Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 107 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐỖ HOÀNG YẾN




PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN
TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Hà Nội - 2012

0



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐỖ HOÀNG YẾN




PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN
TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG


Chuyờn ngành : Luật Kinh tế
Mó số : 603850


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cương

Hà nội – 2012

1

MỤC LỤC





Mục lục
2

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
4

MỞ ĐẦU
5

Chƣơng 1: KHÁI LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN
11
1.1
Khái niệm
11
1.1.1
Khái niệm đại diện
11
1.1.2
Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng
16
1.2
Phân loại
18
1.2.1
Đại diện theo pháp luật
19
1.2.2

Đại diện theo ủy quyền
20
1.3
Đặc điểm
26
1.3.1
Bên đại diện hành động với danh nghĩa bên đƣợc đại diện
hoặc với danh nghĩa của mình
26
1.3.2
Bên đại diện hành động vì lợi ích của bên đƣợc đại diện
28
1.3.3
Ngƣời đại diện hành động trong phạm vi đại diện
29
1.4
Vai trò và ý nghĩa của chế định đại diện
30

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG
34
2.1
Nguồn luật điều chỉnh đại diện trong quan hệ hợp đồng
34
2.2
Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện
trong quan hệ hợp đồng
36
2.2.1

Chủ thể đại diện trong quan hệ hợp đồng
36
2.2.2
Phạm vi đại diện trong quan hệ hợp đồng
54
2.2.3
Thời điểm xác lập, chấm dứt đại diện trong quan hệ hợp đồng
67
2.3
Những tranh chấp thực tế liên quan đến đại diện trong quan
73
2

hệ hợp đồng
2.3.1
Tranh chấp về chủ thể trong đại điện trong quan hệ hợp đồng
73
2.3.2
Tranh chấp về xác định thời hạn ủy quyền
82
2.3.3
Tranh chấp về phạm vi đại diện
83
2.3.4
Tranh chấp về hình thức pháp lý của quan hệ đại diện
85

Chƣơng 3: CƠ SỞ VÀ ĐỊNH HƢỚNG GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ
HỢP ĐỒNG

88
3.1
Cơ sở hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng
88
3.2
Định hƣớng giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện
trong quan hệ hợp đồng
90
3.2.1
Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ
hợp đồng
90
3.2.2
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan
hệ hợp đồng
91

KẾT LUẬN
102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103

3

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật dân sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
CTCP : Công ty cổ phần

CTHD : Công ty hợp danh
CTTNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân
HTX : Hợp tác xã
LCK : Luật chứng khoán
LDN : Luật doanh nghiệp
TGĐ : Tổng giám đốc
THT : Tổ hợp tác
TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
UBND : Ủy ban nhân dân

4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Trong cuộc sống, nhu cầu của con ngƣời về các lĩnh vực khác nhau
không ngừng tăng lên, theo đó sự chuyên môn hoá sản xuất, phân phối các
sản phẩm cũng hình thành và phát triển. Khi đó, để tự đáp ứng nhu cầu của
mình, giữa các chủ thể đã diễn ra sự trao đổi hàng hoá, các sản phẩm dịch vụ
dựa trên nền tảng là thiết lập nên các loại hợp đồng khác nhau. Nhƣ vậy, Hợp
đồng chính là nền tảng cho mọi giao dịch trong xã hội.
Tuy nhiên, do đặc tính xã hội nên mỗi chủ thể khi tồn tại trong xã hội
sẽ phải cùng lúc tham gia rất nhiều giao dịch khác nhau. Tự bản thân họ
không thể trực tiếp tham gia, thiết lập và thực hiện tất cả các hợp đồng. Chính
khi đó đã thúc đẩy một loại hoạt động đặc thù - hoạt động đại diện ra đời, mà
cụ thể hơn chính là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Bằng hoạt động đại diện
này, các chủ thể có thể dễ dàng hơn trong việc giải quyết và đảm bảo thực
hiện tổng hoà các giao dịch liên quan đến cuộc sống của họ.
- Chế định đại diện là một chế định rất rộng, bao gồm nhiều loại hình
đại diện khác nhau và đƣợc quy định trong rất nhiều các văn bản pháp luật.

