Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.63 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KHAMXAY XIAYINGYANG

XAYYIAXENG THAO

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC BỘ TƯ PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:

60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC
(Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Mặt trận Ủy ban
trung ương MTTQ Việt Nam)

HÀ NỘI - 2014

HÀ NỘI - 2015



LỜI CẢM ƠN
Cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS. TS. Bùi
Xuân Đức, người đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt quá trình làm luận văn
của mình.
Xin gửi cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo đã trang bị cho tôi những kiến
thức thiết thực trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, những người
đã động viên tôi trong suốt quá trình học tập ở Việt Nam.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

Tác giả

Xayyiaxeng Thao

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng
dẫn của PGS. TS. Bùi Xuân Đức. Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong
đề tài là nghiêm túc và trung thực. những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin về số liệu,
dẫn chứng phân tích và một số ý kiến đánh giá đều được trích dẫn từ những

nguồn tư liệu đáng tin cậy.

Tác giả

Xayyiaxeng Thao

ii


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC BỘ TƯ PHÁP CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO.......... 6
1.1. Sự xác lập và phát triển của Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức
của Bộ Tư pháp Lào..........................................................................................6
1.1.1. Sự ra đời Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp Lào ..................6
1.1.2. Quá trình phát triển của Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp
Lào ......................................................................................................................7
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp....................11
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức và cán bộ công chức Bộ Tư pháp ........................11
1.2.2 Đặc điểm của cán bộ, công chức Bộ Tư pháp ..................................................15
1.2.3. Vai trò của cán bộ, công chức Bộ Tư pháp .....................................................17
1.3. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư
pháp..................................................................................................................19
1.3.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp...........................19
1.3.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp 20
1.3.3. Những yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp ...25
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ CÔNG TÁC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC BỘ TƯ PHÁP CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ...................................................................... 29
2.1. Đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp hiện nay ...........................................29

2.1.1 Số lượng biên chế cán bộ, công chức Bộ Tư pháp ............................................29
2.1.2 Trình độ đào tạo chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức bộ Tư pháp 30
2.1.3.Trình độ lý luận chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp....30
2.1.4. Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp ....31
2.2. Biểu hiện chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp..........................33
2.2.1. Về tư tưởng, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức ......................................33
2.2.2. Về trình độ đào tạo......................................................................................35
2.2.3. Về hiệu quả thực thi công vụ.........................................................................36
2.2.4. Phương pháp và kĩ năng giải quyết công việc .................................................38
2.3. Đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và công tác nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức Bộ Tư pháp............................................................................40
iii


2.3.1. Những ưu điểm ...........................................................................................40
2.3.2. Những hạn chế ...........................................................................................42
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế ..................................................................43
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC BỘ TƯ PHÁP CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ................................................................................ 47
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp.............47
3.1.1. Yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.............................................47
3.1.2. Yêu cầu cải cách hành chính.........................................................................47
3.1.3. Yêu cầu phát huy vai trò của Bộ Tư pháp .......................................................49
3.2. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư
pháp .................................................................................................................50
3.2.1 Nhận thức đúng về vị trí, vai trò của Bộ tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức Bộ tư
pháp...................................................................................................................50
3.2.2. Đảm bảo cơ cấu, số lượng, trình độ đào tạo của cán bộ, công chức Bộ Tư pháp .51
3.2.3 Đảm bảo năng lực thực tiễn của cán bộ, công chức của Bộ tư pháp ...................53

3.3. Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư
pháp trong giai đoạn hiện nay.............................................................................54
3.3.1 Đổi mới công tác tuyển dụng.........................................................................54
3.3.2 Đổi mới công tác quy hoạch..........................................................................57
3.3.3 Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ Bộ tư pháp để thu hút nhân tài60
3.3.4 Đổi mới chính sách bố trí, sử dụng, luân chuyển ......................................63
3.3.5. Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ........................64
KẾT LUẬN............................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 73

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Điều tra về phẩm chất chính trị đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư
pháp Lào…………………………………………………………………….34
Bảng 2.2: Điều tra phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp
Lào…………………………………………………………………………..34

v


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CHDCND: Cộng hòa dân chủ nhân dân
CTCQ: Chính trị Quốc gia
NDCM: Nhân dân cách mạng
NXB: Nhà xuất bản
GS: giáo sư
PGS: Phó giáo sư

