Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁP THỊ NHUNG

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành

: Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự

Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
cố liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

GIÁP THỊ NHUNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ...........6
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự .................................................................................................................6
1.2. Cơ sở của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự ..............................................................................................11
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTHS về nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm
1945 đến trước năm 2003 ......................................................................................16
Kết luận chƣơng 1 ....................................................................................................21
Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................22
2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự ...............................................................................................22
2.2. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..................................39
Kết luận chƣơng 2 ....................................................................................................44
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM
BẢO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................................45
3.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự .............................................................................................45

3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................................................55
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................71
PHỤ LỤC .................................................................................................................76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTVAHS

: Điều tra vụ án hình sự

KTVAHS

: Khởi tố vụ án hình sự

QĐKTVA

: Quyết định khởi tố vụ án

THQCT


: Thực hành quyền công tố

TTHS

: Tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
3.1


Trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố tụng

49

3.2

Số vụ án VKS truy tố nhưng tòa án tuyên không phạm tội

50


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự điều tra là giai đoạn trong đó cơ quan có thẩm quyền
áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực
hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.Với tính chất là một giai
đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để
chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp
dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm.
Vì vậy, nếu các hoạt động tố tụng không thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định ở giai đoạn này, rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi
ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân là một cơ
quan giữ vị trí rất quan trọng và là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

chỉ rõ: "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng
đảm bảo thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [3]. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 xác định: "Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện
công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [4].
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước, trong những năm qua ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố gắng thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ
trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần quan trọng
trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Cùng với đó trong thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành
nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 2013; Luật tổ chức VKSND năm 2014,
có hiệu lực từ 01/6/2015 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư


2
pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới
liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Mặt khác, mặc dù BLTTHS
năm 2003 có quy định khá đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn
điều tra nhưng trải qua hơn 10 năm thi hành đã bộc lộ những bất cập cần được sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Do vậy, để Viện kiểm
sát làm tốt chức năng của mình trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự, khắc
phục được những tồn tại, hạn chế, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của
luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát. Trên tinh thần đó, tác
giả quyết định chọn đề tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020", Kết luận 79/KL-TW về "Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án,
Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra" được ban hành. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của VKS trong điều tra vụ án hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề này, tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau:
Nghiên cứu chung về việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Điển hình như: Nguyễn Minh Đức (2006): “Về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
theo tinh thần cải cách tư pháp” [22]; Lê Hữu Thể (2008), “Tổ chức bộ máy và chức
năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp”[37]; Khuất Duy Nga
(2005): “Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kì đổi mới”[32]; Đỗ Văn Đương
(2006): “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay”[23]… Những công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung nghiên cứu tổ chức bộ
máy, hoạt động và chức năng, nhiệm vụ trên tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị mà không chú trọng nghiên cứu một khía cạnh cụ thể nào.
Nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực cụ
thể, như: đề tài khoa học cấp Bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn
hoạt động công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay" [43]; đề tài khoa học cấp Bộ: "Vai trò


3
của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị"[44]; Lê Hữu Thể (Chủ
biên) (2005) : Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra” [36]; Phạm Mạnh Hùng (2007): “Hoàn thiện các quy định của bộ luật
tố tụng hình sự về quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong tố tụng hình
sự” [26]…Tuy đã đi sâu vào nghiên cưú lĩnh vực thể, tập trung vào hai chức năng
chính của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp song còn
dàn trải, chưa tập trung vào nhiệm vụ, quyền hạn trong một giai đoạn cụ thể.
Một số công trình nghiên cứu về VKS trong giai đoạn đề tài “Kiểm sát hoạt