Nhƣng nhƣ đã trình bày ở trên, hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng là
loại đại diện diễn ra phổ biến hơn và có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc
sống hiện đại so các hoạt động đại diện khác. Và đồng thời, loại đại diện này
cũng mối quan hệ chặt chẽ với các chế định khác nhƣ: Chế định hợp đồng,
chế định bồi thƣờng thiệt hại, các vấn đề liên quan đến công ty,.….
- Các quy định pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng
còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu xót. Đặc biệt khi Việt Nam đang trên đà hội
nhập nhƣ hiện nay, nhiều quy định pháp luật liên quan còn chƣa thể hiện đƣợc
xu hƣớng chung của thế giới, chƣa phù hợp với một số quan điểm pháp lý phổ
5

biến, đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới ghi nhận và thực hiện. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong
quan hệ hợp đồng, từ đó rút ra những hạn chế, bất cập và đƣa ra một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết.
- Các tranh chấp liên quan đến đại diện trong quan hệ hợp đồng rất phổ
biển. Cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp thời để giải quyết và hạn
chế phần nào các tranh chấp liên quan.
Trên cơ sở những lý do trên, với đề tài “Pháp luật Việt Nam về đại diện
trong quan hệ hợp đồng” tác giả mong muốn luận văn sẽ nghiên cứu một cách
toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong
quan hệ hợp đồng, xem xét cụ thể các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề
này, từ đó đƣa ra cái nhìn toàn diện về những hạn chế, thiếu xót của hệ thống
pháp luật và đề xuất một một số giải pháp mang tính hoàn thiện để phần nào
giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan hệ hợp đồng luôn là một đề tài đƣợc nhiều nhà khoa học thuộc
các lĩnh vực khác nhau quan tâm. Hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng
là một phần quan trọng của chế định hợp đồng, theo đó cũng nằm trong
những vấn đề cần nghiên cứu của các công trình, bài viết liên quan đến đề tài

hợp đồng. Ví dụ: một số sách, bài viết chuyên ngành nghiên cứu về chế định
hợp đồng nhƣ: “Pháp luật về hợp đồng” của TS Nguyễn Mạnh Bách (1995),
“Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Dƣơng Đăng
Huệ (2002), “Chế định hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại” của
GS.TS Lê Hồng Hạnh (2003), “Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp
luật Việt Nam về hợp đồng” (2004), “Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và vấn
đề cải cách pháp luật hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Hữu Nghị
6

(2005), “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu,…. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về chế định đại
diện thì chƣa có, chỉ có rất ít bài viết chuyên ngành về vấn đề này nhƣ: “Một
số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế” của Th.S Lê Thị
Bích Thọ, “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ
góc độ luật so sánh” của TS Ngô Huy Cƣơng,… Và mới đây nhất là Luận án
tiến sĩ “Đại diện cho thƣơng nhân theo pháp luật thƣơng mại Việt Nam hiện
nay” của Hồ Ngọc Hiển (tháng 5/2012) và một số khóa luận tốt nghiệp của
các cử nhân luật của trƣờng Đại học Luật và Khoa Luật - ĐHQGHN.
Có thể thấy, tuy vấn đề đại diện trong quan hệ hợp đồng không phải là
vấn đề mới, nhƣng các công trình khoa học liên quan chỉ dừng lại ở nghiên
cứu khái quát, nghiên cứu vấn đề này trong cái tổng thể, lớn hơn là quan hệ
hợp đồng, chế định đại diện chung hay trong phạm vi hẹp hơn về chế định đại
diện cho thƣơng nhân trong Luật thƣơng mại. Nhƣ vậy, trên thực tế chƣa có
một công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện, mang tính hệ
thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong quan hệ hợp đồng
nhằm đƣa ra cơ sở khoa học, phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
liên quan đến vấn đề này. Tuy vậy, các công trình nói trên là những tài liệu
quý giá cho tác giả tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu của mình.
Luận văn này sẽ nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong quan hệ hợp đồng,

và từ đó đƣa ra những phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
lĩnh vực này.
3. Mục đích - nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong
quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất định hƣớng các giải pháp
7