QPPL: Quy phạm pháp luật
TS: Tiến sỹ
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bộ Tư pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là cơ quan của
Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi
hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành
chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước về thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà
nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và các công tác tư
pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Bộ Tư pháp có một vị trí rất quan
trọng, là cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân,
thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tư pháp theo thẩm
quyền được phân cấp, đảm bảo cho các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy Bộ Tư pháp nói riêng và hệ thống chính trị nói chung,
xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác
của đội ngũ cán bộ công chức của Bộ Tư pháp. Chủ trương, chính sách, pháp
luật dù có đúng đắn nhưng sẽ khó có được hiệu lực, hiệu quả cao nếu như
không được triển khai thực hiện bởi một đội ngũ cán bộ công chức có năng
lực pháp luật tốt. Chính vì đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp có vai trò
như vậy nên việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp vững vàng
về chính trị, có đạo đức trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và trình độ

năng lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao luôn là mối quan tâm hàng đầu
của Đảng và Nhà nước Lào.
Trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp hiện nay, Bộ Tư
pháp có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Trong những năm qua Bộ Tư pháp Lào đã nỗ lực và đạt được
1


những kết quả quan trọng, khá toàn diện như: quản lý nhà nước về bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, trợ giúp pháp lý, thi hành án dân sự… được kiện
toàn theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; công tác xây dựng
pháp luật góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội; nêu cao vai trò đi đầu
trong việc thi hành pháp luật, năng lực, đạo đức cán bộ ngành tư pháp nhìn
chung được nâng lên với đội ngũ ngày càng lớn mạnh, đoàn kết, nhất trí cao,
thể hiện bản lĩnh lãnh đạo trong nhiều vấn đề... Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ,
công chức Bộ Tư pháp Lào hiện nay xét còn có nhiều mặt hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới do nhiều nguyên nhân như: đội ngũ
cán bộ công chức còn thiếu, pháp luật điều chỉnh chưa cụ thể, thống nhất;
Nhận thức về cán bộ công chức Bộ Tư pháp còn thiếu nhất quán, bản thân cán
bộ công chức Bộ Tư pháp có những đồng chí còn non kém về nghiệp vụ, đạo
đức, vì thế còn nhiều hạn chế trong công việc của mình. Vì vậy cần xây dựng
được đội ngũ cán bộ công chức Bộ Tư pháp đủ về số lượng và chất lượng, cần
có cơ chế đảm bảo cho đội ngũ cán bộ công chức Bộ Tư pháp hoạt động có
hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng của Bộ Tư pháp thông qua chức
năng nhiệm vụ của Bộ, thông qua hoạt động thực tiễn, để ngành Tư pháp ngày
càng phát triển tác giả đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng của đội ngũ
cán bộ, công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức đã được Đảng cộng

sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào đặc biệt quan tâm trong quá
trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Nhiều công trình bài viết,
bài báo của những người lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước và các nhà
nghiên cứu khác đã được công bố như:
- “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sửa đổi lối
làm việc”, Nxb CTQG, Hà Nội 2008.
- “Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vấn đề nâng cao ý thức
2


trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, Ban
Tuyên giáo Trung ương, Nxb CTQG, Hà Nội, 2009.
- “Tấm gương trong sáng trung với nước, hiếu với dân Hồ Chí Minh”,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2009.
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên, “Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003;
- PGS.TS Vũ Văn Phúc, TS. Nguyễn Duy Hùng (đồng chủ biên) , “Phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế”, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2012;
- Chương trình 04-Ctr/QU về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức quận Long Biên giai
đoạn 2010-2015” của Ban chấp hành Đảng bộ quận Long Biên khoá II nhiệm
kỳ 2010-2015.
- Bunma Kếtkêsỏn , “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ chủ
chốt cấp tỉnh nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện
nay”, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003
- Sômvăng Khămphonvôngsa, “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Luôngprabang nước Cộng hòa