động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát”,
tác giả Trần Công Hòa (2007)[24]; Vương thị Thanh Hương (2010), “chức năng của
VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Luận văn thạc sĩ luật học[27]; Bùi
Ngọc Tú (2013), “nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra”, Luận văn
thạc sĩ luật học [41]…Các tác giả này, đã đi vào phân tích nhiệm vụ và quyền hạn
của VKS trong một giai đoạn cụ thể - giai đoạn điều tra, song hoặc trình bày về khía
cạnh thực hành quyền công tố hoặc là về kiểm sát điều tra.
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động của VKS nhân dân nói chung và một số công trình, bài viết nghiên
cứu về chức năng hoạt động của VKS trên một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
giai đoạn điều tra gắn với yêu cầu cải cách tư pháp, đồng thời nghiên cứu thực tiễn
hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự để thấy được những
bất cập, vướng mắc còn chưa được tháo gỡ. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự
nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự, những quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và đánh giá thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong giai đoạn này, luận văn đưa ra những giải pháp đảm bảo thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Với mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận như: khái niệm về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện


4
kiểm sát và vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
- Nghiên cứu một cách khái quát những quy định của pháp luật TTHS và những

văn bản pháp luật có liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Phân tích những kết quả đạt được cũng như những vướng mắc, bất cập trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự. Từ đó, đề xuất kiến nghị bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và thực
trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai điều tra vụ án hình sự. Đồng thời
nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự ở Việt Nam (từ năm 2010 – năm 2014) để thấy được những tồn tại, hạn chế (
đề tài không nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát quân sự trong giai đoạn
điều tra).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm và đường lối của Đảng, Nhà nước về
cải cách tư pháp.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như Lý luận- thực tiễn, lịch
sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, logic nhằm giải quyết mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
- Thứ nhất, đề tài góp phần tạo sự thống nhất trong nhận thức về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Thứ hai, với việc đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật TTHS
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đề tài đã
giải quyết được những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện những quy định



5

của pháp luật trên thực tế.
- Thứ ba, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu để nghiên
cứu, giảng dạy trong nhà trường và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà khoa
học khi nghiên cứu những vấn đề có liên quan.
7. Cơ cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Chương 3: Thực trạng thực hiện và một số giải pháp đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.


6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự
Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 tuy chưa có một điều luật cụ thể nào
quy định về các giai đoạn tố tụng cũng như đưa ra khái niệm về các giai đoạn tố
tụng nhưng căn cứ vào bố cục của Bộ luật đã thể hiện sự phân chia các giai đoạn tố
tụng một cách rõ nét, theo đó quá trình giải quyết một VAHS trải qua các giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tương ứng với đó, mỗi giai đoạn có

nhiệm vụ, chủ thể, trình tự, thủ tục thời hạn cụ thể nhằm phục vụ mục đích chung
của toàn bộ quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, trong khoa học luật TTHS dựa trên sự
khác biệt về chủ thể, các nhà nghiên cứu cũng chia tiến trình tố tụng giải quyết một
vụ án hình sự thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Như
vậy, dù trên phương diện nào điều tra cũng được coi là một giai đoạn tố tụng độc
lập. Tuy nhiên, giai đoạn điều tra bắt đầu từ đâu và kết thúc khi nào thì hiện nay vẫn
có nhiều quan điểm khác nhau.
Nhóm quan điểm thứ nhất: “ Khởi tố và điều tra VAHS là một giai đoạn mà
theo đó thì điều tra là giai đoạn đầu tiên của quá trình tiến hành tố tụng hình sự,
trong đó CQĐT áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm
và người thực hiện hành vi phạm tội”[31,Tr.5]; và quan điểm: “trong giai đoạn
điều tra VAHS, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết
thúc khi VKS quyết định việc truy tố người phạm tội, hoặc khi vụ án được đình chỉ
theo quy định của pháp luật”[36, Tr.66]
Cả hai quan điểm trên hoặc coi giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra là một
giai đoạn tố tụng độc lập, hoặc coi giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố là một giai
đoạn tố tụng độc lập mà không thấy được sự khác nhau về nhiệm vụ, mục đích, ý
nghĩa, chủ thể và trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn.
Quan điểm thứ hai “Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự trong đó cơ quan có
thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án”[33, Tr.265].


