Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Pháp luật ủy thác tư pháp quốc tế về dân sự của Việt Nam và một số nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.94 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ TUYẾT MAI
PHÁP LUẬT ỦY THÁC TƯ PHÁP QUỐC TẾ VỀ DÂN SỰ
CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : LUẬT QUỐC TẾ
Mã số

: 60380108

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỒNG BẮC

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giảng dạy và công tác tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, đã hướng dẫn, giảng dạy tôi trong quá trình học
tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Hồng
Bắc, người đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong quá trình học tập và
thực hiện luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


NGÔ TUYẾT MAI


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGÔ TUYẾT MAI


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ UỶ THÁC TƯ PHÁP
QUỐC TẾ VỀ DÂN SỰ...................................................................................7
1.1. Khái niệm ủy thác tư pháp quốc tế về dân sự.....................................7
1.2. Đặc điểm của uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự .............................10
1.3. Ý nghĩa của ủy thác tư pháp quốc tế .................................................11
1.4. Các nguồn luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác tư pháp quốc tế ở
Việt Nam .............................................................................................13
1.4.1. Các Điều ước quốc tế về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ..........13
1.4.2. Pháp luật trong nước về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự............16
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG UỶ THÁC TƯ PHÁP QUỐC TẾ VỀ DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ............................19
2.1. Uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự theo quy định của pháp luật Việt
Nam trong mối tương quan so sánh với pháp luật một số nước ............19
2.1.1. Nguyên tắc uỷ thác..........................................................................19

2.1.2. Hồ sơ ủy thác ..................................................................................21
2.1.3. Phạm vi uỷ thác...............................................................................22
2.1.4. Nội dung uỷ thác .............................................................................24
2.1.5. Cách thức uỷ thác............................................................................28
2.1.6. Quy trình ủy thác.............................................................................32
2.2. Uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự theo điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.......................................................................................35
2.2.1. Cơ quan đầu mối thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế.......................37
2.2.2. Phạm vi uỷ thác...............................................................................37
2.2.3. Hồ sơ uỷ thác ..................................................................................39
2.2.4. Cách thức uỷ thác............................................................................40
2.2.5. Quy trình uỷ thác.............................................................................42


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ UỶ THÁC TƯ PHÁP QUỐC TẾ VỀ
DÂN SỰ Ở VIỆT NAM .................................................................................45
3.1. Thực trạng uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ở Việt Nam.............45
3.1.1. Thực trạng pháp luật uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ở Việt Nam....45
3.1.2. Thực tiễn thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ở Việt Nam52
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả uỷ thác tư
pháp về dân sự ở Việt Nam........................................................................61
3.2.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về ủy thác tư pháp
quốc tế dân sự ...........................................................................................61
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về ủy thác tư pháp quốc tế dân sự tại
Việt Nam ...................................................................................................62
3.2.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý............................................................62
3.2.2.2. Đối với các thiết chế liên quan đến hoạt động ủy thác tư pháp
quốc tế dân sự ...........................................................................................65
3.2.3. Các giải pháp khác ..........................................................................67

KẾT LUẬN.....................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................71
PHỤ LỤC........................................................................................................74


1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển một cách
biệt lập mà không có quan hệ hợp tác, tương trợ lẫn nhau với các nước, các nền
kinh tế khác trên thế giới. Nói cách khác quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ là nhu
cầu nội tại thiết thực của bản thân mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước, mà còn là trách nhiệm - nghĩa vụ của các quốc
gia xét dưới góc độ pháp luật quốc tế. Sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc
gia trong các lĩnh vực và ở các cấp độ khác nhau làm phát sinh hàng loạt các vấn
đề về dân sự, hình sự, hành chính, thương mại, kinh tế và hôn nhân gia đình có
yếu tố nước ngoài. Để đảm bảo sự công bằng nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ
lợi ích của cá nhân, tổ chức cũng như lợi ích quốc gia, thúc đẩy các quan hệ kinh
tế, dân sự, thương mại… phát triển theo chiều hướng tốt đẹp, mỗi quốc gia trong
việc hoàn thiện pháp luật nước nhằm điều chỉnh quan hệ trên, đều phải thực hiện
sự hợp tác ở mức độ nhất định với các quốc gia khác. Tương trợ tư pháp (TTTP)
quốc tế là một biểu hiện của nguyên tắc về nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia một trong các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại. Dựa trên nguyên lý
đó, uỷ thác tư pháp quốc tế là một hình thức thực hiện TTTP được thực hiện trên
cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài.
Uỷ thác tư pháp quốc tế mà cụ thể là uỷ thác tư pháp quốc tế trong lĩnh
vực dân sự được điều chỉnh trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên và được quy định trong văn bản pháp luật do Việt Nam ban hành.
Từ đầu những năm 80 cho đến nay, Nhà nước ta đã đàm phán, ký kết các Hiệp

định TTTP (HĐTTTP) trong lĩnh vực dân sự; ngoài ra TTTP quốc tế còn được
điều chỉnh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011;
Luật TTTP năm 2007 và Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm


2

2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật TTTP. Những văn bản pháp luật trên đã tạo ra hành lang pháp lý quan
trọng, giúp các Toà án có cơ sở để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các
quan hệ dân sự quốc tế, qua đó đẩy mạnh hiệu quả của các hoạt động TTTP
nói chung và uỷ thác tư pháp quốc tế dân sự nói riêng ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm gần đây, hoạt động uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự
đã thể hiện vai trò tích cực, góp phần bảo vệ ngày càng tốt hơn lợi ích của cơ
quan, tổ chức và cá nhân, củng cố uy tín của nhà nước Việt Nam trên trường
quốc tế. Tuy nhiên, trước thực tế tranh chấp về dân sự có yếu tố nước ngoài
phát sinh ngày càng nhiều, pháp luật về uỷ thác tư pháp quốc tế đã có một số
điểm hạn chế, bất cập cần giải quyết.
Xuất phát từ lý do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Pháp luật uỷ thác tư
pháp quốc tế về dân sự của Việt Nam và một số nước - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, ủy thác tư pháp quốc tế về dân sự là một đề tài thu hút được
sự quan tâm của nhiều học giả, luật gia và các nhà nghiên cứu luật học. Đề tài
này đã được các học giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, từ đó có những
quan điểm, kết quả nghiên cứu khác nhau. Đến thời điểm hiện tại đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu dưới các hình thức như giáo trình, sách chuyên
khảo, bài viết đăng trên các tạp chí, luận văn thạc sỹ luật học, các bài tham
luận trong các hội thảo khoa học...
Giáo trình, sách:

- Giáo trình Tư pháp quốc tế của Khoa Luật – Trường Đại học quốc gia
Hà Nội, năm 2013.
- Giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013.
- Vụ Pháp luật quốc tế - Bộ Tư pháp, Pháp luật TTTP quốc tế, năm 2006.


3

Bài viết đăng trên tạp chí:
- PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn TTTP
ở Việt Nam và các nước đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề
Luật TTTP, năm 2008.
- Nguyễn Ngọc Anh, Nội dung cơ bản của Luật TTTP đăng trên Tạp chí
Toà án nhân dân số 3/2008.
- Nguyễn Công Khanh, Cần tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động TTTP quốc
tế ở nước ta đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2000.
- Nguyễn Trung Tín, TTTP quốc tế trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa
rộng đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2008.
- Trần Đại Sỹ, Thực tiễn ủy thác thi hành án dân sự và một số giải pháp
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 3/2014…
Đề tài nghiên cứu khoa học, các bài tham luận, khoá luận tốt nghiệp:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở – Trường Đại học Luật Hà Nội,
Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Hồng Bắc: Một số vấn đề pháp lý trong TTTP
quốc tế về dân sự giữa Việt Nam và các nước, năm 2008.
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Chủ
nhiệm đề tài ThS. Nguyễn Khánh Ngọc: Các giải pháp tăng cường công tác ký
kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về TTTP trong lĩnh vực dân sự
và thương mại giữa Việt Nam và các nước, năm 2014.
- ThS. Dương Thị Bích Đào, Vụ Pháp luật quốc tế - Bộ Tư pháp, Thực
tiễn công tác đàm phán, ký kết và gia nhập các Điều ước quốc tế song phương

về tương trợ tư pháp về dân sự trong thời gian qua, năm 2013.
- ThS. Hoa Hữu Long - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư
pháp; ThS. Chu Tam Tuấn - Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp, Các vấn đề lý
luận về TTTP, chủ trương, đường lối của đảng, nhà nước, cơ sở pháp lý đàm
phán, ký kết các điều ước quốc tế về TTTP, vai trò, vị trí của các điều ước
quốc tế về TTTP, năm 2014.


4

- ThS. Trần Anh Tuấn - Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp và ThS. Bùi
Hương Quế - Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp, Một số điều ước quốc tế đa
phương liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự và xu thế gia nhập trên thế
giới, năm 2014.
- Nguyễn Thị Hảo - Khóa luận tốt nghiệp Uỷ thác tư pháp quốc tế về
dân sự giữa Việt Nam và các nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; TS.
Nguyễn Hồng Bắc hướng dẫn, năm 2011.
- Đậu Thị Huyền - Khóa luận tốt nghiệp Uỷ thác tư pháp quốc tế về dân
sự giữa Việt Nam và cộng hoà Pháp - Một số vấn đề pháp lý cơ bản; TS. Trần
Minh Ngọc hướng dẫn, năm 2011.
Tài liệu Hội thảo: Ngoài ra tại các hội thảo về TTTP được tổ chức, cũng
có các báo cáo, kỷ yếu, tham luận nghiên cứu về uỷ thác tư pháp quốc tế, tiêu
biểu phải kể đến như:
- Hội thảo TTTP giữa Việt Nam và các nước do Nhà pháp luật Việt Pháp – Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức vào năm 2007: Kỷ yếu hội thảo
TTTP giữa Việt Nam và các nước năm 2007.
- Hội thảo rà soát pháp luật về TTTP do Bộ Tư pháp tổ chức vào tháng
8/2012: Báo cáo TTTP Bộ Tư pháp, năm 2012.
- Hội thảo Tổng kết thi hành Luật TTTP sau 6 năm thi hành do Bộ Tư
pháp tổ chức vào tháng 1/2015: Báo cáo số 14/BC-BTP ngày 15/1/2015 của
Bộ Tư pháp gửi Chính phủ: Báo cáo kết quả tổng kết 6 năm thi hành Luật

TTTP, năm 2015…
Trên đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về uỷ thác tư pháp
quốc tế về dân sự ở nước ta hiện nay, các công trình đó đã có những cái nhìn
từ tổng quát cho tới chuyên sâu về góc độ nào đó của hoạt động TTTP. Tuy
nhiên, hiện vẫn chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu và đưa ra sự so sánh
một cách khái quát giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước trên
thế giới về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự.


