Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại từ các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.18 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC – THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Phạm
Thị Giang Thu, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em thực hiện và
hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Luật
nói chung và các thầy giáo, cô giáo Khoa Sau đại học – Trường Đại học Luật nói
riêng đã dạy bảo trong suốt hai năm vừa qua để em có được những kiến thức tốt


để thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, em cũng xin gửi lời cảm ơn trước sự động viên to lớn cả về
mặt vật chất và tinh thần của gia đình, bạn bè đã giúp em hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn

Vũ Thị Huyền Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo độ chính xác, trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố
trước đây.

Tác giả luận văn

Vũ Thị Huyền Trang


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ..................................... 7
1.1 Một số vấn đề lý luận về vốn và huy động vốn của ngân hàng thương mại.....7
1.1.1. Vốn của ngân hàng thương mại ......................................................... 7
1.1.2. Huy động vốn của ngân hàng thương mại........................................ 12
1.2 Một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại từ các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước .............20

1.2.1 Khái niệm pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại........................................................................................ 20
1.2.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy
động vốn của NHTM từ các TCTD và NHNN ............................................ 20
1.2.3 Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại từ các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước .................... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................... 38
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ................................... 39
2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại từ các tổ chức tín dụng khác ..............................................................39
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại từ các tổ chức tín dụng khác ................................. 39
2.1.2. Những hạn chế tồn tại của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động
vốn của Ngân hàng thương mại từ các tổ chức tín dụng ............................ 44
2.1.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về huy động vốn của NHTM từ các
TCTD...........................................................................................................53
2.2.

Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của Ngân hàng

thương mại từ Ngân hàng Nhà nước.....................................................................59
2.2.1. Những ưu điểm của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn
của NHTM bằng hình thức vay vốn NHNN................................................ 59


2.2.2. Những hạn chế, tồn tại của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động
vốn của NHTM bằng hình thức vay vốn NHNN ......................................... 60
2.2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về huy động vốn của NHTM bằng hình

thức vay vốn của NHNN ............................................................................ 62
2.3. Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của NHTM từ TCTD và NHNN......64
2.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của NHTM từ
các TCTD và NHNN.................................................................................. 64
2.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của NHTM từ các
TCTD và NHNN ........................................................................................ 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................... 68
KẾT LUẬN..................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 70


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHNN

: Ngân hàng nhà nước

TCTD

: Tổ chức tín dụng

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
GTCG

: Giấy tờ có giá



1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Các TCTD nói chung, NHTM Việt Nam nói riêng có vai trò quan trọng
đối với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế
với những điều kiện nhất định. Hoạt động huy động vốn có tác động lớn đến hệ
thống các TCTD nói chung, NHTM nói riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Bên
cạnh đó, hoạt động huy động vốn cũng góp phần ảnh hưởng tới chất lượng, tiềm
lực và khả năng đảm bảo an toàn của các ngân hàng. Chính bởi lẽ đó, hoạt động
huy động vốn của các TCTD nói chung, NHTM nói riêng cần hành lang pháp lý
an toàn và thông thoáng, tạo điều kiện cho NHTM thực hiện hoạt động huy động
vốn dễ dàng và hiệu quả.
NHTM kinh doanh tiền tệ dưới hình thức sử dụng vốn tự có và vốn huy
động để cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ tiền tệ khác. Hoạt động huy động
vốn của các NHTM theo đó đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và
hoạt động của các ngân hàng, đồng thời đây sẽ là cầu nối đưa các nguồn vốn
đang nhàn rỗi trong dân chúng đến với các dự án đầu tư trong nền kinh tế. Trong
quá trình hoạt động thì các NHTM có thể lâm vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm
thời trong khi đó một số TCTD khác lại ở trong tình trạng dư thừa vốn. Luật các
tổ chức tín dụng năm 2010 cho phép NHTM được vay vốn của TCTD, tổ chức
tài chính trong nước và nước ngoài và được vay vốn của NHNN. Quy định này
nhằm bù đắp nhu cầu vốn thiếu hụt tạm thời khi nguồn vốn huy động từ các hoạt
động khác chưa đáp ứng kịp. Quy định của pháp luật về vấn đề này đã có những
bước tiến quan trọng, tuy nhiên vẫn còn những điểm chưa hợp lý và còn nhiều
vướng mắc cần khắc phục.
Thị trường tiền tệ Việt Nam nói chung, hoạt động của hệ thống các ngân
hàng nói riêng hiện nay còn nhiều bất ổn và thiếu minh bạch. Những quy định
pháp luật chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ hay hiện tượng lách các quy định của pháp