7
Có thể thấy quan điểm này là tương đối hoàn chỉnh, đã khắc phục được những thiếu
sót của những quan điểm trước. Đã coi điều tra là một giai đoạn độc lập của tố tụng
hình sự, có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp
cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội.
Tuy nhiên, quan điểm trên đã không chỉ rõ được phạm vi của giai đoạn điều tra.
Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm cho rằng: “điều tra VAHS là một

giai đoạn của quá trình TTHS do Cơ quan có thẩm quyền điều tra VAHS tiến hành
nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm. Giai đoạn điều tra là giai
đoạn tiếp theo sau của giai đoạn khởi tố được tiến hành trên cơ sở quyết định khởi
tố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi có
QĐKTVA và kết thúc khi CQĐT hoàn thành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
người phạm tội ra trước Tòa án hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra”[20, Tr. 96].
Từ đó, tác giả bổ sung quan điểm về phạm vi của giai đoạn điều tra và đưa ra khái
niệm hoàn chỉnh về giai đoạn điều tra VAHS như sau: điều tra VAHS là một giai
đoạn của quá trình TTHS do Cơ quan có thẩm quyền điều tra VAHS tiến hành
nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm. Giai đoạn điều tra là giai
đoạn tiếp theo sau của giai đoạn khởi tố được tiến hành trên cơ sở QĐKT của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi có QĐKTVA
và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra quyết định
đình chỉ điều tra (Trong những vụ án áp dụng thủ tục rút gọn, không làm bản kết
luận điều tra mà ra quyết định truy tố và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát).
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai đoạn
điều tra vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất: giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập tiếp
nối giữa giai đoạn khởi tố và giai đoạn truy tố. Được bắt đầu bằng việc cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đây cũng là mốc đánh dấu sự khởi
đầu của một quá trình tố tụng nhằm làm rõ một hay nhiều tội phạm để xử lý theo
pháp luật và kết thúc khi CQĐT hoặc một số cơ quan có nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều
tra và quyết định đình chỉ điều tra hoặc ra quyết định truy tố và gửi hồ sơ cho VKS
đối với những vụ án áp dụng thủ tục rút gọn. Trường hợp có lý do để hủy bỏ quyết
định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì CQĐT ra quyết định phục
hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.


8

Thứ hai, Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là phát hiện kịp thời
thời tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của
BLTTHS nhằm điều tra làm rõ, thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng minh tội phạm
và người phạm tội. Đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do
tội phạm gây nên.
Thứ ba,Chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn này chủ yếu là CQĐT và
Viện kiểm sát. Ngoài ra còn một số cơ quan khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan,
kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, một số cơ quan khác trong lực lượng Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân…được khởi tố bị can và điều tra những tội phạm ít
nghiêm trọng xảy ra trong lĩnh vực của mình quản lý hoặc ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự rồi chuyển đến VKS cùng cấp để quyết định việc điều tra theo quy định.
Thứ tư, các biện pháp cưỡng chế tố tụng mà các cơ quan có thẩm quyền được
sử dụng trong giai đoạn ĐTVAHS, ngoài việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn như một số giai đoạn khác còn có một số biện pháp nhằm thu thập
chứng cứ như khám xét, dẫn giải, áp giam…
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – thông tin – trung tâm ngôn ngữ
và văn hóa Việt Nam, Viện ngôn ngữ học (1999) thì nhiệm vụ là công việc phải
làm, phải gánh vác [53, Tr.1251]. Theo cách giải nghĩa này thì nhiệm vụ nói chung
là công việc mang tính bắt buộc đối với chủ thể phải thực hiện. Tuy nhiên, khi nói
đến nhiệm vụ người ta thường nói đến công việc phải thực hiện của người có thẩm
quyền của cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước khi thực hiện thẩm quyền của
cơ quan, tổ chức đó. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong
quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ
thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ
khác nhau. Cũng theo Đại từ điển tiếng việt, Viện ngôn ngữ học (1999) Quyền hạn
được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ ho phép [53, Tr. 1384]. Theo Từ điển
Luật học, Viện ngôn ngữ học (2006) giải nghĩa quyền hạn của một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức
vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của
pháp luật [54].

