Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.13 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂM

PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ có tiêu đề “Pháp luật về đại diện
trong quan hệ hợp đồng thương mại ở Việt Nam”là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân.Được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của:
Tiến sỹ Bùi Ngọc Cường.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bầy trong luận văn
có nguồn trích dẫn đầy đủ và trung thực. Kết quả nêu trong luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nôi, ngày 15 tháng 5 năm 2015


Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Ngọc Trâm


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan, đồng nghiệp nơi tôi công tác và các cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Luật
Hà Nội, Phòng Đào tạo và Khoa Sau đại học của nhà trường cùng các thầy cô
giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn thầy
giáo - Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường, người thầy đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn khoa
học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn tất các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoànthành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể
tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận đuợc sự đóng góp của các
thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Ngọc Trâm


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT


BLDS

: Bộ luật Dân sự


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆNTRONG QUAN HỆ
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI.............................................................................. 1
1.1 Khái quát về quan hệ đại diện. .................................................................. 1
1.1.1. Khái niệm đại diện ............................................................................ 1
1.1.2 Đặc điểm của đại diện........................................................................ 3
1.1.3 Ý nghĩa của đại diện .......................................................................... 4
1.2. Đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại. ......................................... 5
1.2.1 Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại .................... 5
1.2.2 Đặc điểm đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại ..................... 6
1.2.2.1 Bên đại diện hành động với danh nghĩa bên được đại diện hoặc
với danh nghĩa của mình. ................................................................. 6
1.2.2.2 Bên đại diện hành động vì lợi ích của bên được đại diện............. 6
1.2.2.3 Người đại diện hành động trong phạm vi đại diện ....................... 6
1.2.3 Phân loại đại diện .............................................................................. 7
1.2.3.1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân ....................................... 8
1.2.3.2. Đại diện theo ủy quyền .............................................................. 9
1.2.3.2.1. Đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực dân sự ................... 10
1.2.3.2.2. Đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực thương mại ........... 11
1.2.4. Bản chất của đại diện ...................................................................... 14
1.2.4.1 Đại diện mang tÝnh tù do ý chÝ ................................................. 14
1.2.4.2 §¹i diÖn mang tÝnh tin cậy. ....................................................... 14



1.2.4.3 Đại diện mang tính miễn cưỡng (đại diện do pháp luật quy
định). .......................................................................................... 15
1.3 Pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng của một số nước trên thế giới ...... 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................. 24
2.1 Nguồn luật điều chỉnh đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại. ..... 24
2.1.1. Luật quốc tế. ................................................................................... 24
2.1.2. Luật điều chỉnh về đại diện trong quan hệ hợp đồng ở Việt Nam. .... 27
2.1.2.1 Các văn bản pháp luật liên quan................................................ 27
2.1.2.2 Thói quen và tập quán thương mại ............................................ 29
2.2 Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong quan
hệ hợp đồng thương mại. .............................................................................. 30
2.2.1 Chủ thể đại diện trong quan hệ hợp đồng ......................................... 30
2.2.1.1. Bên được đại diện và quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện ..........30
2.2.1.2. Bên đại diện và quyền, nghĩa vụ của bên đại diện .................... 32
2.2.2. Phạm vi đại diện trong quan hệ hợp đồng ....................................... 35
2.2.2.1. Đại diện theo pháp luật ............................................................ 35
2.2.2.2. Đại diện theo uỷ quyền ............................................................ 36
2.2.2.3. Xung đột lợi ích ....................................................................... 38
2.2.2.4. Hậu quả của giao dịch dân sự do chủ thể không có thẩm quyền
đại diện xác lập, thực hiện hoặc bên đại diện xác lập, thực hiện vượt quá
thẩm quyền đại diện ............................................................................. 40
2.2.3. Thời điểm xác lập, chấm dứt đại diện trong quan hệ hợp đồng ....... 41
2.2.3.1. Thời điểm xác lập đại diện trong quan hệ hợp đồng ................. 41


2.2.3.2. Thời điểm chấm dứt đại diện trong quan hệ hợp đồng ............. 42
2.3 Những tình huống phát sinh liên quan đến đại diện trong quan hệ hợp đồng
thương mại........................................................................................................43
2.3.1 Tình huống về phạm vi đại diện ....................................................... 43