hoàn thiện pháp luật về đại diện nói chung và về đại diện trong quan hệ hợp
đồng nói riêng, góp phần làm cho những quy định pháp luật về đại diện trong
quan hệ hợp đồng có tính thực tiễn cao hơn, giải quyết và hạn chế tốt hơn các
tranh chấp liên quan và góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Nhiệm vụ:
* Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định đại diện
* Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về đại diện
trong quan hệ hợp đồng. Từ đó đƣa ra những đánh giá về ƣu, nhƣợc điểm của
những quy định pháp luật cụ thể này.
* Đề xuất các quan điểm, phƣơng hƣớng và những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những vấn đề lý luận khái
quát về chế định đại diện; những quy định pháp luật cụ thể về đại diện trong
quan hệ hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại; và tình hình thực tiễn hoạt động
áp dụng pháp luật về lĩnh vực này.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu các khía
cạnh của đại diện trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu về đại diện cho các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh,
thƣơng mại. Trên cơ sở những nghiên cứu này sẽ đƣa ra những nhận định sâu
sắc, từ đó góp phần vào việc phát triển quan hệ hợp đồng (có hoạt động đại
diện) trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.

Chế định đại diện là một chế định rất rộng, bao gồm nhiều loại đại diện
khác nhau nhƣ: Đại diện trong hợp đồng (có thể là hợp đồng dân sự, hợp đồng
8

trong kinh doanh thƣơng mại, ), đại diện tham gia tố tụng, đại diện theo pháp
luật của ngƣời chƣa thành niên, đại diện thƣơng nhân… và đƣợc quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣ: BLDS 2005, Luật thƣơng mại
2005, Luật doanh nghiệp 2005…. Vì vậy việc giới hạn phạm vi nghiên cứu
nhằm hạn chế việc mở rộng đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, tránh sự dàn
trải, không tập trung. Luận văn giới hạn nghiên cứu chỉ ở hoạt động đại diện
trong quan hệ hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại và những quy định pháp luật
Việt Nam về vấn đề này, vì theo tác giả, đại diện trong quan hệ hợp đồng là
loại hoạt động đƣợc áp dụng rất nhiều trong thực tế và theo đó thực trạng của
nó rất đa dạng, cũng nhƣ rất nhiều tranh chấp phát sinh từ hoạt động này
(nhiều hơn các loại hoạt động đại diện khác). Chính vì vậy, việc nghiên cứu
một cách tổng thể về lý luận cũng nhƣ thực tiễn của hoạt động đại diện trong
quan hệ hợp đồng trong kinh doanh, thƣơng mại và các quy định pháp luật về
lĩnh vực này từ đó đƣa ra những nhận định mang tính lý luận và những biện
pháp mang tính thực tiễn là một việc làm rất cần thiết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Tác giả sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và các quan điểm, đƣờng lối của Đảng cộng sản Việt Nam về
phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nhƣ:
Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh
luật học, phƣơng pháp logic và lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về chế
định đại diện và cụ thể là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Từ đó luận giải về
một số những vấn đề cơ bản và đƣa ra cách nhìn mới về những vấn đề này.

9

- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật Việt Nam điều
chỉnh về đại diện trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở chỉ ra những điểm bất
cập, hạn chế, luận văn khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về vấn đề này, tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho quan
hệ hợp đồng (có hoạt động đại diện) cũng nhƣ hạn chế phần nào những tranh
chấp liên quan có thể xảy ra.
- Trên cơ sở nghiên cứu xu hƣớng phát triển và thực tiễn áp dụng pháp
luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở một số nƣớc và Việt
Nam, luận văn đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở Việt Nam.
Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Khái luận về chế định đại diện
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về Đại diện trong quan hệ
hợp đồng
Chương 3: Cơ sở và định hƣớng giải pháp hoàn thiện pháp luật về Đại
diện trong quan hệ hợp đồng
Trƣớc khi đi vào nội dung chính của Luận văn, tác giả thống nhất về
mặt sử dụng thuật ngữ ngắn gọn để thuận tiện cho quá trình phân tích và luận
giải. Thuật ngữ “hợp đồng” dùng thay cho “hợp đồng trong kinh doanh,
thƣơng mại”; thuật ngữ “đại diện trong quan hệ hợp đồng” dùng thay cho “đại
diện trong quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại”; thuật
ngữ “Bộ luật dân sự” thay cho “Bộ luật dân sự 2005”; thuật ngữ “Luật thƣơng
mại” thay cho “Luật thƣơng mại 2005”.
10