Trong khoa học pháp lí, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ
máy Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của


9
cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi nhiệm vụ của
cá nhân người có thẩm quyền của cơ quan tổ chức đó. Như vậy, mỗi cơ quan nhà nước
đều có thẩm quyền nhất định do Nhà nước quyết định, đó là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ pháp lý mà Nhà nước trao cho để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền
hạn của Nhà nước.
Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo cho việc truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội có căn cứ và đúng pháp luật. Xuất phát từ chức năng của Viện kiểm
sát trong giai đoạn điều tra, tác giả đưa ra khái niệm nhiệm vụ và quyền hạn của VKS
trong giai đoạn điều tra VAHS như sau:
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hệ thống
những hoạt động mà Viện kiểm sát phải tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp để đảm
bảo cho việc truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội có căn cứ và
đúng pháp luật
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hệ thống
những quyền năng pháp lý được pháp luật quy định mà Viện kiểm sát được làm để thực
hiện hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm đảm
bảo cho việc truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội có căn cứ và
đúng pháp luật
Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan VKS là những hoạt động,
những quyền năng pháp lí cụ thể của VKS trong một thời gian nhất định nhằm thực
hiện chức năng của ngành mình để cùng thực hiện chức năng chung của cả bộ máy

Nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhiệm vụ và quyền hạn tuy
là hai khái niệm độc lập nhau, song có thể thấy, giữa hai khái niệm này vẫn có mối
quan hệ biện chứng chặt chẽ không thể tách rời. Nhiệm vụ, bản thân nó cũng đã
chứa đựng quyền hạn. Khi pháp luật trao cho Viện kiểm sát một nhiệm vụ nào đó
thì cũng sẽ trao cho cơ quan này những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ
đó. Ngược lại, nếu VKS có thể sử dụng quyền hạn trong một vụ án hình sự cụ thể
thì có nghĩa là cơ quan này đã được pháp luật trao cho nhiệm vụ giải quyết vụ án đó
và phải thực hiện đầy đủ nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác.


10

Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn ĐTVAHS được xác định cụ thể thông qua các hoạt động sau: Yêu cầu CQĐT,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay
đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Hủy bỏ các quyết định khởi
tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, quyết định không
khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can trái pháp luật; Khởi tố, thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do BLTTHS
quy định; Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp,
gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con người,
quyền công dân; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người,
quyền công dân theo quy định của luật; Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các
quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều
tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung

tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trong trường hợp
phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKSND đã
yêu cầu nhưng không được khắc phục; Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi
tố VAHS khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; Quyết
định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ án, áp dụng thủ
tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự được xác
định thông qua các hoạt động sau: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi
tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra; Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người
tham gia tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; Yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ


11
chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm
pháp luật; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu
liên quan đến kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần
thiết; Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra; Xử lý nghiêm
minh Điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng; Kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ án hình
sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1.2. Cơ sở của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
Cơ sở lý luận

Hiện nay, vấn đề về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cá nhân tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng đã và đang được nhận thức và thực hiện khác nhau mà
kết quả của nó là việc tiếp cận và xử lý vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các chức năng tố tụng chưa thật hợp lý và khoa học, đòi hỏi phải “Nhận thức đúng
đắn, đầy đủ các chức năng tố tụng là cơ sở để xác định vị trí, vai trò và phạm vi của
từng chức năng trong sự vận hành của TTHS, phân định rõ ràng và hợp lý chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT,các cá nhân thực hiện chức năng TTHS,
góp phần khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng” [19]. Có thể thấy các chức
năng tố tụng là một trong những yếu tố hợp thành của tố tụng hình sự hiện chưa có sự
thống nhất và có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Nhìn chung, các nhận
thức khác nhau về chức năng của TTHS có thể chia làm 3 nhóm: (1). Coi chức năng
của TTHS chính là những hướng hoạt động chính của TTHS, gồm: chức năng buộc
tội, bào chữa, xét xử, điều tra; (2). Coi chức năng của TTHS chính là những định
hướng hoạt động của các chủ thể trong TTHS, quyết định địa vị pháp lý của chủ
thể, gồm: buộc tội, bào chữa, kiểm sát việc tuân theo PL, xét xử, điều tra…;
(3). Tuy nhiên, các ý kiến đều có điểm chung đó là “ chức năng tố tụng hình sự là
những phương hướng lớn, cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực
TTHS của các chủ thể khác nhau, trong những phạm vi nhất định, trên cơ sở phụ
hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng”[57].