5

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích một số quy định của pháp luật Việt Nam, các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định về ủy thác tư pháp quốc tế về
dân sự; đánh giá những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam trong lĩnh
vực này, từ đó đưa ra giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam cho
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, nâng cao hiệu quả của hoạt động ủy thác tư
pháp về dân sự ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn hướng tới cụ thể sau:
Một là, phân tích tổng quát các vấn đề lý luận về pháp luật ủy thác tư
pháp quốc tế dân sự của Việt Nam.
Hai là, phân tích, đánh giá pháp luật về ủy thác dân sự quốc tế ở Việt
Nam và một số nước để tìm ra điểm tương đồng của pháp luật Việt Nam,
thông qua đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự.
Ba là, đánh giá thực trạng uỷ thác tư pháp quốc tế ở Việt Nam, tìm ra
những điểm vướng mắc, hạn chế của pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về ủy thác dân sự quốc tế trong bối cảnh hiện nay.

3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự tương đối rộng và phong
phú, cho nên đề tài không có tham vọng nghiên cứu tất cả các quy định của
pháp luật Việt Nam từ giai đoạn năm 1980, mà chỉ nghiên cứu một số vấn đề
quan trọng của uỷ thác tư pháp quốc tế: cách thức uỷ thác, quy trình uỷ thác,
nội dung uỷ thác, nguyên tắc uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự; có đối chiếu
và so sánh với pháp luật một số nước về uỷ thác tư pháp quốc tế như Hoa Kỳ,
Cộng hoà Pháp, Nhật Bản…


6

3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư
duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện
hơn các quy định pháp luật uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ở Việt Nam.
Luận văn này sẽ là một trong những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng
dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước,
kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình
xây dựng, áp dụng pháp luật.
5. Điểm mới của luận văn
Luận văn làm rõ hơn những vấn đề lý luận về uỷ thác tư pháp quốc tế.
Đặc biệt, luận văn phân tích quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về uỷ

thác tư pháp quốc tế, có đối chiếu, so sánh với một số nước trên thế giới có
điểm tương đồng với Việt Nam về uỷ thác tư pháp quốc tế. Từ đó rút ra những
bài học cho Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về uỷ thác tư
pháp quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự
Chương 2. Nội dung uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới
Chương 3. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự ở Việt Nam.


7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ UỶ THÁC
TƯ PHÁP QUỐC TẾ VỀ DÂN SỰ
1.1. Khái niệm ủy thác tư pháp quốc tế về dân sự
Nhu cầu phát triển quan hệ quốc tế, mở rộng giao lưu giữa các dân tộc
đã đặt ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong việc xử lý các vấn đề pháp luật vốn thuộc
thẩm quyền nội bộ của nước này nhưng lại bị giới hạn bởi chủ quyền quốc gia
của nước khác. Các cơ quan tư pháp của các nước thực hiện việc giúp đỡ, hỗ
trợ lẫn nhau về các vấn đề tư pháp và pháp luật trên cơ sở điều ước quốc tế liên
quan hoặc trên nguyên tắc có đi có lại chính là hoạt động TTTP quốc tế. Theo
đó, TTTP quốc tế bao gồm các hoạt động như: uỷ thác tư pháp, điều tra thu
thập chứng cứ tài liệu, chuyển giao tài liệu, công nhận và cho thi hành các
quyết định của Toà án hoặc trọng tài nước ngoài… Vậy có thể thấy uỷ thác tư
pháp quốc tế chính là một trong những hoạt động TTTP quốc tế.
Về nguyên tắc thì các cơ quan tư pháp có thể thực hiện các hành vi tố

tụng theo thẩm quyền (thu thập chứng cứ, tống đạt giấy tờ triệu tập đến toà
án…) trong phạm vi lãnh thổ của nước có cơ quan tư pháp đó. Tuy nhiên muốn
thực hiện các hành vi này ở nước ngoài, cơ quan tư pháp đó phải nhận được sự
chấp thuận cụ thể của nước nơi các hành vi đó sẽ được thực hiện trên cơ sở các
uỷ thác tư pháp quốc tế. Theo đó, uỷ thác tư pháp quốc tế được hiểu một cách
khái quát là sự yêu cầu bằng văn bản chính thức của cơ quan tư pháp nước này
đối với cơ quan tư pháp nước kia thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt tại
lãnh thổ của nước kia theo những nội dung, chỉ định trong văn bản yêu cầu.
Hiện nay, uỷ thác tư pháp quốc tế không còn là một khái niệm xa lạ và
mới mẻ, tuy nhiên vẫn có khá nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm thế
nào là uỷ thác tư pháp quốc tế.