Dân chủ nhân dân Lào quản lý giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa
học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2003
- Cayxỏn Phômvihản, “Nâng cao trách nhiệm chính trị và phương pháp
làm việc”, Nxb Nhà nước Lào, Viêng Chăn, 2008
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đề cập trực tiếp hoặc gián
tiếp đến nhiều nội dung về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức nói chung
theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền ở những mức độ và phạm vi khác nhau,
tương ứng với những khoảng thời gian nhất định. Trong khi việc nghiên cứu
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp vẫn chưa có tác
3


giả nào đầu tư nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống, vì vậy cần được
tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức Bộ Tư pháp, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp
về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Bộ Tư pháp trong giai đoạn
hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ
sau:
- Phân tích đặc điểm, vai trò, nhiệm vụ của cán bộ công chức Bộ Tư
pháp; Nội dung và hình thức đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức Bộ Tư pháp;
- Phân tích thực trạng xây dựng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán
bộ công chức Bộ Tư pháp, đưa ra những nhận xét chung về thực trạng và
những nguyên nhân của hạn chế
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công

chức Bộ Tư pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nói chung hoặc của
một số tỉnh nhất định đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, vì vậy luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức của Bộ Tư pháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào và pháp luật của Nhà nước về vấn đề nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ công chức nói chung và cán bộ công chức Bộ Tư pháp nói riêng
4


trên cơ sở xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật
biện chứng và triết học duy vật lịch sử. Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, tổng kết thực tiễn…
6. Đóng góp mới của luận văn:
- Đóng góp về mặt lý luận:
Luận văn góp phần hệ thống hóa các quan điểm về cán bộ, công chức và
làm rõ cơ sở khoa học của chất lượng cán bộ, công chức Bộ Tư pháp Lào và
tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công chức để từ đó luận giải, đánh giá
về chất lượng cán bộ, công chức ở Bộ Tư pháp Lào hiện nay.
- Đóng góp về mặt thực tiễn:
Luận văn là tài liệu để Bộ Tư pháp tham khảo và căn cứ vào tình hình
thực tế áp dụng trong hoạch định chính sách về đổi mới công tác cán bộ.
Đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu trong việc bồi dưỡng, đào tạo, quy
hoạch đội ngũ cán bộ công chức Bộ Tư pháp. Qua đó, tác giả hy vọng sẽ

được đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình quản lý nhà nước nhằm nâng cao
chất lượng cán bộ, công chức của Bộ Tư pháp nói riêng và đội ngũ cán bộ
công chức cả nước nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp
CHDCND Lào
Chương 2. Thực trạng chất lượng và công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ, cán bộ công
chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào
5


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC BỘ TƯ PHÁP CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO

1.1. Sự xác lập và phát triển của Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ,
công chức của Bộ Tư pháp Lào

1.1.1. Sự ra đời Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp
Lào
Ngay từ ngày đầu thành lập CHDCND Lào mới (năm 1975), Bộ Tư pháp
CHDCND Lào là một trong số 12 bộ thuộc cơ cấu Chính phủ CHDCND Lào.
Sau khi được thành lập, Bộ Tư pháp đã được phân công chủ trì, phối hợp với
các cơ quan chức năng xây dựng, trình Chủ tịch nước ban hành các sắc lệnh
về tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp, về dân sự, hình sự, về các

quyền tư do, dân chủ của công dân phù hợp với tình hình xã hội mới. Bộ có
chức năng quản lý và thực hiện công tác tư pháp, bao gồm cả công tác xét xử,
công tố, tòa án địa phương, quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp (luật sư, văn
phòng tư vấn pháp luật…). Việc hệ thống các cơ quan tư pháp được thiết lập
đồng thời với bộ máy nhà nước ở Trung ương và địa phương đã khẳng định
vai trò to lớn của công tác tư pháp trong hoạt động của chính quyền dân chủ
nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
chính quyền cách mạng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Đồng thời với việc đảm nhiệm những chức năng rất quan trọng của cơ
quan hành pháp gắn chặt với các hoạt động tố tụng và hoạt động của tòa án,
Bộ Tư pháp đã có những đóng góp quan trọng trong việc đặt nền móng, xây
dựng hệ thống pháp luật dân chủ nhân dân của Nhà nước Lào mới thay thế
cho hệ thống pháp luật thuộc địa, nửa phong kiến trước đây.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, thế hệ cán bộ tư
6