12
Coi chức năng của TTHS là tổng hợp tất cả các chức năng của các chủ thể tiến hành
tố tụng, gồm: chức năng của CQĐT, chức năng của VKS, chức năng của tòa án.
Các chức năng cơ bản trong TTHS tuy độc lập nhưng giữa chúng có mối liên hệ bổ
trợ với nhau. Có ba chức năng cơ bản trong TTHS là: chức năng buộc tội, chức
năng bào chữa và chức năng xét xử.
Buộc tội là một trong những chức năng cơ bản của TTHS “chức năng buộc tội
là hoạt động của VKS nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, buộc kẻ phạm tội
phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật” [34]. Như vậy, chức năng buộc tội là

chức năng riêng của VKS, trong hoạt động TTHS chỉ có VKS mới có chức năng buộc
tội, các cơ quan THTT khác như: Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra không có chức năng này. Chức năng này đối lập và
song song tồn tại với chức năng bào chữa với nội dung phát hiện tội phạm và chứng
minh lỗi của người thực hiện tội phạm.
Trong TTHS, mục đích nào thì sẽ đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi như vậy cho
các hoạt động tố tụng hình sự, tức là các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Cùng với
mục đích, các nguyên tắc của tố tụng hình sự là điểm xuất phát để xác định chức
năng, vị trí và mối quan hệ giữa các chủ thể tố tụng hình sự, phương thức của việc
bảo đảm chứng cứ và của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự. Mục đích
chung nhất của các nền tư pháp hình sự trên thế giới bao gồm: (1) chứng minh sự
thật vụ án hình sự, (2) kiểm soát tội phạm; (3) bảo vệ công lý. Mục đích và nguyên
tắc của TTHS quyết định chức năng của TTHS, trong đó, chức năng của tố tụng
hình sự có tính quyết định đến địa vị pháp lý của các chủ thể thực hiện chức năng tố
tụng và cũng là định hướng, động lực của các chủ thể ấy khi họ thực hiện chức năng
của mình được giao. Vai trò, vị trí của các chủ thể trong TTHS cùng với các định
hướng hoạt động của họ khi thực hiện các chức năng như buộc tội, bào chữa hay xét
xử sẽ định hướng hình thức mô hình tố tụng hình sự nào.
Cơ sở pháp lý
Căn cứ Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân,
nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua cơ quan đại diện dân cử. Bộ máy
Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực Nhà nước thống nhất
nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện


13
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mỗi cơ quan Nhà nước được pháp luật quy
định chức năng nhất định để thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất. Viện kiểm sát
nhân dân là cơ quan được Hiến pháp quy định hai chức năng: Thực hành quyền

công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm
do luật định.[12]
Tại kỳ họp thứ 13. Quốc hội đã thông qua luật tổ chức VKSND mới, cụ thể
hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013:Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.[9].
Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật:
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc
truy tố người phạm tội ra trước Toà án.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách
nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này
quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp
thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [10].
Với bản chất, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực
hiện quyền lực Nhà nước thông qua cơ quan đại diện dân cử. Mỗi cơ quan Nhà nước
được pháp luật quy định chức năng nhất định để thực hiện quyền lực nhà nước thống
nhất. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được Hiến pháp quy định hai chức năng:
Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong tố tụng hình sự,
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.