Chƣơng 1

KHÁI LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN
Cùng với sự tiến bộ, phát triển không ngừng của loài ngƣời, con ngƣời
ngày càng mở rộng hơn nữa về các loại hình quan hệ xã hội. Và các quan hệ về
kinh tế thƣơng mại cũng không phải là ngoại lệ. Theo guồng quay phát triển
kinh tế, một cá nhân chủ thể hay một tổ chức để có thể duy trì sự tồn tại của
mình và thúc đẩy hơn nữa các tiềm năng bản thân, họ phải tham gia cùng lúc
nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Có những quan hệ xã hội đòi hỏi phải do
chính chủ thể trong quan hệ xác lập. Những cũng có những quan hệ có thể hình
thành mà không cần thiết chính các chủ thể phải tự mình tham gia. Đây chính
là một nét thể hiện sự nhạy bén của xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng.
Với những quan hệ xã hội phải do chính các chủ thể tự mình xác lập, tác
giả sẽ không đƣa ra bàn luận trong cuốn Luận văn này. Nội dung mà tác giả
muốn hƣớng đến đó là những quan hệ xã hội mang tính linh hoạt cao, thể hiện
sự kết hợp một cách hiệu quả giữa các chủ thể thông qua một hình thức pháp
lý, một công cụ pháp lý hữu hiệu là quan hệ đại diện. Có phải quan hệ đại diện
diễn ra một cách phổ biến, tùy hứng và đƣợc các bên chủ thể lựa chọn ngẫu
nhiên không? Câu trả lời sẽ dần đƣợc giải đáp trong các phần nội dung khác
nhau mà tác giả sẽ trình bày dƣới đây trong nội dung cuốn Luận văn này.
Trƣớc hết, để có thể hiểu sâu sắc về quan hệ đại diện, các nội dung của
đại diện hay đơn giản chỉ là để hiểu đại diện là gì, Luận văn sẽ trình bày về
nội dung đầu tiên đó là Khái luận về Đại diện.
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm đại diện
Trong đời sống xã hội nói chung và đời sống dân sự nói riêng, trong phần
lớn quan hệ pháp luật các chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch.
11

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là nguyên nhân khách quan
hoặc chủ quan, các cá nhân, tổ chức không thể tự mình tham gia vào các giao dịch
nhất định. Đó là khi cá nhân gặp các vấn đề về sức khỏe, hay vì một số lý do do

đặc thù công việc của cá nhân, cũng có thể xuất phát từ yêu cầu công việc cần
thực hiện đòi hỏi trình chuyên môn chuyên biệt,…. Hay xuất phát từ nguyên nhân
chủ thể không thể đảm bảo điều kiện để tham gia các giao dịch theo quy định của
pháp luật nhƣ: Ngƣời chƣa thành niên, ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự,…. Lúc này, họ cần đến sự hỗ trợ về mặt chủ thể để thay mặt họ tham gia vào
các quan hệ pháp luật. Hay chính là họ sử dụng những “ngƣời giúp đỡ” thực hiện
hành vi với bên thứ ba “vì họ”, “theo tài khoản của họ” nhƣ những “ngƣời đƣợc
ủy quyền” hoặc “trong lợi ích của họ” [32]. Và pháp luật đã tạo ra một công cụ
pháp lý hữu hiệu để giải quyết vấn đề này, đó là chế định đại diện.
Đại diện là một chế định lớn, xuyên suốt đƣợc quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật thực định, và đƣợc quy định cụ thể nhất trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam 2005. Mở rộng tầm nhìn ra hệ thống văn bản pháp luật
của các nƣớc khác trên thế giới, chúng ta sẽ thấy những cách nhìn nhận, quy
định có phần khác biệt của các Bộ luật dân sự lớn về khái niệm đại diện.
Mặc dù trong những BLDS này không đƣa ra khái niệm đại diện một
cách trực tiếp. Nhƣng qua cách quy định gián tiếp ta cũng có thể hiểu đƣợc
đại diện là gì. Trong BLDS Pháp quy định về một số nội dung của hợp đồng
ủy quyền, tại điều 389-3 có đƣa ra “ngƣời quản lý theo pháp luật đối với tài
sản của ngƣời chƣa thành niên đại diện cho ngƣời chƣa thành niên trong mọi
giao dịch dân sự”, hay tại điều 1984 “hợp đồng ủy quyền là hợp đồng trong
đó một ngƣời trao cho ngƣời khác quyền thực hiện một công việc nhân danh
và vì lợi ích của ngƣời ủy quyền [2]. Qua những quy định này có thể thấy
theo tinh thần của BLDS Pháp thì đại diện chính là việc một ngƣời thay ngƣời
khác thực hiện công việc của ngƣời đó, vì lợi ích và nhân danh ngƣời đó.
12