2.3.1.1 Tình huống về hợp đồng thương mại được ký kết bởi người
không có thẩm quyền đại diện. ............................................................. 43
2.3.1.2 Tình huống thông tin về doanh nghiệp còn hạn hẹp, ảnh hưởng đến
việc đánh giá doanh nghiệp và xác định trách nhiệm khi có sự vi phạm.........44
2.3.1.3 Tình huống về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. ....................................... 45
2.3.2 Tình huống về xác lập, chấm dứt đại diện trong quan hệ hợp đồng .........47
2.3.2.1 Tình huống người đại diện hoặc người được đại diện chết, đột
nhiên vô năng trong khi hợp đồng được giao kết. ................................. 47
2.3.3 Tình huống về chủ thể đại diện trong quan hệ hợp đồng .................. 48
2.3.3.1 Tình huống xác định tư cách chủ thể khi trong quan hệ có cả đại
diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. ..................................... 48
2.3.3.2 Tình huống xác định tư cách chủ thể đại diện theo pháp luật. ...........49
2.3.3.3 Tình huống về người đại diện không có ý chí giao kết hợp đồng.......... 51
2.3.3.4 Tình huống về quan hệ “ủy quyền lại” ...................................... 51
2.3.4 Tình huống về xác định thời hạn ủy quyền. ..................................... 53
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN
TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI. ......................................... 56
3.1 Cơ sở hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại. ..... 56
3.1.1 Sự cần thiết đổi mới, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về
đại diện trong quan hệ hợp đồng tránh sự chồng chéo, lặp lại, mâu thuẫn............. 56


3.1.2 Xuất phát từ những tranh chấp thực tế xoay quanh quan hệ đại diện
hợp đồng .................................................................................................. 57
3.1.2.1 Về hợp đồng thương mại được ký kết bởi người không có thẩm
quyền đại diện hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện............................... 57
3.1.2.2 Bất cập trong quy định về chấm dứt đại diện. ........................... 60
3.2 Định hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng
thương mại. ................................................................................................. 61

3.3 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng .........63
3.3.1 Thống nhất quy định tập trung chế định đại diện trong một văn bản
duy nhất là Bộ luật Dân sự. ...................................................................... 63
3.3.2 Quy định trách nhiệm của bên đại diện khi đại diện ký kết, thực hiện
hợp đồng không có thẩm quyền, vượt quá phạm vi ủy quyền ................... 64
3.3.3 Sửa đổi quy định về ủy quyền lại. .................................................... 65
3.3.4 Yêu cầu chủ thể có nghĩa vụ phải thông báo cho bên thứ ba biết về
phạm vi đại diện của mình. ....................................................................... 66
3.3.5 Bộ luật Dân sự cần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên nếu có xung đột
lợi ích giữa người đại diện và người được đại diện trong hợp đồng. .................66
3.3.6 Bộ luật dân sự cần sửa đổi quy định chấm dứt đại diện đối với
pháp nhân. ...................................................................................... 67
3.3.7 Luật Doanh nghiệp mới cần bổ sung quy định giảm thiểu rủi ro cho các chủ
thể trong giao dịch với người đại diện theo pháp luật đã bị bãi nhiệm. .................. 67
3.3.8 Bổ sung quy định thừa nhận “đại diện ngầm định”, “đại diện hiển nhiên”............ 69

KẾT LUẬN

71


MỞ BÀI
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi con người trong cuộc sống đều tham gia vào các mối quan hệ trong
xã hội: hôn nhân, gia đình, làng xóm, có bạn bè, quan hệ làm ăn buôn bán, tất cả
các nhu cầu cần thiết của một cá nhân đều được trao đổi… Họ có thể tự mình
tham gia vào những mối quan hệ đó nhưng một người khác cũng có thể thay mặt
họ(vì những lý do mà người đó không tự mình tham gia được), những người
thay mặt người khác là người đại diện.Cùng với sự lớn mạnh của kinh tế giao
thương thì việc đại diện trong ký kết hợp đồng đã được cho phép.

Xã hội càng phát triển thì việc đại diện càng quan trọng và có ý nghĩa to
lớn thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển và đại diện cũng là một thước đo đánh giá
sự phát triển của một xã hội. Đặc biệt là hoạt động đại diện trong quan hệ hợp
đồng -loại đại diện diễn ra phổ biến và có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc
sống hiện đại so các hoạt động đại diện khác. Và đồng thời, loại đại diện này
cũng mối quan hệ chặt chẽ với các chế định khác như: Chế định hợp đồng, chế
định bồi thường thiệt hại, các vấn đề liên quan đến công ty,.....
2. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động đại diện có tầm quan trọng rất lớn trong đời sống xã hội.
Các quy định pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng còn
bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Đặc biệt khi Việt Nam đang trên đà hội nhập như
hiện nay, nhiều quy định pháp luật liên quan còn chưa thể hiện được xu hướng
chung của thế giới, chưa phù hợp với một số quan điểm pháp lý phổ biến, được
nhiều nước trên thế giới ghi nhận và thực hiện.
Các tranh chấp liên quan đến đại diện trong quan hệ hợp đồng rất phổ
biển.Cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp thời để giải quyết và hạn chế
phần nào các tranh chấp liên quan.
Luận văn “Pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại ở
Việt Nam” sẽ nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận
và thực tiễn về đại diện trong quan hệ hợp đồng, xem xét cụ thể các quy định


pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện về những
hạn chế, thiếu sót của hệ thống pháp luật và đề xuất một một số giải pháp
mang tính hoàn thiện để phần nào giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp
luật Việt Nam hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số sách, bài viết chuyên ngành nghiên cứu về chế định hợp đồng như:
“Pháp luậtvề hợp đồng” của TS Nguyễn Mạnh Bách (1995), “Hoàn thiện pháp
luật về hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ (2002), “Chế định

hợp đồng kinh tế -Tồn tại hay không tồn tại” của GS.TS Lê Hồng Hạnh (2003),
“Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp đồng”
(2004), “Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng
ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Hữu Nghị (2005), “Hoàn thiện chế định hợp
đồng” của TS Phan Chí Hiếu,....
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về chế định
đại diện thì chưa có, chỉ có rất ít bài viết chuyên ngành về vấn đề này như: “Một
số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế” của Th.S Lê Thị
Bích Thọ, “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam-nhìn từ góc
độ luật so sánh” của TS Ngô Huy Cương,..... Và mới đây nhất là Luận án tiến sĩ
“Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” của
Hồ Ngọc Hiển (tháng 5/2012), Luận văn thạc sỹ “Pháp luật Việt Nam về đại diện
trong quan hệ hợp đồng” của Đỗ Hoàng Yến (tháng 5/2012) và một số khóa luận
tốt nghiệp của các cử nhân luật của trường Đại học Luật Hà Nội.
Các công trình khoa học liên quan chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát,
nghiên cứu vấn đề này trong cái tổng thể, lớn hơn là quan hệ hợp đồng, chế định
đại diện chung hay trong phạm vi hẹp hơn về chế định đại diện cho thương nhân
trong Luật thương mại.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những vấn đề lý luận khái quát
về chế định đại diện; những quy định pháp luật cụ thể về đại diện trong quan hệ


hợp đồng kinh doanh, thương mại; và tình hình thực tiễn hoạt động áp dụng pháp
luật về lĩnh vực này.
-Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu các khía cạnh
của đại diện trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn nghiên
cứu về đại diện cho các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại.Trên cơ sở những nghiên cứu này sẽ đưa ra những nhận định sâu sắc, từ đó
góp phần vào việc phát triển quan hệ hợp đồng (có hoạt động đại diện) trong nền

kinh tế thị trường hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
* Tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác
* Lênin và các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
Phương pháptổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh
luật học, phương pháp logic và lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn.
6. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
* Mục đích:
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong quan hệ hợp
đồng. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất định hướng các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về đại diện nói chung vàvề đại diện trong quan hệ hợp đồng nói riêng, góp
phần làm cho những quy định pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng có
tính thực tiễn cao hơn, giải quyết và hạn chế tốt hơn các tranh chấp liên quan và
góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định đại diện


- Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về đại diện
trong quan hệ hợp đồng. Từ đó đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điểm của
những quy định pháp luật cụ thể này.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng.
7. Những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về chế
định đại diện và cụ thể là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Từ đó luận giải về
một số những vấn đề cơ bản và đưa ra cách nhìn mới về những vấn đề này.

- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh
về đại diện trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế,
luận văn khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn
đề này, tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho quan hệ hợp đồng (có hoạt động
đại diện) cũng như hạn chế phần nào những tranh chấp liên quan có thể xảy ra.
- Trên cơ sở nghiên cứu xu hướng phát triển và thực tiễn áp dụng pháp
luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở một số nước và Việt Nam,
luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt
động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở Việt Nam.
8. Cơ của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đại diện trong quan hệ hợp đồng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng
thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp
đồng thương mại.


1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN
TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về quan hệđại diện.
1.1.1. Khái niệm đại diện
Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự nhưng trong những trường hợp nhất định có thể thông qua hành vi
của người khác là người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của
mình.[22, tr. 1]
Chế định đại diện đã được quy định ngay từ Bộ luật Dân sự đầu tiên của