pháp đầu tiên gồm lực lượng nóng cốt là những trí thức - luật gia, luật sư yêu
nước được đào tạo từ chế độ cũ như: Kết Kiếttisắc, Kisỉn Sỉnphănngam,
Kêdun nhốtxayvibun, Sútta Chommanychăn, Khămkông Liêmprachăn… đã tự
nguyện tham gia gánh vác công việc kiến thiết chế độ dân chủ, vượt qua vô vàn
gian khổ, hiểm nguy để tổ chức và điều hành bộ máy tư pháp cách mạng.
Khi mới thành lập, Bộ Tư pháp CHDCND Lào còn gặp khó khăn nhiều
mặt, nhất là về trình độ chuyên môn, Bộ Tư pháp Việt Nam và Liên Xô trước
đây đã cử một số chuyên gia luật như: Phạm Đình Tấn, Nguyễn Ngọc Minh,
Nguyễn Văn Dũng, Rômanốp và Natasa… sang giúp nghiên cứu xây dựng
pháp luật, công tác tư pháp và xây dựng cán bộ pháp luật (chuẩn bị xây dựng
Trường trung cấp luật ở Thủ đô Viêng chăn). Dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng
và tập thể lãnh đạo Bộ, đội ngũ cán bộ tư pháp được bổ sung những luật gia
trẻ, được đào tạo chính quy từ các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) anh em,

cùng với các luật gia, luật sư, thẩm phán dưới chế độ cũ tự nguyện phục vụ
nền tư pháp, công tác tư pháp được đẩy mạnh trên cả nước CHDCND Lào.

1.1.2. Quá trình phát triển của Bộ Tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức
Bộ Tư pháp Lào
Với những nỗ lực triển khai hoạt động, từ năm 1975 đến năm 2012, Bộ
Tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp đã có bước phát triển và
đạt được những thành tựu nổi bật sau:
Giai đoạn những năm 1975 - 1992
Bộ Tư pháp CHDCND Lào hoạt động dựa trên cơ sở của Lệnh số
53/CP ngày 15-10-1976 của Chủ tịch nước, Nghị định số 05/HĐBT ngày 1001-1983 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số 38/HĐBT, ngày 05-6-1990
của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp CHDCND Lào có cơ cấu tổ chức gồm:
Văn phòng
Vụ Tổ chức - cán bộ
Vụ Nghiên cứu xây dựng pháp luật
7


Vụ Tuyên truyền và giáo dục pháp luật
Vụ Quản lý hệ thống tư pháp
Vụ Thanh tra
Vụ Xét xử
Vụ Giải quyết đơn khiếu nại tố cáo
Trường trung cấp luật
Do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, đến năm 1986 Tòa án nhân dân
trở thành một hệ thống độc lập tách khỏi Bộ Tư pháp và đến năm 1990 Viện
Kiểm sát nhân dân cũng tách ra độc lập; một số chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Tư pháp được chuyển giao cho các cơ quan khác thực hiện.
Bộ đã tập trung trí tuệ, thời gian để xây dựng và đã trình Quốc hội

thông qua việc ban hành 15 văn bản như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,
Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng Dân sự, Luật Tòa án nhân dân, Luật Viện
kiểm sát nhân dân…, đặc biệt đã tham gia tích cực việc sọan thảo Hiến pháp
1991 lần đầu tiên trong lịch sử chế độ mới CHDCND Lào, xác lập các nguyên
tắc cơ bản của chế độ dân chủ nhân dân, tạo nền tảng pháp lý cho việc hình
thành và củng cố bộ máy nhà nước, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ cơ bản
của công dân Lào. Việc ban hành các luật này là một sự kiện pháp lý quan
trọng trong lịch sử xây dựng nhà nước và pháp luật kiểu mới của dân, do dân,
vì dân, quy định thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) - công cụ quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật trong thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ xây
dựng nhà nước pháp quyền.
Như vậy, trong giai đoạn đầu từ khi tái lập, mặc dù số lượng văn bản
xây dựng, tham gia xây dựng không nhiều, nhưng hoạt động xây dựng pháp
luật của Bộ Tư pháp đã ghi được những dấu ấn đậm nét thông qua việc chủ trì
soạn thảo Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Luật Ban
hành VBQPPL; tham gia soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự.
Giai đoạn những năm 1992 - 2006
8


Dựa trên Nghị định số 194/CP ngày 02-11-1999, Nghị định số 110/CP
ngày 31-7-2000 và Nghị định số 123/CP ngày 01-9-2004 của Chính phủ về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp
CHDCND Lào, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Bộ Tư pháp đã được thành
lập thêm một số đơn vị như:
Vụ Công chứng
Vụ Thi hành án
Học viện tập huấn pháp luật và công tác tư pháp
Trung tâm giải quyết tranh chấp kinh tế