8

Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm ngôn
ngữ và văn hoá Việt Nam thì “uỷ thác” nghĩa là “giao phó một cách chính thức
cho một người được tin cậy”, còn tư pháp là “việc xét xử theo pháp luật”. Như
vậy thì uỷ thác tư pháp quốc tế được hiểu là cơ quan có thẩm quyền nước này
giao phó cho một cơ quan có thẩm quyền của nước khác làm thay mình một số
việc quan trọng nào đó trong việc xét xử các hành vi phạm pháp hoặc các vụ kiện
tụng. Hoạt động uỷ thác này chỉ xảy ra giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
nước này với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước khác.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lí – Bộ Tư pháp thì “Uỷ
thác tư pháp là yêu cầu của cơ quan tư pháp này đối với cơ quan tư pháp tương
ứng của nước kia thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt trên lãnh thổ của
nước có cơ quan được yêu cầu trong quá trình giải quyết một vụ án dân sự có
yếu tố nước ngoài” [5, tr.838]. Xét về tính chính xác của một khái niệm được
đưa ra trong từ điển, thì rõ ràng định nghĩa này thiếu sót bởi nội dung định nghĩa
này là “uỷ thác tư pháp quốc tế” nhưng trong từ điển lại đưa ra định nghĩa về

“uỷ thác tư pháp”. Uỷ thác tư pháp có thể là uỷ thác tư pháp quốc tế, nhưng
cũng có thể là uỷ thác tư pháp trong phạm vi một quốc gia, giữa Toà án địa
phương này với Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của địa phương khác. Đây
là một sai sót cần được xem xét lại, bởi đã là khái niệm được đưa ra trong từ
điển thì phải đạt yêu cầu cao về tính chính xác. Mặt khác, hiện nay uỷ thác tư
pháp quốc tế được hiểu là hình thức thực hiện TTTP, mà TTTP được hiểu một
cách đầy đủ và toàn diện bao gồm TTTP trên bốn lĩnh vực là: TTTP về dân sự,
TTTP về hình sự, TTTP về dẫn độ tội phạm, và TTTP về chuyển giao người
đang chấp hành hình phạt tù. Như vậy, định nghĩa này không phải là định nghĩa
về uỷ thác tư pháp quốc tế nói chung, tức là uỷ thác tư pháp quốc tế là hình thức
thực hiện TTTP, mà nội hàm của định nghĩa trên đã bị hạn chế, chỉ còn lại trong
lĩnh vực dân sự: “Trong quá trình giải quyết một vụ án dân sự có yếu tố nước
ngoài”, nghĩa là định nghĩa về uỷ thác tư pháp quốc tế trong lĩnh vực dân sự.


9

Theo Giáo trình Tư pháp quốc tế của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội (năm 2013) thì “Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có
thẩm quyền của một nước đối với cơ quan tương ứng của nước khác thực hiện
một hoặc một số hoạt động tố tụng riêng biệt trên lãnh thổ của nước có cơ
quan được yêu cầu theo quy định của pháp luật nước được yêu cầu hoặc theo
quy định của điều ước quốc tế giữa các bên” [3]. Còn theo Giáo trình Tư pháp
quốc tế Trường đại học Luật Hà Nội (năm 2008) định nghĩa “Uỷ thác tư pháp
quốc tế là việc Toà án của một nước nhờ toà án của nước ngoài thực hiện giúp
những hành vi tố tụng riêng lẻ cần thiết để bảo đảm giải quyết các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài” [4, 332]. So sánh với định nghĩa được đưa ra trong
giáo trình của Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội thì định nghĩa này hẹp
hơn khi không chỉ giới hạn uỷ thác tư pháp quốc tế trong lĩnh vực dân sự mà
còn chỉ rõ cơ quan có thẩm quyền thực hiện uỷ thác tư pháp của một nước ở

đây chính là toà án. Toà án là cơ quan chủ yếu thực hiện uỷ thác tư pháp quốc
tế, tuy nhiên các cơ quan có thẩm quyền khác cũng có thể tiến hành hoạt động
này khi cần thiết. Việc một số tài liệu đưa ra định nghĩa về uỷ thác tư pháp
quốc tế đồng nghĩa với uỷ pháp tư pháp quốc tế về dân sự cần phải xem xét lại
cho chính xác, bởi uỷ thác tư pháp quốc tế không chỉ là hoạt động của cơ quan
tư pháp có thẩm quyền trong quá trình giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài. [28, tr.6]
Luật TTTP của nước ta năm 2007 đã định nghĩa về uỷ thác tư pháp quốc
tế tại Điều 6 như sau: “Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về
việc thực hiện một hoặc một số hoạt động TTTP theo quy định của pháp luật
nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.
Như vậy, tuy các tài liệu đưa ra những định nghĩa khác nhau nhưng nhìn
chung đều có một cách hiểu chung khá thống nhất. Có thể rút ra định nghĩa về
uỷ thác tư pháp quốc tế một cách khái quát nhất như sau: Uỷ thác tư pháp quốc


10

tế là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước này yêu cầu bằng văn
bản cơ quan có thẩm quyền của nước kia thực hiện giúp một hoặc một số hoạt
động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc
theo điều ước quốc tế mà hai nước là thành viên. Như vậy, uỷ thác tư pháp
quốc tế về dân sự chính là hoạt động uỷ thác tư pháp quốc tế của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để đảm bảo giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài. Khái niệm dân sự ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các lĩnh
vực về dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân - gia đình.
1.2. Đặc điểm của uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự
Từ khái niệm trên, có thể thấy uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự là một
hoạt động đặc thù trong lĩnh vực tư pháp, mang một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, uỷ thác tư pháp quốc tế là hình thức thực hiện TTTP. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật TTTP thì“TTTP được thực hiện trên cơ sở
yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài thông qua ủy thác tư pháp”. Như vậy, TTTP là hình
thức cơ quan tư pháp nước này yêu cầu cơ quan tư pháp nước kia giúp đỡ mình
thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết trên lãnh thổ nước đó và là cơ sở để
cơ quan tư pháp của một nước tiến hành những hành vi hỗ trợ nước kia, thông
qua hoạt động uỷ thác tư pháp theo những yêu cầu trong nội dung văn bản uỷ
thác tư pháp. Vậy nên uỷ thác tư pháp quốc tế là hình thức thực hiện TTTP.
Thứ hai, cơ sở pháp lý thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự là
điều ước quốc tế (song phương hoặc đa phương) giữa các nước và pháp luật
các nước liên quan về TTTP. Trong bối cảnh hiện nay, các quốc gia rất chú
trọng việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế song phương và đa phương về
TTTP, cụ thể là uỷ thác tư pháp quốc tế. Bên cạnh đó cũng đề cao việc xây
dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật nước mình về vấn đề này, tạo nên
cơ sở pháp lí rõ ràng, cụ thể để các quốc gia tiến hành hoạt động uỷ thác tư
pháp quốc tế với nhau được nhanh chóng và hiệu quả. Nếu điều ước quốc tế về