nước ta – Bộ luật Dân sự 1995. Trong BLDS 1995 thì chế định đại diện được
quy định trong chương VI, phần thứ nhất của bộ luật bao gồm 10 điều từ Điều
148 đến Điều 157.[11, tr. 1]
Đến Bộ luật Dân sự 2005 thì chế định đại diện được quy định trong
chương VII, phần thứ nhất của bộ luật, vẫn bao gồm 10 điều từ Điều 139 đến
Điều 148. Trong đó Điều 140 (đại diện theo pháp luật) và Điều 141 (đại diện
theo ủy quyền) là vẫn giữ nguyên so với quy định tương ứng tại BLDS 1995.
Các điều còn lại đều đã được sửa đổi, bổ sung.[3, tr.1]
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) quy định về chế định đại diện tại
chương IX từ Điều 149 đến Điều 161. Dự thảo Bộ luật đã có một số sửa đổi, bổ
sung quy định về đại diện nhằm tạo điều kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ giúp
cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự của mình và hạn chế rủi
ro pháp lý trong các quan hệ dân sự.[6, tr. 1]
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định nghĩa: “Đại diện là việc một người
(sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây
gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện” (Điều 139, khoản 1).[3, tr.1]


2
Tại khoản 1 Điều 149 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) quy định: “Đại
diện là việc một cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là bên đại diện) nhân danh và
vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là bên được đại diện)
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.” [6, tr. 2]
Nếu phân tích theo đúng chữ nghĩa của định nghĩa này, thì hành động của
người đại diện vượt ra ngoài phạm vi đại diện, và việc gây thiệt hại cho người
khác do vi phạm của người đại diện trong khi thực hiện đại diện có thể không
nằm trong sự quan tâm của chế định đại diện? Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự khi nói
về đại diện đề cập tới cả hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện được quy định tại Điều 146

chương VII, Bộ luật Dân sự 2005 và sắp tới sau khi được thông qua sẽ là Điều
161chương IX Bộ luật Dân sự (sửa đổi).
Từ những khái niệm trên ta có thể rút ra khái niệm đại diện:
Việc một người hành động ở tư cách của một người khác, vì lợi ích hợp pháp và
trong sự cho phép của họ thì gọi là đại diện. Người cho phép là người được đại
diện,người được phép như vậy là người đại diện.
Như vậy có thể thấy, đại diện là một quan hệ pháp luật.Chủ thể của quan hệ
đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người
nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, theo ý chí của
người được đại diện và vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là
người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực
hiện đúng thẩm quyền đại diện. Người được đại diện có thể là cá nhân không có
năng lực hành vi, chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy định của pháp luật, phải
có người đại diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi có
thể ủy quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của mình.[22, tr.2]
Mọi cá nhân đều có quyền xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người khác.Tuy nhiên với những giao


3
dịch mà pháp luật quy định cá nhân phải tự mình xác lập, thực hiện thì không
được phép đại diện như không được ủy quyền cho người khác thực hiện các
công việc liên quan đến yếu tố nhân thân.
1.1.2 Đặc điểm của đại diện
Quan hệ đại diện cũng mang đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự nói
chung. Đó là: Thứ nhất có sự đa dạng về chủ thể tham gia gồm cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Thứ hai, các chủ thể tham gia luôn quan tâm đến
những lợi ích vật chất hoặc tinh thần nhất định. Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Thứ tư, trách
nhiệm pháp luật mà các chủ thể phải gánh chịu liên quan đến tài sản.

Đại diện có những đặc điểm riêng như sau:
-Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song là quan hệ
giữa người đại diện và người được đại diện (quan hệ bên trong), quan hệ giữa
người đại diện với người thứ ba (quan hệ bên ngoài).Trên thực tế vẫn tồn tại mối
quan hệ về lợi ích và trách nhiệm giữa người được đại diện với người thứ ba
(còn gọi là mối quan hệ gián tiếp).
- Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người
được đại diện chứ không phải nhân danh họ. Trước khi giao dịch dân sự được
lập ra, người đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lí của mình với người thứ ba
để người này hiểu hai vấn đề: thứ nhất ai sẽ là người trao đổi lợi ích hay chịu
trách nhiệm về hậu quả của giao dịch với họ; thứ hai là thẩm quyền của người
đại diện đến đâu, người được đại diện như đã nói ở trên có rất nhiều trường hợp
nên phải xác định rõ thẩm quyền, quan hệ của người đại diện với người được đại
diện có thể là cha mẹ với con chưa thành niên, người đại diện cho người bị mất
năng lực hành vi,.. Các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự là pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác đều hoạt động thông qua hành vi của những người nhất
định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó.