Viện Nghiên cứu pháp luật và hợp tác quốc tế
Bước vào thế kỷ 21, Quốc hội Lào thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp 2004, trong đó khẳng định Nhà nước Lào là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, được tổ chức theo nguyên tắc “quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Ngành tư pháp - với hai chức
năng cơ bản, đặc trưng và xuyên suốt là quản lý nhà nước về xây dựng pháp
luật và quản lý nhà nước thống nhất về công tác tư pháp - được đặt vào vị trí
đặc thù, có trách nhiệm lớn lao là tham gia vào công việc cả ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.
Sau 15 năm hoạt động, Bộ Tư pháp CHDCND Lào đã đạt được những
kết quả quan trọng, tiếp tục khẳng định vị trí của công tác tư pháp trong sự
nghiệp đổi mới và trên con đường tiếp tục đi lên của đất nước. Phát huy
những thành tựu đạt được trong những năm trước về công tác xây dựng pháp
luật, Bộ đã tập trung trí tuệ, thời gian để xây dựng và đã trình Quốc hội thông
qua 60 VBQPPL quan trọng như: Luật Quốc hội, Luật Hành chính, Luật Đầu
tư, Luật Kinh doanh…, đồng thời sửa đổi, bổ sung 13 VBQPPL không phù
hợp với tình hình thực tế của sự phát triển về chính trị, kinh tế và xã hội trong
nước và tham gia ý kiến về mặt pháp lý hàng trăm văn bản khác.
Đây là kết quả lao động sáng tạo trong nhiều năm liên tục của tập thể

9


nhiều thế hệ các chuyên gia pháp lý, được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của
Đảng, Nhà nước, sự tham gia nhiệt tình và hiệu quả của toàn dân, của các cấp,
các ngành, trong đó có công sức đóng góp trực tiếp và quan trọng của đội ngũ
cán bộ, công chức Bộ Tư pháp với tư cách là đơn vị chủ trì soạn thảo.
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
Thực hiện Nghị định số 404/CP ngày 23-11-2007 của Thủ tướng Chính

phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ Tư pháp
CHDCND Lào, Bộ Tư pháp đã được thành lập một số đơn vị theo yêu cầu
nhiệm vụ mới như: Vụ Thanh tra, Trường cao đẳng luật ở 3 miền (Luông
Prabang, Thủ đô Viêng Chăn và Savănnakhết), quản lý các tổ chức chuyên
nghiệp pháp luật xã hội (luật sư và các văn phòng tư vấn pháp luật).
Trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới sâu sắc, toàn diện do Đại
hội IV của Đảng NDCM Lào khởi xướng, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ
máy của Bộ Tư pháp nói riêng, ngành tư pháp nói chung đã được tăng cường,
mở rộng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn quốc phòng, an
ninh và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Hiện nay, Bộ Tư pháp thực hiện
chức năng quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực, bao gồm: xây dựng và thi
hành pháp luật, kiểm tra văn bản pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật, thi
hành án; quản lý hệ thống tư pháp; hợp tác quốc tế; quản lý nhà nước các dịch
vụ công trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp… Để đảm bảo thực hiện các nhiệm
vụ nêu trên, tổ chức các cơ quan tư pháp và pháp luật không ngừng được cùng
cố, phát triển mạnh mẽ ở cả 4 cấp, cùng với hệ thống cơ quan thi hành án 3
cấp; ở tất cả các bộ, ngành và hầu hết các doanh nghiệp lớn của Nhà nước đều
có tổ chức pháp chế.
Nhìn lại lịch sử xây dựng và trưởng thành của Bộ Tư pháp trong sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, có thể nói, Bộ Tư pháp CHDCND Lào đã đạt được
nhiều thành tựu quan trong và nổi bật trong việc góp phần xây dựng, hoàn thiện
các nền tảng pháp luật và tư pháp dân chủ nhân dân, đồng thời đảm đương tốt
10