2

luật cùng với những bất ổn của thị trường đã tạo ra nhiều hiện tượng xấu như sở
hữu chéo ở mức nghiêm trọng, phức tạp làm gia tăng rủi ro hệ thống. Vì vậy để
xây dựng hệ thống ngân hàng phát triển ổn định và lành mạnh việc nghiên cứu,
tìm hiểu pháp luật ngân hàng nói chung, hệ thống các quy định về huy động vốn
của NHTM với các TCTD và NHNN nói riêng là điều cần thiết. Trên cơ sở đó
phát hiện những quy định pháp luật còn thiếu, chưa đầy đủ và chưa phù hợp để
tìm ra những giải pháp hợp lý nhất giúp cho hoạt động huy động vốn của NHTM
với các TCTD và NHNN được thực hiện trong khuôn khổ, góp phần vào hiệu
quả hoạt động của chính các NHTM và ổn định, lành mạnh của hệ thống các
ngân hàng.
Từ những lí do trên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về
hoạt động huy động vốn của NHTM với các TCTD và NHNN là yêu cầu khách
quan, mang tính thời sự, có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn. Bởi vậy em đã
chọn đề tài: Pháp luật về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại từ các
tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện làm
Luận văn tốt nghiệp cao học tại trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ nghiên cứu luật pháp, một số khóa luận tốt nghiệp ở bậc đại
học đã đề cập đến vấn đề huy động vốn của TCTD nói chung, NHTM nói riêng,
tiêu biểu: “Pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các tổ chức tín
dụng. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” năm 2004 của tác giả Phan Thị
Huyền Trang, Đại học Luật Hà Nội; “Pháp luật về huy động vốn của các tổ chức
tín dụng ở Việt Nam” năm 2005 của tác giả Phạm Thị Trang, Đại học Luật Hà
Nội; “Pháp luật điều chính hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Vân, năm 2006, Đại học Luật Hà Nội;
“Pháp luật về huy động vốn của ngân hàng thương mại” của Phạm Thị Ban năm

2008, Đại học Luật Hà Nội, “Pháp luật về huy động vốn của ngân hàng thương
mại. Thực trạng và giải pháp” năm 2011 của tác giả Ma Thị Thắm, Đại học Luật


3

Hà Nội. Bên cạnh đó, vấn đề này được đề cập đến trong luận văn thạc sỹ: “Hoàn
thiện pháp luật về huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần” của tác giả
Hoàng Tuyết Mai năm 2010. Luận văn của tác giả Hoàng Tuyết Mai nghiên cứu
cụ thể về hoạt động huy động vốn của NHTMCP theo Luật các TCTD năm 1997
trong đó nội dung về hoạt động huy động vốn của NHTMCP từ các TCTD,
NHNN cũng được tác giả đề cập là một nội dung trong công trình nghiên cứu.
Tuy nhiên nội dung này được nghiên cứu dưới hệ thống các văn bản đã hết hiệu
lực thi hành. “Pháp luật về huy động vốn của tổ chức tín dụng ở Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp” của tác giả Đào Ánh Tuyết năm 2013, Đại học Luật Hà
Nội. Tác giả Đào Ánh Tuyết nghiên cứu một cách toàn diện về hoạt động huy
động vốn của các TCTD trên cơ sở Luật các TCTD năm 2010. Vấn đề huy động
vốn của các TCTD từ TCTD khác và NHNN được tác giả đề cập trong nghiên
cứu của mình, tuy nhiên đây chỉ là một phần không lớn trong nghiên cứu và tác
giả cũng chưa đưa ra được nhiều hạn chế của pháp luật cũng như giải pháp kiến
nghị về vấn đề này.
Pháp luật về huy động vốn cũng được đề cập đến trong một số Luận án
Tiến sĩ Luật học với vai trò là một bộ phận có liên quan như “Hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Ngô Quốc Kỳ,
người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, TS Dương Đăng Huệ
của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003. “Các giao dịch thương mại chủ yếu
của Ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Văn Tuyến, người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Trần Đình
Hảo, TS. Võ Đình Toàn của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004. Tác giả

Nguyễn Văn Tuyến nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về các giao dịch
của NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả Nguyễn Văn Tuyến đã nghiên cứu về hai nội dung giao dịch vay
vốn của NHTM từ TCTD khác và giao dịch vay vốn của NHM từ NHNN trên cơ


4

sở những quy định của Luật các TCTD năm 1997 và các văn bản liên quan. Hai
nội dung đã được tác giả đưa ra những đánh giá và những giải pháp khá cụ thể.
Có thể nói, hầu hết các nghiên cứu của các tác giả đều tiếp cận vấn đề về
huy động vốn của NHTM và các TCTD nói chung. Trong các nghiên cứu đã
công bố, chưa có nghiên cứu nào đầy đủ và chi tiết về vấn đề huy động vốn của
NHTM từ các TCTD và NHNN. Bên cạnh đó, trong các nghiên cứu đã được
thực hiện vấn đề huy động vốn của NHTM từ các TCTD và NHNN được đề cập
tuy nhiên chủ yếu được thực hiện đối với những văn bản pháp lý cũ và mới chỉ
đưa ra được một vài vấn đề cơ bản, do đó chưa đưa ra được những kiến nghị,
phương hướng hoàn thiện phù hợp nhất. Chính vì vậy mà luận văn này sẽ tập
trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM từ các TCTD
và NHNN. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và phương hướng hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận về huy động vốn và pháp luật về huy động vốn
của ngân hàng thương mại với các TCTD và NHNN.
- Thực trạng pháp luật về huy động vốn của NHTM với các TCTD và NHNN.

- Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các NHTM với
các TCTD và NHNN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này tập trung vào việc tìm hiểu các quy định pháp luật điều
chỉnh hoạt động huy động vốn của NHTM với các TCTD và NHNN, từ đó thấy
được những vướng mắc cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Trên cơ sở đó đưa ra
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mảng pháp luật này.


5

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn, tác giả đã sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp phân tích, tổng
hợp, khảo sát và khái quát hóa, so sánh…
Phương pháp phân tích được sử dụng khi đánh giá thực trạng phá luật về
huy động vốn của NHTM từ các TCTD và NHNN.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc đánh giá khái quát, rút ra
kết luận về từng vấn đề trong phạm vi nghiên cứu, cũng như đưa ra các kiến nghị
để hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của NHTM từ các TCTD và NHNN.
Phương pháp khảo sát và khái quát hóa được sử dụng trong việc tìm hiểu các
thông tin, số liệu liên quan đến thực tiễn thi hành một số quy định pháp luật cụ thể.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong việc nghiên cứu các quy định đã
hết hiệu lực và những quy định pháp luật hiện hành.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích
Bằng việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về huy động vốn của
NHTM với các TCTD và NHNN về phương diện lý luận cũng như trong thực
tiễn thi hành, Luận văn sẽ tập trung vào những bất cập, chồng chéo, chưa phù
hợp của pháp luật hiện hành và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

5.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đặt ra một số nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động huy động

vốn và pháp luật về huy động vốn của các NHTM;
-

Đánh giá thực trạng pháp luật về huy động vốn và thực tiễn áp

dụng pháp luật về huy động vốn của NHTM từ các TCTD và NHNN;
-

Chỉ ra sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về huy động vốn

của NHTM từ các TCTD và NHNN và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này.


6

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
So với các công trình nghiên cứu trước đây, Luận văn đã đóng góp một số
kết quả nghiên cứu mới sau đây:
- Nghiên cứu chi tiết các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề huy
động vốn của NHTM từ các TCTD gồm: hình thức huy động vốn vay và huy
động vốn tạo lập và tăng vốn chủ sở hữu và huy động vốn bằng hình thức vay
vốn của NHNN.
- Trên cơ sở những nghiên cứu về các quy định pháp luật từ đó tìm ra

những điểm bất cập, hạn chế.
- Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật huy động vốn trên cơ sở đánh
giá thực trạng pháp luật nói trên.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, danh mục các chữ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về huy động vốn và pháp luật về huy động vốn
của NHTM từ các TCTD và NHNN
Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn
của NHTM từ các TCTD và NHNN


7

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC

1.1

Một số vấn đề lý luận về vốn và huy động vốn của ngân hàng

thương mại
1.1.1. Vốn của ngân hàng thương mại
a.

Khái niệm về vốn và cơ cấu vốn của NHTM

Vốn là yếu tố quan trọng nhất của quá trình kinh doanh, là yếu tố không

thể thiếu để thực hiện bất kì một hoạt động kinh doanh nào. Đặc biệt với các
ngân hàng nói chung, NHTM nói riêng, vốn có vai trò quyết định đến sự hình
thành, tồn tại và phát triển. Vốn là đối tượng trực tiếp của hoạt động ngân hàng,
là hàng hóa, là phương tiện hoạt động của các ngân hàng. NHTM thực hiện vai
trò tập trung vốn và phân phối lại vốn, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển
vốn, kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, những hoạt động
này cũng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Như vậy có thể
hiểu “Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được dùng để đầu tư, cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác”.
Cơ cấu vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập
và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Hiện nay vốn hoạt động của TCTD nói chung, NHTM nói riêng gồm vốn
chủ sở hữu và vốn vay. Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng
nguồn vốn hoạt động của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến
hoạt động kinh doanh của NHTM.
b.

Cơ cấu vốn của NHTM



Vốn chủ sở hữu


8

Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn do NHTM tạo lập được. Nguồn vốn này
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng nhưng lại
có tính chất quyết định đến sự hình thành và tồn tại của ngân hàng. Nguồn vốn

này mang tính ổn định cao.
Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm: vốn điều lệ; các khoản chênh
lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá theo quy định của pháp luật; thặng
dư vốn cổ phần; các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp
vụ, quỹ dự phòng tài chính; lợi nhuận chưa phân phối và vốn khác thuộc sở hữu
hợp pháp của NHTM.
Vốn điều lệ là khoản vốn được hình thành khi ngân hàng được thành lập.
Vốn điều lệ luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn
tối thiếu phải có khi thành lập một ngân hàng do pháp luật quy định.
Vốn chủ sở hữu còn được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân
hàng theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể như: các
khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá theo quy định của
pháp luật; thặng dư vốn cổ phẩn; lợi nhuận chưa phân phối.
Vốn chủ sở hữu được hình thành từ các quỹ thuộc sở hữu của ngân hàng.
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: là quỹ được dùng với mục đích tăng cường vốn tự
có ban đầu. Mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ của NHTM.
Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ dùng để đầu tư mở rộng quy mô hoạt
động kinh doanh và đổi mới công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm việc của
NHTM. Mức tối đa của quỹ không vượt quá mức vốn điều lệ của NHTM.
Quỹ dự phòng tài chính dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất,
thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp
bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo
hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí; sử dụng cho các mục đích
khác theo quy định của pháp luật. Số dư tối đa của quỹ này không được vượt quá
25% vốn điều lệ của NHTM.