11

uỷ thác tư pháp mà các nước là thành viên có sự khác biệt với pháp luật trong
nước thì điều ước quốc tế giữa các nước liên quan về uỷ thác tư pháp quốc tế
sẽ được ưu tiên áp dụng; nếu không có điều ước quốc tế liên quan thì uỷ thác
tư pháp sẽ được thực hiện theo pháp luật của nước được yêu cầu thực hiện, chủ
yếu là theo nguyên tắc có đi có lại.
Thứ ba, cơ quan thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được quy định cụ thể trong pháp luật mỗi nước, và thông
thường là do cơ quan tư pháp thực hiện. Tại Việt Nam, các cơ quan thực hiện
uỷ thác tư pháp về dân sự bao gồm Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Bộ

Ngoại giao, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các Toà án nhân dân
cấp tỉnh. Ngoài ra, còn có Sở Công an (đối với việc xác minh tính xác thực của
giấy phép lái xe, chứng minh nhân dân…), Uỷ ban nhân dân các địa phương
(đối với việc xác minh địa chỉ, xác minh tình trạng hôn nhân, tình trạng nhân
thân và những thông tin liên quan đến đương sự). Cơ quan tư pháp trung ương
thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế ở Hungary là Bộ Hành chính công và tư
pháp - Vụ Tư pháp quốc tế (Ministry of Public Administration and
Justice/Department of Private International Law); ở Hà Lan và Liên Bang Nga
cơ quan tư pháp trung ương thực hiện uỷ thác tư pháp là Bộ Tư pháp; ở
Ốtxtrâylia cơ quan tư pháp trung ương thực hiện uỷ thác tư pháp là Bộ Ngoại
giao và Thương mại - Văn phòng Tổng Chưởng lý,...[23]
Thứ tư, lĩnh vực uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự khá rộng, bao gồm
các quan hệ dân sự, lao động, thương mại, hôn nhân – gia đình, tố tụng dân sự,
nghĩa là uỷ thác tư pháp quốc tế về các vấn đề dân sự theo nghĩa rộng.
1.3. Ý nghĩa của ủy thác tư pháp quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, quốc tế ngày một sâu rộng như hiện
nay, uỷ thác tư pháp quốc tế mang một ý nghĩa to lớn, vai trò quan trọng trên
tất cả các phương diện chính trị, pháp lý và kinh tế.


12

* Trên phương diện chính trị
Uỷ thác tư pháp quốc tế không chỉ góp phần củng cố và tăng cường mối
quan hệ giữa các quốc gia hữu quan, các cơ quan tư pháp của các nước mà còn
khẳng định chủ quyền và vị thế của các quốc gia đó trên trường quốc tế. Việc
thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế phải tuân theo quy định của pháp luật nước
được uỷ thác, do vậy đó còn là biểu hiện cụ thể của chủ quyền quốc gia xét
trên phương diện quốc tế. Các quốc gia khác phải tôn trọng, không được ép
buộc hoặc can thiệp dưới bất kì hình thức nào. Vậy nên, thông qua uỷ thác tư

pháp quốc tế, các nước khẳng định rõ nội dung chủ quyền của mình trong quan
hệ quốc tế, tuyên bố rõ với cộng đồng quốc tế những hành vi tố tụng riêng biệt
không được tiến hành cũng như các quy chuẩn phải tuân theo trong quá trình
thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế trên lãnh thổ quốc gia nước mình.
* Trên phương diện pháp lý
Nhìn trên phương diện pháp lý, uỷ thác tư pháp quốc tế là một hoạt động
không thể thiếu của Toà án và các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay. Trong
quá trình Toà án và các cơ quan tư pháp một nước tiến hành các hoạt động tố
tụng các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, để đảm bảo đầy đủ các quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong tố tụng thì các hoạt động uỷ thác
tư pháp đóng vai trò không thể thiếu. Bởi Toà án không chỉ căn cứ vào pháp
luật nước mình, vào điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên mà trong nhiều
trường hợp còn dựa vào sự phối hợp, giúp đỡ của Toà án, cơ quan có thẩm
quyền nước ngoài. Uỷ thác tư pháp quốc tế còn giúp cho việc giải quyết các vụ
việc diễn ra một cách nhanh chóng và thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho Toà án
và các cơ quan tư pháp hoàn thành việc xử lí các vụ việc một cách công bằng,
chính xác, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
* Trên phương diện kinh tế
Xu hướng hội nhập, hợp tác cùng phát triển đã trở thành xu hướng
chung của tất cả các quốc gia trên thế giới, giúp cho các nước xích lại gần nhau