Cùng chung với quan điểm này, trong BLDS Thái Lan 1995 cũng đƣa
ra quy định: “Hợp đồng uỷ quyền là một hợp đồng mà trong đó một ngƣời gọi
là ngƣời thụ uỷ đƣợc quyền hành động cho một ngƣời khác gọi là ngƣời chủ
uỷ và ngƣời đó chấp thuận làm nhƣ vậy” [3].

Tuy không đƣa ra một khái niệm cụ thể về hoạt động đại diện nhƣng các
quy định kể trên đã thể hiện đƣợc tinh thần, nội dung cốt lõi của khái niệm đại
diện. Không phải là ngoại lệ, cùng với tinh thần đó BLDS Việt Nam 2005 đã
đƣa ra khái niệm cụ thể về đại diện: “Đại diện là việc một ngƣời (sau đây là
ngƣời đại diện) nhân danh và vì lợi ích của ngƣời khác (sau đây là ngƣời đƣợc
đại diện) xác lập và thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”.
Từ khái niệm đại diện đƣợc quy định trong BLDS Việt Nam 2005 và
những quan điểm về đại diện đƣợc thể hiện trong các BLDS lớn, ta có thể rút
ra khái niệm đại diện: Đại diện là việc một người (người đại diện) thay mặt
người khác (người được đại diện) thực hiện một số hành vi nhất định vì lợi
ích hợp pháp và trong sự cho phép của người đó.
Từ những phân tích khái niệm đại diện trên có thể nhận định Đại diện
là một quan hệ pháp lý đƣợc cấu thành từ nhiều quan hệ pháp lý khác nhau.
Cụ thể:
1. Quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện: Đây là quan hệ
“nội bộ”, không có hiệu lực pháp lý đối với bên ngoài.
2. Quan hệ pháp lý giữa người đại diện và người thứ ba trong quan hệ
giao dịch cũng là quan hệ “nội bộ” mang tính phụ thuộc, phái sinh từ quan
hệ thứ nhất.
3. Quan hệ giữa người được đại diện và người thứ ba là quan hệ chủ yếu,
phát sinh từ giao dịch do người đại diện xác lập. [13, tr. 292]
13

Qua ba quan hệ pháp lý cấu thành kể trên, có thể thấy rõ nội dung của
một quan hệ đại diện.
- Quan hệ thứ nhất đề cập đến khía cạnh tƣơng tác về quyền và nghĩa vụ
giữa ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện. Việc ngƣời đƣợc đại diện giao cho
ngƣời đại diện những “công việc” gì, phạm vi công việc đến đâu hay ngƣời đại
diện đƣợc hƣởng những quyền lợi gì từ việc thực hiện đại diện là yếu tố “nội
bộ”, là nội dung chỉ tác động đến ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện, hoàn