9




Vai trò của vốn chủ sở hữu

Thứ nhất, vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của NHTM, nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế. Trước hết,
vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân, cung cấp nguồn lực ban đầu
cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới thành lập và cung cấp
nguồn lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Pháp luật đã quy định về vốn pháp
định là điều kiện tiên quyết để ngân hàng được thành lập và hoạt động. Mỗi ngân
hàng mới đều cần vốn ban đầu để xây dựng, mua sắm hoặc thuê mướn cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị…., phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân
hàng. Bên cạnh đó để cạnh tranh tốt thì các NHTM luôn phải không ngừng đưa
ra những dịch vụ mới, những chương trình mới, đổi mới công nghệ ngân hàng,
nâng cao năng suất lao động và khi phát triển ngân hàng cũng bổ sung vốn để
thúc đẩy tăng trưởng. Vốn chủ sở hữu được bổ sung và tăng về quy mô sẽ tài trợ
cho các hoạt động này để theo kịp sự phát triển của thị trường và tăng khả năng
phục vụ khách hàng.
Thứ hai, vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền, là cơ sở tạo niềm
tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thường
xuyên phải đối mặt với rất nhiều rủi ro khiến các ngân hàng đứng trước nguy cơ
đổ vỡ. Trên thực tế, ngân hàng có nhiều biện pháp để phòng chống rủi ro, bảo vệ
tình trạng tài chính của mình như: nâng cao chất lượng quản lý, bảo hiểm tiền
gửi… Tuy nhiên khi tất cả những phương pháp ngăn chặn này đều không hiệu quả
thì vốn chủ sở hữu sẽ là giải pháp cuối cùng. Nhờ có vốn chủ sở hữu các tổn thất
của ngân hàng sẽ được bù đắp, cho phép ngân hàng tiếp tục tồn tại.
Thứ ba, bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu còn có vai trò là phương tiện điều
chỉnh hoạt động và điều tiết sự tăng trưởng của NHTM. Để đảm bảo an toàn cho
hoạt động của NHTM, có rất nhiều các quy định về hoạt động có liên quan trực
tiếp và chặt chẽ đến vốn chủ sở hữu. Đó là những giới hạn về: quy mô tiền gửi
được phép huy động, quy mô cho vay tối đa với một hoặc một nhóm khách hàng,

nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, thành lập công ty con… Do đó nếu quy mô


10

vốn chủ sở hữu quá nhỏ thì các NHTM sẽ bị hạn chế hoạt động trong những định
mức, giới hạn ấy. Đồng thời, để sự tăng trưởng của một NHTM có thể được duy
trì ổn định và lâu dài, các cơ quan quản lý và thị trường tài chính thường yêu cầu
vốn chủ sở hữu phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng danh mục cho
vay và các tài sản rủi ro khác, sao cho tương xứng với quy mô của NHTM.


Vốn vay

Nhu cầu về vốn của các ngân hàng nói chung, NHTM nói riêng rất lớn và
có thể là không hạn chế về lượng. Do đó, hoạt động của các NHTM chủ yếu dựa
vào nguốn vốn vay mượn, chính nguồn vốn vay mượn sẽ tạo nguồn lực tài chính
chủ yếu cho các hoạt động của NHTM.
Vốn vay là vốn NHTM có được thông qua việc bán các sản phẩm dịch vụ
cho khách hàng và nguồn vốn có được dựa trên mối quan hệ vay mượn từ
NHNN và các TCTD.
Bản chất của vốn vay là tài sản không thuộc sở hữu của NHTM, NHTM
chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả
đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn. Vốn vay chiếm tỷ trọng lớn nhất (tới hơn
90%) trong tổng nguồn vốn của NHTM. Đây cũng là loại nguồn vốn đa dạng về
nguồn gốc hình thành, thời hạn các khoản vay, giá trị và loại tiền các khoản vay.
Vốn vay được huy động dưới nhiều hình thức: vốn huy động tiền gửi của các
tổ chức và cá nhân; vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá; vốn vay các
TCTD, tổ chức tài chính trong nước và ngoài nước; vốn vay NHNN Việt Nam.