4
- Mục đích người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích
của người đại diện - quyền và lợi ích của trong quan hệ với người thứ ba được
chuyển cho người đại diện. Lợi ích của người đại diện thì được xét trong quan hệ
đại diện, tùy theo các trường hợp đại diện và theo thỏa thuận giữa bên đại diện
và bên được đại diện mà người đại diện có thể chỉ có nghĩa vụ hoặc có thể được
hưởng thù lao. Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, họ có thể được hưởng tiền
thù lao nếu có thỏa thuận, còn trong quan hệ đại diện theo pháp luật thì đó là
nghĩa vụ của người đại diện và không được hưởng các lợi ích vật chất cụ thể từ
quan hệ này.
- Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của họ

bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp
luật nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành các công việc cần thiết để
đạt được mục đích là vì lợi ích của người được đại diện.
- Quan hệ đại diện có thể được xác định theo quy định của pháp luật, có
thể được xác định theo ý chí của các chủ thể tham gia thông qua giấy ủy quyền
hoặc hợp đồng ủy quyền. Trong phạm vi thẩm quyền đại diện, người đại diện
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, đem lại quyền và nghĩa vụ cho người
được đại diện.
1.1.3 Ý nghĩa của đại diện
Về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam thừa nhận quyền tự do xác lập và thực
hiện giao dịch thông qua người khác (người đại diện). Đây là một trong những
điểm rất tích cực của Bộ luật Dân sự 2005 trong việc hướng tới mục tiêu tự do ý
chí, có nghĩa là một người có thể tự mình biểu lộ ý chí hoặc biểu lộ ý chí qua
người khác để mang tới sự ràng buộc cho chính bản thân mình. Điểm mới trong
Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi quy định căn cứ xác lập quyền đại diện tại Điều
150: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa bên được đại diện và bên
đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quy định của pháp luật
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là đại
diện theo pháp luật).”


5
Quan hệ đại diện là một công cụ đắc lực thúc đẩy các giao dịch trong điều
kiện sự phân công lao động xã hội càng lúc càng chặt chẽ và tinh vi. Đại diện là
một công cụ pháp lý hữu hiệu để các chủ thể thực hiện được tất cả các quyền và
nghĩa vụ dân sự của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất.Bởi không phải
lúc nào chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự cũng có thể tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Có thể do nguyên nhân khách quan
như chưa đủ độ tuổi luật định, hay bị mắc bệnh tâm thần làm mất năng lực hành
vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Khi đó hình thức đại diện theo

pháp luật sẽ là một giải pháp giúp họ vẫn được hưởng các quyền và lợi ích từ các
giao dịch thông qua người đại diện của họ.
Ngoài ra, một số người có đủ năng lực hành vi dân sự để tham gia vào các
giao dịch nhưng họ lại muốn người khác thay họ thực hiện vì lý do thời gian, sức
khỏe hay kinh nghiệm hiểu biết trong lĩnh vực giao dịch đó thông qua việc ký
kết hợp đồng ủy quyền. Còn đối với các chủ thể pháp lý (pháp nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác) mà quyền lợi mang tính cộng đồng thì việc tham gia giao dịch dân sự
bắt buộc phải thông qua hành vi của con người. Do đó chế định đại diện sẽ tạo
điều kiện và đem lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể khác ngoài cá nhân.
Trong cuộc sống hiện đại, đại diện được biết đến nhiều hơn như là một
dịch vụ được cung ứng bởi một người có năng lực (và kinh nghiệm) chuyên môn
cũng như có điều kiện vật chất cần thiết và được thực hiện theo yêu cầu của
người ủy quyền đồng thời là khách hàng.
Như vậy, chế định đại diện không chỉ thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự mà còn là công cụ pháp lý hữu
hiệu để Nhà nước kiểm soát quan hệ đại diện theo một trật tự chung.
1.2.Đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại.
1.2.1 Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại
Như ta đã biết, trong Luật thương mại Việt Nam không có khái niệm Hợp
đồng thương mại, nhưng có thể hiểu Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý


6
của hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một
trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân)
nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực
hiện hoạt động thương mại.[18, tr. 6]
Hợp đồng thương mại là hợp đồng phát sinh trong hoạt động thương mại,
đó là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh

lợi khác do thương nhân thực hiện và được điều chỉnh bởi luật thương mại.
Theo đó, đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại là việc một cá
nhân, pháp nhân thay mặt cho cá nhân, tổ chức khác và vì lợi ích hợp pháp của
cá nhân, pháp nhân đó tham gia vào quan hệ hợp đồng thương mại trong phạm vi
cá nhân, pháp nhân đó cho phép.
1.2.2 Đặc điểm đại diện trong quan hệ hợp đồng thương mại
1.2.2.1 Bên đại diện hành động với danh nghĩa bên được đại diện hoặc
với danh nghĩa của mình.
Bên đại diện sẽ thay mặt cho bên giao đại diện trong tất cả các quan hệ,
giao dịch trong phạm vi đại diện và những hệ quả về tài sản của công việc được
thực hiện thông qua quan hệ đại diện sẽ ràng buộc sản nghiệp của người được
đại diện. Trường hợp người đại diện thực hiện đại diện không có thẩm quyền
hoặc đại diện vượt quá thẩm quyền, tùy từng trường hợp khác nhau, người đại
diện sẽ trở thành một bên giao dịch.
1.2.2.2 Bên đại diện hành động vì lợi ích của bên được đại diện.
“Vì lợi ích” là nghĩa vụ, là quy định bắt buộc được thể hiện trong văn bản
luật, các bên không có quyền lựa chọn.
Hành vi đại diện cũng có thể mang tính tự nguyện, hành vi bắt nguồn từ
sự mong muốn đem lại lợi ích cho bên được đại diện.
1.2.2.3 Người đại diện hành động trong phạm vi đại diện