toàn không ảnh hƣởng đến bên ngoài, đến các chủ thể khác. Bên thứ ba khi giao
kết hợp đồng với ngƣời đƣợc đại diện thông qua ngƣời đại điện không cần biết
và cũng không có nghĩa vụ phải biết giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện
thỏa thuận những nội dung gì. Điều duy nhất bên thứ ba cần quan tâm đó là
ngƣời đại diện có “quyền hạn” nhƣ thế nào trong giao dịch với mình.
- Quan hệ thứ hai là một quan hệ phái sinh từ quan hệ thứ nhất. Nếu
nhƣ trong quan hệ thứ nhất, ngƣời đƣợc đại diện giao cho ngƣời đại diện
những “công việc” cụ thể và phạm vi của những công việc đó, thì quan hệ thứ
hai chính là sự cụ thể hóa những nội dung đó của quan hệ thứ nhất. Mọi hoạt
động nằm trong quan hệ pháp lý thứ hai sẽ diễn ra theo giới hạn và nội dung
cụ thể đƣợc thỏa thuận trong quan hệ pháp lý thứ nhất. Tuy nhiên, thực tế
luôn luôn đa dạng. Và việc quan hệ pháp lý thứ hai diễn ra vƣợt quá phạm vi
mà quan hệ pháp lý thứ nhất vạch ra là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Lúc này,
sự tƣơng tác giữa quan hệ pháp lý thứ nhất và quan hệ pháp lý thứ hai sẽ dẫn
đến sự xuất hiện của quan hệ pháp lý mấu chốt nhất - quan hệ pháp lý thứ ba.
- Quan hệ pháp lý thứ ba - Quan hệ giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời
thứ ba là quan hệ mấu chốt, cần đƣợc quan tâm nhất. Có thể nhận định nhƣ
vậy bởi lẽ bản chất của hoạt động đại diện là việc một ngƣời “thực hiện thay”
ngƣời khác một công việc nhất định đối với ngƣời thứ ba. Và hậu quả cần
14

quan tâm nhất phát sinh từ hoạt động đại diện chính là ngƣời đƣợc đại diện và
ngƣời thứ ba sẽ có trách nhiệm với nhau nhƣ thế nào từ hoạt động đại diện
của ngƣời đại diện. Chứ không phải là ngƣời đại diện sẽ có nghĩa vụ gì với
bên thứ ba vì ngƣời đại diện chỉ là “làm thay” mà thôi. Hay có thể nói theo
một cách khác, chính việc một ngƣời xác lập một giao dịch dân sự trong phạm
vi thẩm quyền cho phép lại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền,
nghĩa vụ dân sự của ngƣời khác (ngƣời đƣợc đại diện) là điểm đặc biệt, là cơ
sở phân biệt chế định đại diện với các chế định pháp lý tƣơng tự khác.
Có thể thấy rõ sự khác biệt này của chế định đại diện qua những so

sánh cụ thể sau:
- Khác với ngƣời đại diện, ngƣời nhận bán hàng ký gửi, đại lý dù xác
lập giao dịch cho ngƣời ký gửi, ngƣời đại lý nhƣng nhân danh mình, không
phải nhân danh ngƣời ký gửi, ngƣời đại lý. Vì vậy, giữa ngƣời ký gửi, ngƣời
đại lý và ngƣời mua không có quan hệ pháp lý. Mọi quyền và nghĩa vụ dân sự
phát sinh trong loại hợp đồng này đều chỉ phát sinh đối với ngƣời nhận ký
gửi, ngƣời nhận đại lý và ngƣời mua.
- Đối với giao dịch vì lợi ích của ngƣời thứ ba thì các bên cũng nhân
danh mình xác lập, không phải nhân danh ngƣời thứ ba. Hơn nữa, trong một
số trƣờng hợp, ngƣời xác lập giao dịch vì lợi ích của ngƣời thứ ba cũng có các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó.
- Khác với đại diện, ngƣời đƣa tin không xác lập giao dịch mà chỉ
truyền đạt ý chí của một bên đến đối tác.
- Nếu không có hợp đồng ủy quyền thì bản thân việc tƣ vấn ký kết hợp
đồng không phải là đại diện. Ngƣời thực hiện dịch vụ tƣ vấn chỉ hỗ trợ về mặt
pháp lý để hợp đồng do các bên ký kết đúng pháp luật, thể hiện đúng ý chí
đích thực của các bên. [13, tr. 293]
15