Vai trò vốn vay

Nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để ngân hàng được đi vào hoạt
động và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì vốn vay là yếu tố quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của mỗi NHTM. Các TCTD nói chung, NHTM nói
riêng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn này.
Thứ nhất, vốn vay là cơ sở tài chính trong các hoạt động kinh doanh của
NHTM. Nếu như vốn điều lệ là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy
phép hoạt động, đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập thì vốn vay quyết
định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh


11

doanh và thu nhập của ngân hàng. NHTM có được lượng vốn vay lớn thì sẽ có
thế mạnh trong kinh doanh. Trong hoạt động của NHTM vốn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu, do đó để thực hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình thì
các NHTM cần phải thu hút nguồn vốn này một cách tốt nhất.
Thứ hai, nguồn vốn vay có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô hoạt động
NHTM. Nguồn vốn vay có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của NHTM.
Thông thường so với các ngân hàng nhỏ thì các ngân hàng lớn có các khoản mục
về đầu tư, cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng tín dụng cũng lớn hơn.
Trong khi các ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu trong một
khu vực nhỏ hay trong một quốc gia. Nếu khả năng vốn của ngân hàng lớn thì
ngân hàng có thể mở rộng quy mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho các dự
án lớn và sẵn sang đáp ứng nhu cầu của khách hàng về dịch vụ của mình. Cơ cấu
vốn cũng ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay của ngân hàng bởi ngân hàng cho vay
chủ yếu bằng vốn vay được.
Thứ ba, vốn vay đảm bảo uy tín và năng lực cạnh tranh của NHTM. Để

tạo lập được uy tín trên thị trường thì các NHTM phải thể hiện khả năng sẵn
sàng thanh toán chi trả cho khách hàng, sẵn sàng cung cấp các dịch vụ khách
hàng yêu cầu. Việc này cũng đòi hỏi NHTM phải có một lượng vốn lớn, linh
hoạt. Để đạt được điều đó NHTM phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung
và hoạt động huy động vốn nói riêng. Thông qua hoạt động huy động vốn
NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng với
ngân hàng từ đó ngân hàng có những biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt
động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Bên cạnh
đó, để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì yếu tố về khả năng tài chính luôn
giữ vai trò quyết định cuối cùng. Các NHTM có được nguồn vốn vay lớn thì có
thể chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về quy mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong
việc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn
có thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều hoạt động


12

khác như liên doanh liên kết đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ….
Những hoạt động này sẽ góp phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều khách
hàng, mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng, trên cơ sở
đó hiệu quả kinh doanh của ngân hàng sẽ được củng cố.
1.1.2. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
a.

Khái niệm

Theo các quy định hiện hành thì gần như không tìm được một định nghĩa
hoàn thiện về hoạt động này. Bên cạnh đó, có rất nhiều các quan điểm khác nhau
về vấn đề này và không có sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc

biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh
khác nhau.
Nhìn chung phổ biến nhất, khái niệm huy động vốn được đề cập đến một
hoạt động đặc trưng nhất của các NHTM, đó là nhận tiền gửi dưới các hình thức
cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có, không có kì
hạn khác.
Dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với khái niệm
này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được
đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận
thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu là tiếp cận khái niệm huy động
vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Theo đó, nguồn vốn được chia thành vốn
tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Theo cách tiếp cận này
thì hoạt động huy động vốn của NHTM bao gồm cả việc khởi tạo nguồn vốn ban
đầu cho sự hình thành và tăng vốn điều lệ.
Dưới khía cạnh pháp lý, trong Giáo trình Luật Ngân hàng cũng như các
văn bản luật hiện nay đều chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề này. Luật
các TCTD 1997 thì tiếp cận hoạt động huy động vốn này bằng cách liệt kê 4
hình thức: nhận tiền gửi; phát hành GTCG; vay vốn giữa các TCTD; vay vốn của
NHNN. Tuy nhiên hiện nay, theo quy định của Luật các TCTD 2010 thì không


13

có bất kỳ quy định nào về các hình thức của hoạt động huy động vốn cũng như
khái niệm hoạt động huy động vốn. Có thể tiếp cận khái niệm hoạt động huy
động vốn của NHTM dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, về chủ thể: vấn đề này đã được xác định khá cụ thể ngay trong
tên của khái niệm, ở đây hoạt động này được giới hạn ở các chủ thể là các
NHTM. Theo quy định tại Luật các TCTD thì NHTM là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung

ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các hoạt động kinh doanh khác theo quy
định nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Thứ hai, về đối tượng chịu tác động: đó là nguồn vốn – tiền tệ, bởi đó
chính là công cụ hoạt động, là “hàng hóa”, là “phương tiện” kinh doanh của
NHTM. Cũng giống như các doanh nghiệp thông thường khác, NHTM luôn có
nguồn vốn chủ sở hữu làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh
đó NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nguồn vốn của NHTM còn là
“hàng hóa” của NHTM, ngân hàng là một người cung ứng dịch vụ, NHTM lấy
nguồn tiền từ nơi này (nơi thừa tiền) để cung ứng cho nơi có nhu cầu. Thuật ngữ
nguồn vốn ở đây được sử dụng cho cả hai loại nguồn vốn: vốn chủ sở hữu và
vốn vay – như một loại hàng hóa của ngân hàng. Như vậy, hoạt động huy động
vốn của các NHTM bao gồm hoạt động huy động vốn nhằm tạo lập, tăng vốn
chủ sở hữu và tìm kiếm các nguồn hàng cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mình.
Thứ ba, về khách thể của hành vi hay nói cách khác đó là mục đích mà
chủ thể thực hiện hành vi muốn đạt được. Mục đích chính của kinh doanh là lợi
nhuận, vì vậy các NHTM cũng hoạt động vì mục tiêu chính là lợi nhuận. Hoạt
động huy động vốn cũng xuất phát vì mục tiêu lợi nhuận và còn hướng đến mục
tiêu là đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM. Hoạt động huy động vốn
của NHTM từ các TCTD và NHNN chủ yếu nhằm đảm bảo khả năng thanh toán,
đảm bảo cho sự hoạt động bình thường và thông suốt của NHTM. Nguồn tiền