7
Phạm vi đại diện có thể hiểu là tất cả những gì mà một người có thể hành
động với tư cách của một người khác trong sự cho phép của người đó (sự giới
hạn xử sự của một người mà người đó không phải là chính mình trong sự cho
phép của người khác).
Người đại diện về nguyên tắc phải hành động trong phạm vi được đại diện.
Trường hợp người đại diện thực hiện hành vi vượt quá phạm vi đại diện thì người
được đại diện sẽ không phải chịu trách nhiệm cho những gì mà người đại diện

thực hiện vượt quá phạm vi đại diện trừ khi người được đại diện đồng ý sự vượt
quá này hoặc có những biểu hiện chứng tỏ tiếp nhận sự ràng buộc do hành vi vượt
quá thẩm quyền của người đại diện. Như vậy, có thể khái quát đặc điểm của đại
diện là người đại diện hành động trên danh nghĩa của người được đại diện, vì lợi
ích của người được đại diện và hành động đó nằm trong phạm vi đại diện.
1.2.3 Phân loại đại diện
Quan hệ đại diện có thể được thiết lập trong nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội và bao gồm ba loại: Đại diện theo pháp luật của cá nhân; Đại
diện theo pháp luật của pháp nhân và Đại diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp
luật của cá nhân quy định tại Điều 151 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Đại
diện theo pháp luật của pháp nhân là đại diện được pháp nhân quyết định theo
điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định
tại Điều 152Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Đại diện theo ủy quyền là việc cá
nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhâncó thể ủy quyền cho cá nhân,
pháp nhân khác được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (Điều 153 Dự thảo Bộ
luật dân sự (sửa đổi)).[6, tr. 7]
Tương ứng với ba loại đại diện này là ba qui chế pháp lý khác nhau.Thứ
nhất, đại diện theo pháp luật của cá nhân được xác định bởi pháp luật hoặc bởi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: cha, mẹ đối với con chưa thành
niên; người giám hộ đối với người được giám hộ;Người do Tòa án chỉ định đối


8
với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Thứ hai, đại diện theo pháp luật
của pháp nhân được pháp nhân quyết định theo điều lệ hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ ba, đại diện theo ủy quyền được xác lập
bởi sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện, Điều 144, Bộ luật
Dân sự 2005 đưa ra hai cách thức xác định khác nhau: đối với đại diện theo pháp
luật, phạm vi được xác định khá mềm mỏng trên căn bản lợi ích của người được
đại diện, trừ khi pháp luật có quy định khác (chẳng hạn trong phạm vi điều lệ của

công ty); còn đối với đại diện theo ủy quyền, phạm vi được xác định trên căn bản
ý chí của chủ ủy. Ở đây, vấn đề trước tiên được bàn là mối quan hệ bên trong của
đại diện và người được đại diện, tuy nhiên nhấn mạnh tới đại diện theo ủy quyền.
1.2.3.1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là đại diện được xác lập theo pháp
luật, có tính bắt buộc, trong lĩnh vực thương mại là trường hợp người đứng đầu
pháp nhân theo quy định tại Điều lệ của pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (khoản 4 Điều 141 BLDS), nay quy định tại khoản 2
Điều 152 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) . Về đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, trong lĩnh vực thương mại, người đại diện theo pháp luật được quy định
trong Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của doanh nghiệp.
Theo Điều 140 BLDS 2005 quy định “Đại diện theo pháp luật là đại diện
do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước quyết định”.
Theo Điều 152 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) quy định Đại diện theo
pháp luật của pháp nhân:
“1. Người đại diện theo pháp luật được pháp nhân quyết định theo điều lệ
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh pháp nhân xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự phù hợp với quyền, nghĩa vụ của người đại diện
theo pháp luật. Pháp nhân có nhiều đại diện theo pháp luật thì mỗi người có
quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình;