chức năng quản lý nhà nước đa ngành. Từ các hoạt động vĩ mô như giúp Quốc
hội, Chính phủ hoạch định chiến lược pháp luật, tư pháp của đất nước, xây
dựng và thực thi hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, đến các hoạt động chuyên môn có tính tác nghiệp, cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp như: công chứng, chứng thực, đăng ký hộ
tịch, giải quyết các vấn đề quốc tịch, trợ giúp pháp lý, đăng ký giao dịch bảo
đảm…, công tác tư pháp đang ngày càng thấm sâu hơn vào từng việc làm thiết
thực, giúp cho quốc kế, dân sinh; ngày càng gắn kết, phục vụ trực tiếp sự phát
triển kinh tế - xã hội của các địa phương và đất nước, đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước và nhu cầu pháp lý về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân
và tổ chức.
Trong suốt 37 năm qua, dưới sự lãnh đạo của các Bộ trưởng Kụ
Suvănnamêthi, Khămuổn Búpphả, Chalơn Nhiapaohơ và tập thể lãnh đạo Bộ
hiện nay, ngành tư pháp nói chung, Bộ Tư pháp nói riêng luôn lấy việc thực
hiện những mục tiêu, yêu cầu cụ thể của cộng cuộc cải cách pháp luật, cải
cách hành chính và cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng làm thước đo
chất lượng, hiệu quả công việc và sự trưởng thành, tiến bộ của Bộ. Dưới sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, sự khuyến khích, động viên kịp thời của
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với những ý kiến tham
mưu, đề xuất về mặt chính sách và những sáng kiến về mặt giải pháp của Bộ,
các lĩnh vực công tác của Bộ Tư pháp đã được đổi mới toàn diện và có những
đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp

1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức và cán bộ công chức Bộ Tư pháp
Cán bộ, công chức là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó
phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia, là bộ phận nhân lực chủ yếu trong
hoạt động quản lý nhà nước. Năng lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước
nói chung, của nền hành chính nhà nước nói riêng suy cho cùng được quyết
11


định bởi trình độ năng lực và phẩm chất của người cán bộ, công chức. Cán bộ,
công chức được hiểu chung nhất là những người thực thi công vụ, hoạt động

mang tính quyền lực nhà nước hoặc phục vụ cho việc ban hành các quyết định
quản lý nhà nước, của xã hội làm mục tiêu, căn cứ, tiêu chuẩn cho hành vi của
mình. Với những giai đoạn lịch sử nhất định thuật ngữ cán bộ, công chức
cũng mang những nội dung khác nhau.
Tại Pháp quan niệm về cán bộ, công chức đầu tiên được xác định bằng
“lệ quan”, song trong đó khái niệm cán bộ, công chức cũng chưa thật sự rõ
ràng, đến năm 1984 bằng việc ra đời bộ luật mới: “Luật địa vị nói chung của
công chức” thì nội hàm từ cán bộ, công chức cũng như địa vị, quyền và nghĩa
vụ công chức mới được xác định rõ ràng hơn. Theo luật này, cán bộ công
chức của Pháp bao gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng đồng
lãnh thổ (công xã, tỉnh, lĩnh vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong
một công sử nhà nước hoặc một công sử tự quản, kể cả các bệnh viện và được
biên chế vào một ngạch của nền hành chính công. Công chức được gọi chung
là nhân viên công chức bao gồm: nhân viên làm việc trong Bộ máy Hành
chính Nhà nước, các Quan toà, nhân viên sự nghiệp quốc doanh, nhân viên
đơn vị quân sự và nhân viên làm việc trong Quốc hội. Nhưng không phải tất
cả nhân viên công chức đều chịu sự điều chỉnh bởi luật công chức, mà chỉ có
nhân viên giữ các chức vụ thường xuyên trong Bộ máy Hành Chính Nhà
nước, còn lại các nhân viên được điều chỉnh bằng luật lao động, Luật hợp
đồng họ được bảo vệ về mặt chức nghiệp.
Tại Anh, năm 1895 thuật ngữ “công chức” là những người do Vua Anh
trực tiếp bổ nhiệm hoặc được Uỷ ban dân sự cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho
phép tham gia công tác của cơ quan dân sự và những người mà toàn bộ tiền
lương được hưởng từ ngân sách thống núât của Vương quốc liên hợp hoặc và
các khoản khác được Nghị viện thông qua. Đến năm 1977, quan niệm công
chức được giải thích rõ hơn đó là những người thay mặt Nhà nước giải quyết
công việc công. Những người không có được vị trí trong Bộ máy nhà nước
12