14
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử [38, Tr.57].
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là:
“Hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật TTHS phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá
trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật” [40].
Như vậy, THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hai chức năng độc
lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật là cơ sở, tiền đề để THQCT có hiệu quả, THQCT là kết quả phản ánh chất
lượng của quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Xuất phát từ chức năng của
Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, trong giai đoạn điều tra, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn để
thực hiện chức năng của mình. Cụ thể:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra:Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can; Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi
tố bị can trái pháp luật; Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can
trong những trường hợp do Bộ luật này quy định; Phê chuẩn, không phê chuẩn việc
bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, áp dụng biện
pháp điều tra đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng
khác của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong
quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp cưỡng chế tố tụng, khám xét theo quy định của Bộ luật này; Đề ra yêu

cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu
Cơ quan điều tra truy nã bị can; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong


15
trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc khi xét phê chuẩn các lệnh,
quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm,
vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục; Khởi
tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố vụ án
hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc khởi tố, điều tra có
dấu hiệu tội phạm; Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam;
quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh; Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố
theo quy định của Bộ luật này.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng
vi phạm pháp luật; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp
tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi
cần thiết; Khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm
sát yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra thực hiện các hoạt động sau đây:Tiến hành hoạt động điều tra đúng
pháp luật- Kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát - Cung cấp
tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc điều tra; Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi

phạm trong việc khởi tố, điều tra;Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, xử
lý nghiêm minh Điều tra viên và những người khác thuộc sự quản lý vi phạm pháp
luật trong hoạt động tố tụng; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; Thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn kiểm sát khác trong việc kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của Bộ
luật này.


16
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTHS về
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
từ năm 1945 đến trƣớc năm 2003
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988
Từ 1945 đến 1958
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu đã ban hành Sắc lệnh số 32 bãi bỏ quan chức hai ngạch hành chính và tư pháp
của chính quyền thực dân phong kiến, đồng thời ban hành một loạt các sắc lệnh để
thiết lập ngay các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan công tố nhằm đấu tranh một
cách kịp thời và có hiệu quả với các hành vi phạm tội, bảo đảm cho việc củng cố
chính quyền cách mạng và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo đó, cơ quan công tố
nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, do Bộ tư pháp quản lý.
Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950, thông tư số 21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ
tướng chính phủ và thông tư liên bộ số 18/BKT-TP ngày 8/6/1950 của Bộ kinh tế và
Bộ tư pháp đã đánh dấu sự thay đổi lớn về tổ chức các cơ quan tư pháp nói chung, các
cơ quan công tố nói riêng. Các cơ quan công tố đặt dưới sự điều khiển của Uỷ ban hành
chính kháng chiến trên cùng địa hạt cả về đường lối công tố chung, cả mệnh lệnh riêng
về từng vụ việc.
Đặc biệt, việc ban hành sắc lệnh số 85/SL năm 1950 về cải cách bộ máy tư

pháp và luật tố tụng đánh dấu sự mở rộng thẩm quyền kiểm sát của các cơ quan công tố
ở nước ta đối với hoạt động xét xử. Theo đó, Công tố viên ở giai đoạn này không chỉ
có quyền truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa mà còn “có quyền kháng cáo về việc hộ
cũng như việc hình” [56]
iai đoạn từ 1945 đến 1958, trước khi cải tổ lại hệ thống Viện công tố, mô hình
tổ chức cơ quan công tố hoàn toàn giống như mô hình cơ quan công tố của háp. Chức
năng chủ yếu là công tố, buộc tội và chức năng thứ hai là chỉ đạo hoạt động điều tra và
thực hiện điều tra đối với một số loại vụ án nhất định. Đây là Giai đoạn mô hình công
tố nằm trong Tòa án.
Từ 1958 đến 1959
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I từ ngày 16/4/1958 đến 29/4/1958, Quốc hội
đã quyết định thành lập Viện công tố và hệ thống cơ quan công tố tách khỏi Bộ tư


