doanh thương mại. Vì thế, các tranh chấp liên quan đến
mua bán cổ phiếu, trái phiếu; những tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng tín dụng có liên
quan đến ngân hàng; những tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách
nhiệm dân sự... hiện nay thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án nhân dân cấp huyện.
Đây chính là việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện giải quyết các tranh chấp dân sự
theo lộ trình tăng thẩm quyền mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp, Thẩm phán cần lưu
ý quy định riêng biệt tại khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình về thẩm quyền giải
quyết của Tòa án cấp huyện đối với các tranh chấp về ly hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân
Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu
vực biên giới với Việt Nam.

3.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ phải căn cứ vào Điều 35 và Điều 36
BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP. Ví dụ: Đối với tranh chấp mà
đối tượng tranh chấp là bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi có
bất động sản giải quyết. Bất động sản được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự.
10 / 16


Đối với các tranh chấp này, các bên đương sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu cầu
Tòa án nơi không có bất động sản giải quyết.
Đối với tranh chấp không phải bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc nơi bị đơn có trụ sở. Ngoài ra các bên có quyền
thỏa thuận chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hay có trụ sở giải quyết hoặc đối với
trường hợp theo Điều 36 BLTTDS thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết.
Sự thỏa thuận của các đương sự phải bằng văn bản và phải phù hợp với quy định của
pháp luật. Văn bản thỏa thuận phải được nộp cho Tòa án cùng với đơn khởi kiện và các
tài liệu chứng cứ khác để làm căn cứ xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán cần đối chiếu với địa chỉ
của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đối tượng tranh chấp được
trình bày trong nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm
theo đơn khởi kiện.

4. Điều kiện về hòa giải tiền tố tụng
Đối với những tranh chấp mà pháp luật quy định phải yêu cầu các cơ quan khác giải
quyết trước khi khởi kiện tại Toà án thì chủ thể khởi kiện phải yêu cầu và được các cơ
quan này giải quyết. Chẳng hạn như một số tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động hoà giải không thành hoặc không giải
quyết trong thời hạn; tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động sau khi Chủ tịch UBND
cấp huyện đã giải quyết mà hai bên vẫn còn tranh chấp hoặc hết thời hạn theo quy định

mà không giải quyết. Các tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 136
Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 203 Luật Đất đai năm 2013) phải hoà giải tại UBND
xã, phường, thị trấn trước khi khởi kiện ra Toà án. Theo quy định tại điểm b điều 8 Nghị
quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 hướng dẫn như sau:

11 / 16


- Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 135 của Luật
Đất đai.
- Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch
liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản
chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà
giải theo quy định của BLTTDS. Như vậy, theo hướng dẫn này thì không phải tất cả các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất đều phải hòa giải cơ sở trước khi khởi kiện ra
Tòa án.

5. Điều kiện do pháp luật nội dung quy định hoặc các bên có thỏa
thuận
Theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 168 BLTTDS, Tòa án trả lại đơn khi “chưa
đủ điều kiện khởi kiện”. Tại khoản 3 điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn
“Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật
có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về h́nh thức, nội dung đơn kiện),
nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó”. Do đó, kiểm tra
điều kiện khởi kiện ngoài việc nghiên cứu các quy định của pháp luật nội dung còn phải
kiểm tra xem các bên tranh chấp có thỏa thuận về điều kiện khởi kiện không? Ví dụ: các
bên tranh chấp thỏa thuận trong hợp đồng nếu phát sinh tranh chấp thì các bên phải có
trách nhiệm cùng nhau thương lượng và chỉ khởi kiện tại Tòa án nếu thương lượng không

thành. Như vậy, trong trường hợp này, Tòa án chỉ thụ lý nếu các bên tranh chấp đã có sự
thương lượng mà không đạt được kết quả.
Một số tranh chấp đặc thù cần phải đáp ứng một số điều kiện riêng biệt Toà án mới
thụ lý giải quyết vụ án. Vì vậy, tương ứng với mỗi một loại tranh chấp, thẩm phán cần
phải nghiên cứu luật nội dung để kiểm tra điều kiện do pháp luật nội dung quy định. Đối
với tranh chấp hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật hôn nhân và gia
12 / 16


đình năm 2000 thì trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng
tuổi thì người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn. Tranh chấp về bồi thường thiệt
hại do người thi hành công vụ của nhà nước gây ra, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết
thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 20 của Luật Trách nhiệm
bồi thường nhà nước mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể
từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt
hại có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường. Đối
với một số loại tranh chấp như đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ… theo quy định
của Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia thì khi chủ nhà muốn lấy lại phải thực hiện
thủ tục thông báo bằng văn bản cho phía bên kia trước một thời hạn từ 6 đến 12 tháng.
Nếu đương sự khởi kiện mà chưa thực hiện việc thông báo cho bên kia thì Tòa án trả lại
đơn khởi kiện. Đối với việc khởi kiện các cơ quan báo chí thì theo quy định của Điều 9
Luật báo chí, Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật báo chí thì phải yêu cầu cơ quan báo chí giải quyết việc đăng tin không đúng, sai
sự thật rồi mới được khởi kiện tại Tòa án.

6. Điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí trừ trường hợp được miễn
nộp toàn bộ tiền án phí hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí
Tạm ứng án phí là khoản tiền mà người khởi kiện có nghĩa vụ phải nộp để Tòa án

thụ lý giải quyết vụ án. Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi người khởi kiện xuất trình biên lai tạm
nộp án phí dân sự sơ thẩm. Nếu người khởi kiện không nộp hoặc nộp không đủ tiền tạm
ứng án phí sơ thẩm thì Tòa án không thụ lý vụ án. Qua kiểm tra đơn khởi kiện và các tài
liệu, chứng cứ kèm theo, xác định được người khởi kiện đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện
nêu trên, Thẩm phán tiến hành thông báo nộp tạm ứng án phí sơ thẩm cho người khởi
kiện biết (trừ trường hợp họ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí) theo mẫu số 04 ban hành

13 / 16


kèm theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP để họ làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí
trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 171 BLTTDS thì Toà án dự tính số tiền tạm ứng án
phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Như
vậy là cùng với thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải có phiếu báo ghi
số tiền tạm ứng án phí để người khởi kiện làm căn cứ nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự.
Để xác định người khởi kiện có phải nộp tiền tạm ứng án phí cũng như mức tiền tạm ứng
án phí mà người khởi kiện phải nộpThẩm phán cần phải căn cứ vào nội dung tranh chấp,
yêu cầu của người khởi kiện cũng như các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể
là Điều 127, 130, 131 BLTTDS và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Nếu yêu cầu của
người khởi kiện bằng hiện vật thì Thẩm phán cần yêu cầu họ tự xác định giá trị tài sản
tranh chấp, nếu phù hợp với giá thị trường và quy định của pháp luật thì Thẩm phán chấp
nhận, nếu không phù hợp Thẩm phán phải xác định lại.
Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí trong một thời hạn được nêu trong
thông báo nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm
ứng án phí. Đối với trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng thì thời gian
do có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng
án phí (khoản 2 Điều 171; điểm d, khoản 1 Điều 168 BLTTDS). Trở ngại khách quan “là

những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến
đấu, phục vụ chiến đấu. “Bất khả kháng” là sự kiện xảy ra một cách khách quan không
thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép. Ví dụ: do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện... nằm
ngoài tầm kiểm soát của người khởi kiện nên họ không thể thực hiện được việc nộp tiền
tạm ứng án phí.
Tuy nhiên, sau khi hết thời hạn 15 ngày theo quy định tại khoản 2 Điều 171
BLTTDS) mà người khởi kiện không nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán
cần lưu ý nội dung hướng dẫn tại Điều 10 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP như sau:
14 / 16


phải ấn định cho người khởi kiện trong thời hạn 7 ngày, người khởi kiện phải nộp cho
Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, hết thời hạn này người khởi kiện mới nộp cho
Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì tùy từng trường hợp mà xử lý như sau: tiến
hành thụ lý vụ án đối với trường hợp chưa trả lại đơn khởi kiện, trường hợp đã trả lại đơn
khởi kiện thì yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện và tiến hành vào sổ thụ lý vụ án. Hết thời
hạn 7 ngày mà người khởi kiện không nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì
Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho họ biết lý do về việc không thụ lý vụ án.
Đối với trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí (miễn
nộp toàn bộ hoặc một phần tiền tạm ứng án phí) thì họ phải có đơn đề nghị có đầy đủ các
nội dung theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Nộp kèm theo đơn là
các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn. Đơn đề nghị miễn nộp
tiền tạm ứng án phí phải có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi người khởi kiện
cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người khởi kiện làm việc đối với trường hợp người có
khó khăn về kinh tế. Do đó, Thẩm phán phải kiểm tra đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng
án phí và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn đối chiếu với các quy định của pháp luật về
án phí Tòa án để quyết định chấp nhận việc miễn tiền tạm ứng án phí.
Như vậy, kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án dân sự bao gồm việc kiểm tra 06 điều kiện
nêu trên. Các điều kiện này được quy định tại Điều 168 BLTTDS.

Theo quy định tại Điều 168 được sửa đổi, bổ sung thì trong các trường hợp mà Toà
án trả lại đơn khởi kiện không có trường hợp hết thời hiệu khởi kiện. Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP cũng đã hướng dẫn: Trường hợp trước đây, Tòa án đã trả lại đơn khởi
kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại, thì Toà án
thụ lý vụ việc và đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí nếu không thuộc diện được miễn
theo quy định pháp luật.
Trường hợp đã có bản án, quyết định của Toà án bác yêu cầu hoặc đình chỉ vì lý
do thời hiệu khởi kiện đã hết, thì Toà án căn cứ điểm b khoản 1 Điều 168 của
BLTTDS để trả lại đơn khởi kiện và giải thích cho họ biết họ có quyền làm đơn đề

15 / 16


nghị xem xét vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định
nêu trên.
Như vậy, thời hiệu khởi kiện không phải là điều kiện để xác định việc thụ lý vụ án
dân sự. Đây là điểm thay đổi mang tính chất đột phá so với BLTTDS 2004.

16 / 16



×