13

hơn trong đời sống kinh tế - xã hội. Ngày càng có nhiều công dân, tổ chức,
doanh nghiệp nước này cư trú, làm ăn, sinh sống, đặt trụ sở, chi nhánh tham
gia hoạt động kinh tế trên lãnh thổ của nước khác. Từ đó, các nhu cầu hỗ trợ
lẫn nhau và kéo theo đó là những tranh chấp, mâu thuẫn về dân sự có liên quan
đến cá nhân, pháp nhân của hai hay nhiều nước cũng ngày một tăng lên. Uỷ
thác tư pháp quốc tế không chỉ góp phần củng cố niềm tin cho các tổ chức, cá

nhân khi tham gia các quan hệ dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài, mà còn
thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - xã hội giữa hai bên tiếp tục phát triển. Trước
hết để nền kinh tế của bản thân quốc gia đó không bị tụt lùi, lạc hậu so với thế
giới, sau là phương tiện để các cá nhân, tổ chức của nước này có thể trao đổi,
học tập kinh nghiệm, mở rộng sự hiểu biết trong lĩnh vực kinh tế với các nước
khác. Có thể nói, uỷ thác tư pháp quốc trong thời đại ngày nay phải được nhìn
nhận như một đòi hỏi khách quan, một nhu cầu tất yếu trong quá trình phát
triển ngày càng mạnh mẽ của các dòng quan hệ quốc tế giữa các quốc gia nói
chung, của các giao dịch kinh tế, thương mại giữa các tổ chức, cá nhân các
nước khác nhau nói riêng.
1.4. Các nguồn luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác tư pháp quốc tế ở
Việt Nam
1.4.1. Các điều ước quốc tế về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự
Có thể nói, các điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng nhất của
hoạt động TTTP nói chung và uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự nói riêng ở
Việt Nam hiện nay.
a. Tình hình ký kết các HĐTTTP song phương
Hoạt động ký kết các HĐTTTP được coi là sự chuẩn bị về cơ sở pháp lý
quốc tế cho hoạt động áp dụng ủy thác tư pháp về dân sự trên thực tế. Từ năm
1980 cho đến nay, trong lĩnh vực dân sự và thương mại, Việt Nam đã ký kết 17
HĐTTTP với các nước. Cụ thể:


14

Từ năm 1980 đến năm 1992, Việt Nam đã ký được 06 Hiệp định với
các nước trong khối xã hội chủ nghĩa và kể từ khi ban hành Hiến pháp 1992,
Việt Nam ký thêm được 09 HĐTTTP với các nước (xem bảng 1 Phụ lục 1).
Nội dung của các Hiệp định được ký trong hai giai đoạn này về cơ bản là
giống nhau. Vì các nước trong khối xã hội chủ nghĩa có sự tương đồng cơ bản

về chính trị, nên phạm vi điều chỉnh của các Hiệp định này khá rộng, đa số về
TTTP, thẩm quyền, dân sự, thương mại… Các Hiệp định cũng điều chỉnh tổng
thể hai mảng quan hệ, đó là TTTP giữa các cơ quan tư pháp các nước ký kết và
phương pháp thống nhất các quy tắc lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết
các xung đột pháp luật, quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong
việc giải quyết các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình và hình sự bị
kết án phạt tù.
Trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2007 đã xuất hiện một xu thế
mới, đó là nội dung của một số Hiệp định cũng không còn rộng như nội dung
của các Hiệp định đã ký trong giai đoạn đầu tiên. Cụ thể, các Hiệp định mà
Việt Nam đã ký với Pháp và Trung Quốc có phạm vi nội dung đơn giản hơn,
chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp tác TTTP giữa các cơ quan tư
pháp của hai nước mà không quy định về vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng để
giải quyết các xung đột pháp luật và quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan
tư pháp. Đây cũng là xu thế ký kết các HĐTTTP về dân sự và thương mại giữa
các nước trong giai đoạn tiếp theo.
Trong năm 2008 và 2009, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Tòa án
nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ và Bộ
Công an tiến hành đàm phán một số Hiệp định: HĐTTTP trong lĩnh vực dân
sự giữa Việt Nam và Anh và HĐTTTP trong lĩnh vực dân sự và thương mại
giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Bộ Tư pháp giai đoạn này đang chuẩn bị các
điều kiện, thủ tục cần thiết để triển khai việc sửa đổi các HĐTTTP trong lĩnh
vực dân sự và thương mại với Séc và một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây
như Ba Lan, Xlô-va-kia, đàm phán HĐTTTP về dân sự và thương mại với
Cam-pu-chia, Ka-zắc-xtan, Ấn Độ trong năm 2010.