được pháp luật quy định thì không phải là công chức, Ví du: nhân viên Chính
trị, nhân viên Tư pháp….
Tại Trung Quốc cán bộ dùng chung để chỉ những nhân viên, công chức
để phân biệt với nhân viên tập sự, binh lính, công nhân; còn một nghĩa nữa là
chuyên chỉ những người có trách nhiệm lãnh đạo và công chức không lãnh
đạo, được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước thông quan một chế độ thi
tuyển rất khắt khe. Bằng cách liệt kê cụ thể những ngạch công chức không
lãnh đạo, và những chức danh của công chức lãnh đạo, Trung Quốc đã chỉ ra
cụ thể những đối tượng là công chức.
Tại Nhật Bản hiện nay từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân đội để chỉ
những người đóng vai trò bộ khung, còn để chỉ công chức hay viên chức họ dùng
từ “quan liêu”, theo nghĩa phổ biến là những người làm việc trong bộ máy nhà
nước.
Tại Việt Nam khái niệm cán bộ, công chức được thay đổi theo từng
thời kỳ. Ban đầu từ “cán bộ” được dùng để chỉ những người có chức vụ, vai
trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có ảnh hưởng tác động đến hoạt
động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành,
đóng góp phần định hướng phát triển của tổ chức. Đồng thời có thể hiểu rằng:
cán bộ là khái niệm chỉ những người làm việc, công tác có chức vụ trong một
cơ quan, một bộ máy nhất định của Đảng và Nhà nước, là người được đào tạo,
rèn luyện thử thách và trưởng thành trong quá trình thi hành đường lối, nhiệm
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho quần
chúng hiểu rõ và thio hành, đồng thời đem tình hình người dân báo cáo cho
Đảng và Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng ”, “Vì vậy cán bộ là
cái gốc của mọi việc”. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình,
Người luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người nói: Việc đào
tạo bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu, phải trọng nhân tài,trọng cán bộ,
13



trọng những người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Trước yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, ngày 13/11/2008 tại kỳ họp
thứ IV Quốc hội khóa XII, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua và ban hành Luật cán bộ, công chức có hiệu lực từ ngày
1/1/2010. Luật này đã phân định rõ đối tượng cán bộ, công chức và tách biệt
với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập do Luật viên chức
điều chỉnh (có hiệu lực từ ngày 1/1/2012). Theo quy định của Luật cán bộ,
công chức thì “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
"Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Ở Lào quan niệm cán bộ, công chức cũng khác nhau trong từng thời kỳ.
Ban đầu từ “Cán bộ” được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp và được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán
bộ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó

trở lên, dần dần từ “cán bộ” được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động
14


kháng chiến thoát ly, để phân biệt với người dân.
Hiện tại, khái niệm “cán bộ, công chức” được hiểu đồng nhất giữa hai
từ này. Nói chung từ công chức được gọi chung trong từ cán bộ. Song cán bộ,
công chức được hiểu tương tự như quan niệm của Việt Nam. Theo điều 2
Nghị định số 82/CP ngày 19/5/2003 quy định về cán bộ, công chức của Lào
qui định: cán bộ, công chức là những người mang quốc tịch Lào và được
tuyển, bổ nhiệm làm việc thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức của Nhà
nước từ trung ương đến địa phương và các tổ chức đại diện CHDCND Lào tại
nước ngoài được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Bao gồm những người
được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc thường xuyên trong các cơ quan
Đảng, đoàn thể, mặt trận tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện, các tổ chức đại diện của Lào ở nước ngoài.
Đội ngũ cán bộ công chức Bộ Tư pháp là một bộ phận cấu thành đội
ngũ công chức của cả nước, bao gồm:
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức,
hoặc giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan của Bộ Tư pháp .
- Những người được tuyển bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong các cơ quan của Bộ Tư pháp
- Những người được tuyển dụng bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc
được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan của Bộ Tư pháp.

1.2.2 Đặc điểm của cán bộ, công chức Bộ Tư pháp
Cán bộ công chức Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ

trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi
hành án và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý công tác
thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ
15


công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Do vậy, cán
bộ công chức Bộ Tư pháp có những đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, cán bộ công chức Bộ Tư pháp chủ yếu là cán bộ công chức Nhà nước
Quyền tư pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước,
quyền lực nhà nước do đội ngũ cán bộ công chức thay mặt Nhà nước trực tiếp
thực hiện. Cán bộ công chức Bộ Tư pháp là những người thực thi quyền tư
pháp do đó họ phải là cán bộ công chức Nhà nước, đó là những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm và được giao giữ một công vụ thường xuyên trong các
cơ quan tư pháp và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Hai là, hoạt động của cán bộ công chức Bộ Tư pháp là hoạt động quản
lý nhà nước về hoạt động xây dựng, bảo vệ, thi hành pháp luật.
Hoạt động của cán bộ công chức Bộ Tư pháp khác với hoạt động của
cán bộ công chức nói chung được thể hiện rõ nét nhất ở phạm vi công vụ của
nó. Bởi Bộ Tư pháp được có nhiệm vụ, chức năng xây dựng pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Ba là, số lượng cán bộ công chức Bộ tư pháp chiếm tỷ trọng không lớn
trong bộ máy Nhà nước
Nếu so sánh với số lượng cán bộ công chức hoạt động trong các cơ
quan nhà nước khác thì số lượng cán bộ công chức hoạt động trong Bộ Tư
pháp là không lớn. Đặc điểm này cho phép chúng ta có thể thực hiện chế độ
đãi ngộ tốt cho đội ngũ này vì trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn có hạn
chế mà yêu cầu đặt ra phải xây dựng đội ngũ cán bộ trong sách thì việc đãi
ngộ tốt cho đối tượng này là cần thiết và có thể thực hiện được trong giai đoạn
hiện nay.