14

huy động này cũng được các ngân hàng sử dụng như một công cụ, một hàng hóa
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy có thể khẳng định việc
xếp các hoạt động huy động vốn: vay vốn của NHNN, vay vốn của các TCTD
khác vào hoạt động huy động vốn của NHTM là hợp lý.
Trên cơ sở một số khía cạnh đã đề cập ở trên có thể khái quát rằng:

“Hoạt động huy động vốn của các NHTM là hoạt động mà theo đó ngân hàng
thu hút nguồn vốn từ các chủ thể để tạo lập vốn chủ sở hữu và vốn vay nhằm
mục đích đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh, đảm bảo hoạt động của các
NHTM theo đúng các quy định pháp luật”.
b.

Hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại từ NHNN và

các TCTD


Huy động vốn từ NHNN

NHNN thực hiện chức năng điều hành chính sách tín dụng quốc gia và là
ngân hàng của các ngân hàng. Khi các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn về
tài chính, NHNN trở thành cứu cánh cuối cùng. NHNN thường cho các NHTM
vay ngắn hạn. Các NHTM được hưởng quyền vay tiền tại NHNN trong tình
huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá khó khăn về vốn để tránh những khủng hoảng
tài chính có thể xảy ra cho hệ thống.
Về hình thức huy động vốn từ NHNN: cho vay có bảo đảm bằng cầm cố
GTCG; cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng; cho vay đặc
biệt trong trường hợp NHTM lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đe dọa sự
ổn định của hệ thống các NHTM, NHTM mất khả năng chi trả do sự cố đặc biệt
khác; cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu GTCG.
Về phương thức đi vay: các NHTM vay vốn của NHNN theo từng lần.
NHTM bày tỏ ý định vay vốn NHNN bằng cách gửi các tài liệu giao dịch cho
NHNN theo mẫu đã được quy định thống nhất. NHNN tiến hành thẩm định các
điều kiện để vay vốn để chấp nhận hay từ chối. Việc chấp nhận thường được
thực hiện bằng cách NHNN gửi văn bản thông báo chấp nhận cho vay vốn.



15

Về nội dung vay: NHTM vay vốn của NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn
hạn và phương tiện thanh toán, NHTM được NHNN cho vay đặc biệt khi NHTM
lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả. Thông thường, các NHTM tiến hành
vay vốn của NHNN chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu đảm bảo mức dự trữ bắt buộc
hoặc nhu cầu thanh toán bất thường trong kinh doanh.


Huy động vốn từ các TCTD khác



NHTM huy động vốn vay



NHTM vay vốn từ các TCTD khác

Sự tồn tại của các NHTM nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau,
hoạt động của mỗi ngân hàng dễ dàng chịu sự tác động của các ngân hàng khác,
nếu một ngân hàng nào trong hệ thống gặp sự cố, sẽ có khả năng tác động xấu
tới tất cả các ngân hàng còn lại. Nếu không được giải quyết cẩn trọng, nguy cơ
sụp đổ hệ thống là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Chính vì vậy các NHTM cần
giữ gìn mối tương quan tốt với các định chế tài chính khác để đảm bảo cho chính
sự tồn tại của mình. Hoạt động vay vốn của NHTM từ các TCTD xuất phát từ
mối tương quan trên.
Về phương thức đi vay vốn: do NHTM và TCTD cho vay tự xem xét, thỏa
thuận áp dụng phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức hoặc theo các

phương thức khác, đảm bảo thực hiện giao dịch an toàn và hiệu quả, tuân thủ
đúng quy định của pháp luật hiện hành có liên quan
Về hình thức đi vay: quan hệ vay vốn giữa NHTM và các TCTD với nhau
thực hiện thông qua hình thức là cho vay thông qua hợp đồng tín dụng.
Về mục đích vay vốn của NHTM từ TCTD khác là để bù đắp thiếu hụt
vốn tạm thời trong thanh toán cho khách hàng hoặc trích lập quỹ dự trữ bắt buộc
theo quy định của NHNN.
Hình thức pháp lý của quan hệ vay vốn giữa NHTM từ TCTD khác: quan
hệ vay vốn của NHTM với các TCTD được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Việc
cho vay, đi vay phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và các thông lệ