15

Năm 2010, Việt Nam đã ký HĐTTTP trong lĩnh vực dân sự và thương

mại với An-giê-ri nhân chuyến thăm An-giê-ri của Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết vào giữa tháng 4/2010. Ngoài ra còn ký Thỏa thuận tương trợ tư
pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại
Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam. Chính phủ
Việt Nam đã có Tờ trình Chủ tịch nước phê chuẩn HĐTTTP trong lĩnh vực
dân sự và thương mại giữa Việt Nam và An-giê-ri và hoàn tất các thủ tục nội
bộ để triển khai thực hiện Thỏa thuận TTTP trong lĩnh vực dân sự giữa Văn
phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế và Văn
hóa Đài Bắc tại Việt Nam.
Tính đến thời điểm hiện nay, trên đầy đủ các lĩnh vực dân sự, thương mại,
hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án, Việt Nam đã ký 26 HĐTTTP với
các nước (xem bảng 2 – Phụ lục 2), trong đó có 17 Hiệp định điều chỉnh TTTP về
dân sự, thương mại; đã và đang chuẩn bị đàm phán 18 HĐTTTP trên các lĩnh
vực, đã và đang chuẩn bị rà soát, sửa đổi, hiện đại hoá các Hiệp định đã ký với
các nước XHCN trước đây. Nhìn chung, các HĐTTTP đã ký trong thời gian qua
hoặc đang trong quá trình đàm phán đều có nội dung phù hợp với các quy định
của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam; việc đàm phán,
ký kết được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, nguyên tắc quy định tại Luật Ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. [22, tr.44]
Xuất phát từ xu thế chung trong việc “đơn giản hóa” và có thể nhanh
chóng tạo sự đồng thuận giữa các quốc gia ký kết, trong thời gian gần đây, các
HĐTTTP trong lĩnh vực dân sự và thương mại được xây dựng theo hướng chỉ
điều chỉnh các vấn đề mang tính nguyên tắc, thủ tục trong hợp tác TTTP và
dẫn chiếu đến pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung của quốc gia cùng ký
kết, chứ không đề ra những quy phạm xung đột thống nhất để giải quyết xung
đột pháp luật và xung đột thẩm quyền như các Hiệp định mà đã ký với các
nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn trước đây.


16


b. Tình hình ký kết, tham gia các HĐTTTP đa phương
Có thể nhận thấy trong 5 năm trở lại đây, Việt Nam đã rất tích cực hoạt
động nhằm nâng cao vị thế của mình trong cộng đồng ASEAN, trong khu vực
châu Á- Thái Bình Dương và cả trên bình diện toàn cầu bằng cách chủ động tổ
chức hoặc tham gia các diễn đàn, hội nghị và chủ động đưa ra những đề xuất,
sáng kiến trong việc nâng cao hiệu quả hợp tác về TTTP trong lĩnh vực dân sự
và thương mại, đặc biệt là đưa ra những đề xuất đối với các thành viên ASEAN.
Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện nay, hợp tác về TTTP trong lĩnh vực
dân sự và thương mại hiện nay giữa Việt Nam và hầu hết các nước trong khối
ASEAN cũng như giữa các nước trong khối với nhau vẫn chỉ tiến hành trên cơ
sở của nguyên tắc có đi có lại đối với từng vấn đề cụ thể. Việt Nam vẫn chưa ký
kết hoặc tham gia một công ước quốc tế nào về TTTP trong lĩnh vực dân sự, cụ
thể: Công ước La Hay ngày 1/3/1954 về các vấn đề tố tụng dân sự, Công ước La
Hay ngày 15/11/1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư
pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại, trong khi đó đã có rất nhiều quốc gia
trên thế giới tham gia các Công ước La Hay này (Xem phụ lục 2). [25]
1.4.2. Pháp luật trong nước về uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự
a. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2003
Trong giai đoạn này, một số văn bản pháp luật về hoạt động TTTP có
thể kể đến như: Thông tư liên bộ số 139/TT-LB ngày 12/3/1984 của Bộ Tư
pháp - Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ Bộ Ngoại giao về việc thi hành HĐTTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia
đình và hình sự đã ký giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa;
Thông tư liên ngành số 6/1986/TT-LN năm 1986 về thẩm quyền và thủ tục giải
quyết những việc ly hôn giữa các công dân Việt Nam mà một bên ở nước chưa
có HĐTTTP về các vấn đề hôn nhân và gia đình với nước ta do toà án nhân
dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp ban hành; Thông
tư số 163/HTQT ngày 25/3/1993 của Bộ Tư pháp về việc thực hiện ủy thác tư
pháp của Tòa án nước ngoài.



17

b. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời đã đánh dấu một bước quan
trọng trong hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh về TTTP quốc tế. Trong
đó, dành riêng 1 Chương - Chương XXXVI quy định về TTTP trong tố tụng
dân sự, gồm 5 điều (từ Điều 414 đến Điều 418) quy định các nguyên tắc cơ
bản về TTTP trong tố tụng dân sự; về uỷ thác tư pháp và thủ tục thực hiện uỷ
thác tư pháp. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự chưa có những quy định về
trình tự và thủ tục thực hiện các yêu cầu về TTTP cũng như cơ chế phối hợp
giữa các Bộ, ngành trong xử lý, giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực TTTP.
Đến năm 2005, Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa VII (Nghị quyết Trung ương 8) đã ghi
nhận “phải tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt động TTTP giữa Việt Nam với
các nước trong thời kỳ mới, phải mở rộng quan hệ quốc tế về TTTP, về phòng,
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội”. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh
vấn đề TTTP. Như vậy có thể thấy rằng trong chủ trương, đường lối của Đảng
luôn có sự quan tâm đến hoạt động TTTP.
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, ngày 21/11/2007, Quốc
hội đã thông qua Luật TTTP, góp phần đưa hoạt động TTTP nói chung, uỷ
thác tư pháp quốc tế nói riêng dần đi vào nề nếp. Luật bao gồm 7 chương với
72 điều, trong đó Chương II về TTTP về dân sự, gồm 7 điều (từ Điều 10 đến
Điều 16) quy định về: phạm vi TTTP về dân sự; hồ sơ uỷ thác tư pháp về dân
sự; văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự; yêu cầu nước ngoài TTTP về dân sự;
thủ tục yêu cầu nước ngoài TTTP về dân sự; thủ tục tiếp nhận và xử lý uỷ thác
tư pháp về dân sự của nước ngoài; chi phí thực hiện TTTP về dân sự. Luật
TTTP năm 2007 được chi tiết hoá tại Nghị định số 92/2008/NĐ-CP Hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật này và Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLTBTP-BNG-TANDTC ngày 19/9/2011 của liên Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao,
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về TTTP trong
lĩnh vực dân sự của Luật TTTP.