9
trường hợp điều lệ hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền không xác
định rõ thẩm quyền của mỗi đại diện theo pháp luật thì giao dịch dân sự đó
được coi là thực hiện đúng thẩm quyền.
3. Người đại diện theo pháp luật có thể xác lập, thực hiện một giao
dịch dân sự với bên mà mình cũng là người đại diện nếu không có xung đột về
lợi ích. Trường hợp có xung đột về lợi ích thì giải quyết theo quy định tại

Điều 146 của Bộ luật này.
4. Người đại diện theo pháp luật thực hiện trung thực quyền, nghĩa vụ của
mình, vì lợi ích của pháp nhân, báo cáo và chịu sự giám sát trước cơ quan có
thẩm quyền của pháp nhân.”
Căn cứ hình thành:
- Do ý chí của nhà nước. Pháp luật quy định mối quan hệ đại diện được
xác lập dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ thuộc vào ý chí
hay sự định đoạt của các chủ thể.
-Do quan hệ đặc biệt giữa người được đại diện và người đại diện mà phát
sinh quan hệ đại diện đương nhiên;
-Quan hệ đại diện phát sinh trên cơ sở một quan hệ pháp lý khác;
-Việc đại diện do cơ quan nhà nước quyết định khi sự đại diện là cần thiết
đối với người bị hạn chế, bị mất năng lực hành vi dân sự.
1.2.3.2. Đại diện theo ủy quyền
Điều 142 Bộ luật Dân sự 2005 thể hiện quan niệm đại diện theo ủy quyền
gắn liền với nguồn gốc phát sinh, và phải rõ ràng, minh thị. Việc ủy quyền ngầm
định dường như bị loại bỏ, nên Bộ luật này qui định:
“1.Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa
người đại diện và người được đại diện.


10
2. Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật
qui định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”.
Theo Điều 153 Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) quy định Đại diện
theo ủy quyền:
“1. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ
quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân có thể cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền trong xác lập,

thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
3. Pháp nhân là người đại diện theo ủy quyền nếu được cá nhân hoặc
pháp nhân khác ủy quyền.”
Căn cứ xác lập:
Dựa trên ý chí của hai bên chủ thể, người đại diện và người được đại diện
tự thỏa thuận với nhau về nội dung ủy quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện và
trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền.
Có nhiều lý do khác nhau để cá nhân, người đứng đầu pháp nhân, chủ hộ
gia đình… không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Pháp luật cho
phép họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao dịch.
1.2.3.2.1. Đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực dân sự
Khoản 1 Điều 142 BLDS 2005 quy định: “Đại diện theo ủy quyền là đại
diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”.
-Người được đại diện: Người được đại diện có thể là một cá nhân,
pháp nhân có công việc cần ủy quyền thực hiện và có năng lực xác lập
quan hệ đại diện đó.
-Người đại diện: Theo quy định của BLDS, người đại diện theo ủy quyền
phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.


11
Hình thức xác lập quan hệ đại diện theo ủy quyền do các bên tự thỏa
thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn
bản (Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền).
1.2.3.2.2. Đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực thương mại
Trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, có một hình thức đại diện đặc thù
đại diện cho thương nhân (Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân
nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại
diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa và theo sự chỉ dẫn

của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện).
* Một số điểm đặc thù của đại diện cho thương nhân:
-Hai bên (bên đại diện và bên được đại diện) đều phải là thương nhân.
-Bên đại diện thường phải là một thương nhân độc lập, không có sự phụ
thuộc về tư cách pháp lý vào bên giao đại diện và nắm rõ về lĩnh vực mà họ sẽ
được ủy quyền đại diện.
-Bên được ủy quyền thực hiện các công việc nhất định cho bên ủy quyền
và được hưởng thù lao khi thực hiện dịch vụ
-Hoạt động đại diện cho thương nhân có mục đích sinh lời.
-Việc ủy quyền đại diện cho thương nhân luôn phải được lập thành văn bản.
* Những điểm cần lưu ý về đại diện theo ủy quyền:
a. Chủ thể được phép tham gia với tư cách là người nhận ủy quyền chỉ có
thể là cá nhân, con người cụ thể.
Đây là điểm đặc biệt vì trong đời sống pháp luật có rất nhiều chủ thể khác
nhau. Đó có thể là một cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình hoặc pháp nhân, tổ chức,
nhưng người đại diện cho tất cả những chủ thể này phải là một con người có đầy
đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật. (Xem khoản 5, điều 139 và được khẳng
định lại ở điều 143 BLDS).
b) Người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người khác khi thực hiện
việc đại diện