17
pháp, trực thuộc Hội đồng chính phủ và có trách nhiệm, quyền hạn như một bộ.Trên cơ
sở Nghị quyết của Quốc hội, thủ tướng chính phủ ký ban hành Nghị định số 256/TTg
ngày 1/7/1959 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố trug
ương. Theo đó, Viện công tố có nhiệm vụ“giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp
luật nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp”. Nhiệm vụ cụ thể và đầu
tiên của Viện công tố lúc đó là “điều tra và truy tố trước tòa án những kẻ phạm pháp
về hình sự”. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, “Viện công tố có trách nhiệm áp dụng
những biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi phạm pháp, mọi phần
tử phạm pháp”[14] , Nghị định số 321/TTg ngày 2/7/1959 về việc thành lập các Viện
công tố phúc thẩm. Theo quy định của các văn bản pháp luật này hệ thống các cơ quan
công tố được thành lập từ trung ương đến cấp huyện, trở thành hệ thống các cơ quan
độc lập, không còn trực thuộc Bộ tư pháp , không còn chịu sự chỉ đạo cụ thể và trực
tiếp của Uỷ ban hành chính cùng cấp ở địa phương.
Những quy định này đã xác định tương đối cụ thể và rõ ràng vị trí, vai trò và chức
năng, thẩm quyền của Viện công tố trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, mô hình tổ chức

này của Viện Công tố ở nước ta tồn tại rất ngắn (1958 - 1959) và có thể nói chỉ tồn tại
trên pháp lý như một bước quá độ về tổ chức theo hướng tạo thành một hệ thống riêng,
độc lập trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Đây là bước cải cách quan trọng có tính chất
quá độ, chuẩn bị cho việc chuyển Viện công tố thành Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Như vậy, từ năm 1945 đến năm 1959, cơ quan Công tố đã từng bước được
hoàn thiện về cả tổ chức và thẩm quyền, lúc đầu là một bộ phận nằm trong hệ thống tòa
án (1946-1948) nhưng chánh án không có quyền điều khiển và kiểm soát các công tố
viên, viện công tố chịu sự quản lý của Bộ tư pháp nhưng Bộ trưởng không có quyền
trực tiếp làm nhiệm vụ công tố, và cuối cùng thành lập hệ thống các cơ quan công tố
tách ra khỏi cả tòa án, Bộ tư pháp để trở thành một hệ thống độc lập (1958 -1959).
Chức năng, thẩm quyền của cơ quan công tố từ chỗ chỉ đóng vai trò là người buộc tội
trong phiên tòa hình sự mà còn trực tiếp tiến hành điều tra và thực hiện cả sự giám sát
đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, có quyền kháng
cáo cả bản án hình sự và dân sự. Đây là giai đoạn công tố trực thuộc Chính phủ.
Giai đoạn: Từ 1959 đến 1988
Hiến pháp năm 1959 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành trên
cơ sở hiến pháp này, trong đó có luật tổ chức VKSND năm 1960, bộ máy nhà nước nói


18
chung, đặc biệt là các cơ quan công tố đã có sự thay đổi một cách cơ bản [30, Tr. 31].
Viện công tố với hai chức năng: công tố và giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật
trong hoạt động tư pháp nhưng trực thuộc chính phủ không còn phù hợp. Từ đó, nhà nước
quyết định thành lập hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở hệ thống cơ quan
viện công tố, tách ra khỏi hành pháp và trực thuộc Quốc hội. Mặc dù được kế thừa chức
năng của Viện công tố, nhưng khi quy định về chức năng của VKSND, Hiến pháp năm
1959 chỉ ghi nhận: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước VNDCCH kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương,
các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các VKSND địa phương và VKS quân sự
có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định” [11]. Quy định này sau đó đã được cụ thể