16

quốc tế tương ứng. Thông thường, trên thực tế, quan hệ vay vốn giữa NHTM và
các TCTD được thiết lập trên cơ sở sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau và mối quan
hệ hợp tác lâu dài. Điều này xuất phát từ việc các bên trong quan hệ này đều là
các TCTD được phép hoạt động ngân hàng và giữa họ thường xuyên có mối
quan hệ hợp tác với nhau với nhau và phải dựa vào nhau mà tồn tại và phát triển.
Khi thị trường tài chính phát triển hoàn thiện hơn, cạnh tranh gay gắt hơn các
NHTM đã chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn này, chủ động thiết lập
các cam kết với các đối tác, các cam kết này có thể ở dạng một hợp đồng tương
lai có điều kiện. Điều này giúp cho khả năng đảm bảo nguồn vốn của các NHTM
sẽ cao hơn.


Hoạt động huy động vốn của NHTM bằng hình thức nhận tiền gửi

từ các TCTD khác
Để có thể vay vốn được các TCTD khác thì NHTM phải đáp ứng nhiều

điều kiện cụ thể và tùy thuộc vào mối quan hệ vay vốn mà có thể phải có tài sản
bảo đảm. Chính vì vậy kênh huy động vốn bằng hình thức vay vốn của các
TCTD khác không phải dễ dàng để thực hiện đặc biệt đối với các NHTM quy
mô nhỏ và tiềm lực về vốn không lớn. Hoạt động huy động vốn từ nhận tiền gửi
của các TCTD khác là giải pháp bổ sung thanh khoản khi các NHTM không đáp
ứng các yêu cầu về vay vốn. NHTM được nhận tiền gửi của các TCTD khác
giúp hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng đặc biệt là với các ngân hàng nhỏ và
tăng lợi nhuận, khắc phục tình trạng dư thừa vốn ở các ngân hàng lớn.


Hoạt động huy động vốn bằng hình thức chào bán trái phiếu riêng

lẻ cho các TCTD khác
NHTM phát hành trái phiếu riêng lẻ cho các TCTD là kênh huy động vốn
trung và dài hạn khá hiệu quả. Với thời gian đáo hạn dài, lãi suất thường được cố
định trong suốt quá trình vay, không cần tài sản thế chấp, được chủ động sử
dụng nguồn vốn, hình thức này đang dần trở thành công cụ hiệu quả trong hoạt
động huy động vốn. Tuy nhiên, NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt


17

động của mỗi ngân hàng còn có ảnh hưởng tới hệ thống các TCTD nói riêng và
nền kinh tế nói chung nên pháp luật có những quy định khá chặt chẽ về điều kiện
của bên phát hành cũng như bên mua trái phiếu. Bên cạnh đó, hoạt động huy
động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu riêng lẻ cho các TCTD của
NHTM có thực sự hiệu quả và đạt được mục đích hay không còn dựa trên những
tiêu chuẩn đặt ra của các TCTD mua trái phiếu đối với NHTM phát hành.



Hoạt động huy động nhằm tạo lập và tăng vốn chủ sở hữu bằng

hình thức chào bán riêng lẻ cổ phiếu cho các TCTD và chào bán cổ phiếu ra
công chúng trong đó có nhà đầu tư là TCTD khác
Hình thức huy động vốn này do các chủ thể là các NHTMCP thực hiện.
Hoạt động này góp phần quan trọng trong việc tạo lập và tăng nguồn vốn chủ sở
hữu. Các TCTD có quyền sở hữu cổ phần NHTM theo tỷ lệ góp vốn, mua cổ
phần khi mua cổ phần từ NHTM. Hoạt động của các NHTM khá nhạy cảm đối
với nền kinh tế nên thủ tục và tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của các TCTD tại
NHTM phải tuân thủ nhiều quy định có liên quan và chịu sự quản lý chặt chẽ
của NHNN.
Chào bán cổ phiếu ra công chúng là công cụ huy động vốn hiệu quả và
linh hoạt. Hình thức huy động vốn bằng chào bán cổ phiếu ra công chúng trong
đó có nhà đầu tư là TCTD giúp các NHTMCP bán được với giá hợp lý. Do đó,
giá của những cổ phiếu chào bán ra công chúng thường cao hơn giá của cổ phiếu
phát hành riêng lẻ. Bên cạnh đó, khoản thu được từ chào bán cổ phiếu không cấu
thành một khoản nợ mà ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả, làm giảm áp lực về
khả năng cân đối thanh khoản của ngân hàng.
Để được chào bán cổ phiếu ra công chúng các NHTMCP phải thỏa mãn
một số điều kiện nhất định về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh trong một thời
gian cụ thể, cùng các quy định khắt khe về kế toán và kiểm toán. Sau khi phát
hành cổ phiếu ra công chúng các ngân hàng này phải tiếp tục duy trì chế độ báo
cáo thông tin đầy đủ và minh bạch về những hoạt động của ngân hàng cũng như


18

về tình hình tài chính dưới sự kiểm tra và giám sát của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Vì vậy, hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng sẽ tăng chất
lượng và độ chính xác của các bản báo cáo tài chính, làm trong sạch môi trường

đầu tư kinh doanh. Điều kiện, thủ tục chào bán cổ phiếu được lập theo chuẩn
chung do nhà nước quy định nên vừa đảm bảo tính chính xác cao vừa thuận tiện
cho việc so sánh đánh giá kết quả hoạt động của các NHTMCP.
c.