Bốn là, cán bộ công chức Bộ Tư pháp là những người am hiểu pháp
luật sâu sắc
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật. Tất cả mọi công dân nói chung, cán bộ công chức nhà
nước nói riêng đều phải am hiểu pháp luật để xử sự theo pháp luật. Tuy nhiên,
16


cán bộ công chức Bộ Tư pháp là những người tthay mặt nhà nước thực hiện
nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ và thực thi pháp luật, vì thế họ phải là những
người am hiểu pháp luật sâu sắc.
Năm là, Đội ngũ cán bộ công chức Bộ Tư pháp tương đối ổn định, mang
tính kế thừa, nhưng luôn luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng
Đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước nói chung, Bộ Tư pháp nói riêng
hoạt động ổn định, ít chịu biến động nhằm duy trì tính ổn định, liên tục của
nền hành chính. Trong tình hình các lĩnh vực hoạt động của xã hội không
ngừng phát triển; đối tượng điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng và
phức tạp hơn: yêu cầu của người dân về chất lượng phục vụ ngày càng cao
nhưng các cơ quan nhà nước không thể tuyển dụng hàng loạt người lao động
mới, vì rằng việc tuyển dụng và giải quyết các lao động dôi dư trong các cơ
quan nhà nước luôn liên quan đến một loạt các vấn đề về chính sách, chế độ
xã hội phức tạp.
Giải pháp hiệu quả, thích hợp trong điều kiện hiện nay là xây dựng hệ
thống chính sách tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt, luân chuyển,
đãi ngộ phù hợp để giảm thiểu tối đa sự chênh lệnh về số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực. Nâng cao nguồn nhân lực hiện có, thông qua bồi
dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức nhằm đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của các cơ quan Nhà nước nói chung, Bộ Tư pháp nói riêng.
Chú trọng chất lượng tuyển dụng nhân lực, thu hút, khuyến khích nhân tài thực
thi công vụ, hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm trong tuyển dụng cán bộ

công chức.

1.2.3. Vai trò của cán bộ, công chức Bộ Tư pháp
Bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cán bộ và công tác cán bộ đều giữ vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng. Cán bộ là nhân tố quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là gốc của mọi công việc” và
17


“công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người còn diễn
đạt hình ảnh: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt
thì dù động cơ có tốt, dù chạy thì máy cũng tê liệt”. Đối với đội ngũ cán bộ, công
chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào, nhận định trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
hết sức chính xác, vì họ là trung tâm đoàn kết, tập hợp, tổ chức các cán bộ, công
chức ở Bộ, là “linh hồn” của cả hệ thống các tổ chức ở Bộ. Các tổ chức đảng,
chuyên môn, đoàn thể ở Bộ mạnh hay yếu, phong trào quần chúng có sôi nổi hay
không, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có được thực hiện tốt
hay không... phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức ở Bộ.
Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đặc biệt là khi Đảng và
Nhà nước Lào tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và xây dựng Nhà nước
pháp quyền, Bộ Tư pháp luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng, góp phần xây dựng, hoàn thiện các nền tảng pháp luật và tư pháp
dân chủ nhân dân Lào để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào thể
hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- Cán bộ, công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào là những người tổ

chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Họ không những phải có trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, mà còn phải
chăm lo, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
- Cán bộ, công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào giữ vai trò định hướng
quản lý nhà nước về pháp luật và công tác tư pháp, có tác động trực tiếp và
quyết định đến sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục, an ninh, quốc phòng…
- Cán bộ, công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào là người nắm các khâu
trọng yếu, trọng tâm và những vấn đề mới nảy sinh, cơ mật trong đời sống xã hội.
- Đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp CHDCND Lào là những
18


×