hóa tại điều 1 Luật tổ chức VKSND được Quốc hội nước VNDCCH thông qua vào ngày
15/7/1960, nhiệm vụ của VKSND là “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật làm cho pháp luật
được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được
giữ vững” [7]. Do đó, trong nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong xây dựng pháp
luật, có quan niệm cho rằng chức năng chính, chủ yếu của VKS là chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật.
Đến hiến pháp năm 1980 và luật tổ chức VKSND năm 1981 quy định về vị trí,
chức năng thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND các cấp về cơ bản
kế thừa các quy định của hiến pháp năm 1959 và luật tổ chức VKSND năm 1960. Điểm
khác biệt cơ bản nhất là Hiến pháp 1980 và luật tổ chức VKSND năm 1981 là không
những ghi rõ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp
Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và
công dân, mà còn nhấn mạnh chức năng thực hành quyền công tố của VKSND tại điều
138 Hiến pháp 1980 và điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Điểm khác biệt nổi bật
của giai đoạn này chính là đã hình thành mô hình Viện kiểm sát nhân dân.
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003
Điển hình của giai đoạn này là việc BLTTHS đầu tiên của nước ta vào năm
1988. Tuy nhiên, khi xây dựng bộ luật này, các nhà làm luật vẫn mang nặng tư duy cho
rằng thực hành quyền công tố là một quyền năng của VKS khi kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc điều tra vụ án hình sự. Những quy định ban đầu của Bộ luật này
cũng chủ yếu đề cập đến chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.


19
Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992 có một số đề án đề nghị chuyển
VKSND thành Viện công tố trực thuộc Chính phủ, VKSND chỉ nên tập trung vào chức
năng công tố, bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành
chính, kinh tế, xã hội. Vì nó trùng lắp với chức năng kiểm tra, thanh tra của các cơ
quan hành chính nhà nước và chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu nhận thấy trong lĩnh vực TTHS, VKSND đồng

thời thực hiện hai chức năng: thực hành quyền công tố độc lập với chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Đến khi được sửa đổi, bổ sung vào những năm 1990, 1992 và
2000 thì trong Bộ luật này mới có những quy định cụ thể thể hiện chức năng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII
ngày 04/12/1991 về chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm 1992 đã kết luận VKSND vẫn
giữ hai chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng công tố. Kết luận này
được thể hiện tại điều 137 Hiến pháp năm 1992 và điều 1 luật tổ chức VKSND năm
1992. Quan niệm về hai chức năng của VKSND đã trở nên rõ ràng hơn tuy nhiên,
chức năng thực hành quyền công tố vẫn bị xem nhẹ hơn.
Nghị quyết số 51/2001/NQ sửa đổi bổ sung 23 điều của hiến pháp năm 1992,
trong đó có điều 137 Hiến pháp năm 1992 là giao cho VKSND thực hiện chức năng,
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Ngày
02/04/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật tổ chức VKSND
mới, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001, bỏ chức
năng kiểm sát tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) của Viện kiểm sát nhân dân. Điều 1
quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” [8]. Theo quy định của hiến pháp,
thực hành quyền công tố được xác định là một chức năng của VKSND và có mối liên
hệ chặt chẽ với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Đồng thời, VKSND không còn có vai trò bảo đảm mà chỉ là góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Song song với đó, BLTTHS năm 1988 , nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
giai đoạn điều tra đã được quy định tại các điều 87, 90, 91 và tập trung nhất là điều
141. Qua các lần sửa đổi vào những năm 1990, 1992 và 2000 đã có những quy định thể
hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của


20
VKS như: quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, điều tra những vụ án xâm phạm

hoạt động tư pháp… Tuy nhiên, các quy định này chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ, chưa
phân định rõ thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn điều tra.
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhất là nghị quyết số 08-NQ-TW của Bộ
Chính trị là phải có sự sửa đổi một cách cơ bản và toàn diện, những tư tưởng, đường lối
cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng đã được pháp luật hóa thành các quy
định của Hiến pháp năm 1992(sửa đổi năm 2002), luật tổ chức VKSND năm 2002 phải
trở thành những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Theo đó, cần phân định rõ thực
hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn
điều tra, tăng cướng trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, BLTTHS năm 2003 được Quốc hội khóa XI
thông qua tại kỳ họp thứ 4 ngày 26/11/2003 đã đánh dấu bước quan trọng. Từ đây, nội
dung thực hành quyền công tố trong TTHS nói chung và thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng đã được quy định cụ thể, rõ ràng hơn
tạo điều kiện cho VKS các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. VKSND được luật
quy định cụ thể những nhiệm vụ và quyền hạn khi thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.


×