18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu mở rộng quan hệ quốc tế, mở
rộng giao lưu giữa các dân tộc, các quốc gia ngày càng quan tâm hơn đến hoạt
động TTTP, mà cụ thể là uỷ thác tư pháp quốc tế. Uỷ thác tư pháp quốc tế về
dân sự được hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước này yêu
cầu bằng văn bản cơ quan có thẩm quyền của nước kia thực hiện giúp một
hoặc một số hoạt động TTTP về dân sự theo quy định của pháp luật nước có
liên quan hoặc theo điều ước quốc tế mà hai nước là thành viên. Uỷ thác tư
pháp quốc tế mang ý nghĩa to lớn, có vai trò quan trọng trên cả phương diện
chính trị, pháp lý và kinh tế. Ở nước ta, uỷ thác tư pháp quốc tế không chỉ
được điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia mà còn được điều chỉnh bởi các điều
ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết. Việt Nam đã ký kết 17
HĐTTTP song phương với các nước trong lĩnh vực dân sự, thương mại, tuy
nhiên vẫn chưa tham gia điều ước quốc tế đa phương nào về TTTP.


19

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG UỶ THÁC TƯ PHÁP QUỐC TẾ VỀ DÂN SỰ Ở
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự theo quy định của pháp luật
Việt Nam trong mối tương quan so sánh với pháp luật một số nước

2.1.1. Nguyên tắc uỷ thác
Uỷ thác tư pháp quốc tế là hình thức thực hiện TTTP, là một trong
những hoạt động khá phổ biến của TTTP quốc tế. Uỷ thác tư pháp trong lĩnh
vực dân sự chủ yếu là hoạt động giữa các cơ quan tư pháp các nước nhằm giúp
đỡ nhau thực hiện một số công việc có liên quan đến hoạt động tố tụng như:
tống đạt, giấy tờ, lấy lời khai, điều tra thu thập chứng cứ. Vì vậy, đòi hỏi phải
thực hiện hoạt động này theo những nguyên tắc nhất định, để đảm bảo được
đầy đủ quyền lợi của các bên tham gia uỷ thác.
Hiện nay ở Việt Nam, theo Điều 4 Luật TTTP, việc thực hiện các hoạt
động TTTP phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
“1. TTTP được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng
và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về
TTTP thì hoạt động TTTP được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng
không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế”.
Trên phương diện quốc tế, TTTP là biểu hiện của chủ quyền quốc gia,
các quốc gia khác không được can thiệp và phải tôn trọng, việc cho phếp tiến
hành hoặc không cho phép, phạm vi, mức độ thực hiện các hoạt động hoàn
toàn phụ thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia. Việc thực hiện uỷ thác tư pháp
quốc tế cũng là một hình thức của TTTP vì thế cũng phải tuân theo những
nguyên tắc đó.


20

Dựa vào những nguyên tắc trên và theo quy định trong Bộ luật Tố tụng
dân sự, việc thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự phải tuân theo hai
nguyên tắc cụ thể sau:

Thứ nhất, toà án Việt Nam uỷ thác tư pháp cho toà án nước ngoài hoặc
thực hiện uỷ thác tư pháp của toà án nước ngoài về việc tiến hành một số hoạt
động tố tụng dân sự theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Hoạt động uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự buộc phải được tiến hành
theo quy định của điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp uỷ thác tư pháp quốc tế được
thực hiện với những nước không có điều ước quốc tế điều chỉnh thì sẽ áp dụng
nguyên tắc có đi có lại. Sự bình đẳng giữa các quốc gia bao giờ cũng được thể
hiện trong quan hệ có đi có lại, vì vậy nguyên tắc này được ghi nhận trong luật
pháp của đại đa số các nước trên thế giới, cũng như được thể hiện trong rất
nhiều Điều ước quốc tế. Nguyên tắc này phản ánh thực tiễn khách quan và là
động lực thúc đẩy sự liên kết kinh tế cũng như bảo đảm sự ổn định cho một
trật tự pháp lý về TTTP giữa các nước trên thế giới.
Thứ hai, toà án Việt Nam không chấp nhận việc thực hiện uỷ thác tư
pháp của toà án nước ngoài trong các trường hợp sau:
- Việc thực hiện uỷ thác tư pháp xâm phạm đến chủ quyền của Việt Nam
hoặc đe doạ đến an ninh quốc gia của Việt Nam;
- Việc thực hiện uỷ thác tư pháp không thuộc thẩm quyền của toà án
Việt Nam.
Bởi độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều quan trọng nhất đối
với một quốc gia, tất cả các quốc gia đều bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia mình trong mọi quan hệ quốc tế, trên mọi phương
diện. Chính vì vậy, khi thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế, các quốc gia phải
tuyệt đối tôn trọng độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,


×