12
Mặc dù người đại diện có thể có những quyền năng rất lớn (theo thỏa
thuận hoặc pháp luật cho phép) nhưng tất cả mọi công việc, hoạt động, hành vi
của người đại diện luôn phải được thực hiện vì lợi ích của người được đại diện.
Người đại diện hoạt động không nhân danh chính bản thân mình và không được
vì lợi ích của mình.Bản chất của đại diện đã là vì người khác, vì vậy người đại
diện phải nỗ lực hết mình để thực hiện các công việc được đại diện sao cho có
lợi nhất (trong điều kiện có thể), vì lợi ích của người mà mình đã đại diện.Người

đại diện cho pháp nhân cũng không ngoại lệ, họ phải luôn vì lợi ích của pháp
nhân, tổ chức của mình và không thể vì lợi ích cá nhân.Chính vì vậy mà người
đại diện không được phép xác lập, thực hiện các giao dịch với chính mình hoặc
với người khác mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ một số trường
hợp đặc thù (xem khoản 5, điều 144, BLDS 2005).
c) Đối tượng của giao dịch ủy quyền chỉ đơn thuần là công việc có thể
thực hiện và được phép thực hiện.
Khác với các giao dịch khác, đối tượng của Hợp đồng ủy quyền chỉ đơn
thuần là các công việc, hay nói cách khác là các hành vi cụ thể (Điều 581
BLDS). Có thể các công việc này có liên quan tới một tài sản nào đó, nhưng
điều đó không có nghĩa tài sản này là đối tượng của giao dịch. Một chủ sở hữu
tác động tới tài sản, thực hiện các quyền của mình thông qua những hành vi.
Trường hợp họ không có khả năng trực tiếp thực hiện thì bằng ý chí, hành vi của
mình, họ có quyền thỏa thuận với chủ thể khác có đủ điều kiện về năng lực pháp
luật và năng lực hành vi để đại diện cho chủ sở hữu thực hiện các quyền của chủ
sở hữu đối với tài sản thông qua những công việc cụ thể được thỏa thuận giữa
chủ tài sản và người đại diện cho chủ tài sản. Thỏa thuận ủy quyền có người
khác đại diện cho chủ sở hữu không làm mất đi tư cách của chủ sở hữu đối với
tài sản. Các nội dung được ủy quyền chỉ là những công việc, hành vi cụ thể.
d) Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự
do người đại diện xác lập.


13
Trên thực tế, người đại diện thực hiện các công việc vì lợi ích của người
được đại diện chứ không vì lợi ích của mình.Mặt khác, người được đại diện mới
là người có quyền. Chính vì vậy, mọi vấn đề phát sinh từ quan hệ đại diện, dù là
đại diện theo ủy quyền luôn tạo ra quyền và nghĩa vụ cho chính người được đại
diện (Điều 139, 586, 587 BLDS 2005). Người đại diện theo ủy quyền có quyền
và nghĩa vụ với người được đại diện theo thỏa thuận tại hợp đồng ủy quyền và

quy định của pháp luật. Đối với trường hợp đại diện theo pháp luật, quyền và
nghĩa vụ của người đại diện với người thứ ba trong giao dịch chỉ đơn thuần là
các quyền, nghĩa vụ mà luật quy định.
e) Phạm vi đại diện theo ủy quyền.
Trường hợp các bên lập hợp đồng ủy quyền để chỉ định người đại diện, thì
người đại diện chỉ được phép thực hiện chính xác các công việc được ghi trong
hợp đồng ủy quyền.Người đại diện không thể thực hiện các công việc không
được ghi nhận. Đây là phạm vi mà người đại diện được phép thực hiện và không
thể bước ra ngoài phạm vi này. Điểm đặc biệt là các công việc được ủy quyền
được ghi như thế nào thì chỉ được phép làm chính xác như vậy. Không thể suy
luận hay biện hộ rằng các công việc này có liên quan đến những công việc được
ủy quyền thì được phép thực hiện. Điều này cũng tương tự như trường hợp ủy
quyền của pháp nhân. Mỗi pháp nhân sẽ chỉ có duy nhất một người đại diện theo
pháp luật, nhưng trong thực tế đời sống của các pháp nhân (đặc biệt là các pháp
nhân có quy mô lớn, tổ chức phức tạp), thông thường tại cùng một thời điểm,
pháp nhân đó vẫn có thể thực hiện cùng lúc nhiều giao dịch với nhiều chủ thể.
VD: Một ngân hàng sẽ chỉ có duy nhất một người đại diện theo pháp luật.
Giám đốc các chi nhánh là người đại diện theo pháp luật cho chi nhánh. Chi
nhánh là người hoạt động theo ủy quyền của pháp nhân. Giám đốc chi nhánh
thực hiện nhiệm vụ và có thẩm quyền dựa vào ủy quyền của người đại diện cho
pháp nhân là ngân hàng đó. Nếu giám đốc chi nhánh chỉ được ủy quyền ký kết
hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng mà không được ủy quyền khởi kiện khách


×