Vai trò của hình thức huy động vốn của NHTM với các TCTD khác

và NHNN
Nguồn vốn đóng vai trò sống còn đối với sự tồn tại của các TCTD nói
chung, NHTM nói riêng bởi nó chính là một trong các kênh lưu chuyển vốn của
toàn nền kinh tế và cũng là vì tính nhạy cảm của thị trường loại hàng hóa này. Mỗi
ngân hàng là kênh lưu chuyển vốn, các dòng vốn này thông nhau qua sự tương
quan của nó với NHNN và thị trường tài chính. Khác với tính độc lập mang tính
cá thể của các loại hình doanh nghiệp khác, sự tồn tại của các ngân hàng nằm
trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, hoạt động của mỗi ngân hàng sẽ dễ dàng
chịu sự tác động của các ngân hàng khác. Một ngân hàng nào trong hệ thống gặp
sự cố, sẽ có khả năng tác động xấu tới tất cả các ngân hàng còn lại, nếu không
được giải quyết một cách cẩn trọng, nguy cơ sụp đổ hệ thống là hoàn toàn có khả
năng xảy ra. Chính vì mối tương quan trên, các ngân hàng cần tồn tại trong môi
trường lành mạnh và giữ gìn mối tương quan tốt với các định chế tài chính khác để
đảm bảo cho chính sự tồn tại của mình. Các NHTM tiến hành các nghiệp vụ kinh
doanh được NHNN cho phép để tối đa hóa lợi nhuận nhưng không phải lúc nào
hoạt động của các ngân hàng đều thuận lợi. NHTM không thể tránh khỏi có lúc
thiếu khả năng chi trả hoặc quá khó khăn về tiền mặt. Lúc đó, các NHTM cần có
một nguồn vốn khác lớn và tức thời. Với tính chất của mối quan hệ dựa trên sự tin
tưởng, mối quan hệ lâu dài, các NHTM có thể dễ dàng vay vốn từ các TCTD khác
với thủ tục thực hiện nhanh chóng và thuận lợi.


19


Bên cạnh đó nguồn vốn huy động nhằm tạo lập và tăng vốn chủ sở hữu bằng
hình thức chào bán riêng lẻ cổ phiếu cho các TCTD và chào bán cổ phiếu ra công
chúng trong đó có nhà đầu tư là các TCTD góp phần quan trọng đối với sự tồn tại
và duy trì hoạt động cũng như cung cấp nguồn lực để NHTM tăng trưởng và phát
triển. NHTM thực hiện tốt hình thức huy động vốn này sẽ tạo tiềm lực lớn, là cơ sở
để phát triển và bắt kịp với những biến động, thay đổi của thị trường tiền tệ.
NHNN là nơi thực thi và điều hành chính sách tín dụng quốc gia và là ngân
hàng của các ngân hàng. Chính vì vậy, khi các NHTM lâm vào tình trạng khó
khăn về tài chính, NHNN trở thành cứu cánh cuối cùng. Hoạt động vay vốn
NHNN của NHTM trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc trong những
trường hợp thiếu vốn để giải quyết những nhu cầu hoạt động để tránh những
khủng hoảng tài chính có thể xảy ra cho hệ thống. Nguồn vốn huy động từ NHNN
có số lượng lớn, có thể đáp ứng nhu cầu tức thời của hoạt động các NHTM, mang
tính cứu cánh, thường chỉ được sử dụng trong những hoàn cảnh thật sự khó khăn.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay của NHNN đối với các NHTM mất khả năng chi
trả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong trường hợp các NHTM mất khả năng
thanh toán và xét thấy có thể khôi phục được khả năng thanh toán của NHTM thì
NHNN có thể cho NHTM vay vốn. Hình thức cho vay vốn đặc biệt này không chỉ
có ý nghĩa đối với hoạt động của chính NHTM được cho vay mà còn đảm bảo sự
an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng.
Tuy nguồn vốn huy động của NHTM từ vay vốn các TCTD và NHNN
chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn nhưng nó đóng vai trò quan
trọng đối với sự an toàn và hoạt động của các NHTM. Nguồn vốn huy động từ
các TCTD và NHNN đáp ứng những mục tiêu thanh toán mang tính tức thời mà
ngân hàng không có khả năng dự tính được khả năng phát sinh của nó. Bên cạnh
đó, hình thức huy động vốn từ các TCTD và NHNN đem lại nguồn vốn có tính
ổn định cao hơn so với nguồn vốn huy động khác, có khả năng đáp ứng tức thời,
với số lượng lớn và thời hạn rất ngắn.



×