Qua khái niệm và những phân tích kể trên về quan hệ đại diện có thể
thấy chế định đại diện là một chế định quan trọng, đƣợc sử dụng nhƣ là một
kênh “hỗ trợ” trong hầu hết các chế định khác. Tuy nhiên, trong một số
trƣờng hợp nhất định do đặc thù riêng nên một số loại quan hệ, giao dịch
không thể đƣợc xác lập thông qua đại diện. Cụ thể: Với những giao dịch mà
tính chất của giao dịch chỉ cho phép tự mỗi cá nhân thể hiện ý chí, tự mình
bày tỏ ý chí thì sẽ không đƣợc xác lập giao dịch thông qua đại diện (ví dụ nhƣ
hành vi lập di chúc, ủy quyền,….). Hay trong các lĩnh vực có tính chất tƣơng
tự pháp luật dân sự nhƣ việc ký kết hợp đồng lao động của vị thành niên, việc
kết hôn, nhận con nuôi thì trong những trƣờng hợp này pháp luật quy định các
chủ thể phải tự mình thực hiện, không thể thực hiện thông qua ngƣời đại diện.

1.1.2. Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng
Đại diện là một hình thức pháp lý đƣợc áp dụng trong nhiều giao dịch,
quan hệ khác nhau. Trong số đó, quan hệ hợp đồng là một quan hệ mà hành vi
đại diện đƣợc sử dụng rất phổ biến. Có rất nhiều lý do cho nhận định này.
Trƣớc hết, cũng giống nhƣ các quan hệ dân sự khác, khi chủ thể trong
quan hệ hợp đồng không đủ điều kiện về mặt pháp lý để tự mình tham gia. Có
thể do chủ thể không đảm bảo điều kiện về năng lực hành vi (Ngƣời chƣa
thành niên, ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự),…. Lúc này, các chủ thể sẽ
cần một ngƣời thay mình ký kết cũng nhƣ thực hiện hợp đồng mà không trái
với quy định pháp luật - Đó chính là ngƣời đại diện.
Hay cũng có thể do chủ thể trong quan hệ là các pháp nhân, tổ chức.
Theo đó, ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân, tổ chức sẽ đại diện cho
pháp nhân, tổ chức tham gia vào các nội dung của quan hệ hợp đồng.
Và một lý do nữa cho nhận định kể trên, đó là khi các chủ thể trong quan hệ
hợp đồng không thể tự mình thiết lập hợp đồng do các khía cạnh liên quan đến hợp
16

đồng đòi hỏi phải có những hiểu biết chuyên sâu. Lúc này, các chủ thể sẽ lựa chọn
cách thức thông qua một ngƣời am hiểu chuyên môn (Luật sƣ, chuyên gia,…) để
thay mặt mình ký kết hợp đồng, đảm bảo tối đa quyền lợi cho chủ thể.
Và còn nhiều lý do khác nữa… Xuất phát từ những nguyên nhân này,
hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Cũng giống nhƣ đại diện trong các lĩnh vực khác, bản chất của đại diện trong
quan hệ hợp đồng cũng là việc một người thay người khác thực hiện những
công việc nhất định, trong phạm vi mà người đó cho phép và vì lợi ích của
người đó. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt đó loại đại diện mà tác giả muốn
đƣa ra bàn luận ở đây là đại diện trong quan hệ hợp đồng.
Quan hệ hợp đồng rất đa dạng và phong phú. Trong phạm vi Luận văn
này, tác giả muốn hƣớng tới nhóm các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh,
thƣơng mại. Luật thƣơng mại hay các văn bản pháp luật lĩnh vực kinh tế không

đƣa ra khái niệm chính xác cho loại hợp đồng này. Nhƣng qua quy định tại Điểm
b Tiểu mục 1.1 Mục 1 - Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP: “Toà kinh tế có nhiệm
vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương
mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh,
nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Từ đó có thể thấy các “tranh chấp khác về
kinh doanh thương mại” ở đây chính là các tranh chấp giữa một hoặc các bên
không có đăng ký kinh doanh nhƣng đều có mục đích lợi nhuận, hay nói cách
khác tranh chấp kinh doanh thƣơng mại không bắt buộc phải tuân thủ điều kiện
về chủ thể là phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đảm bảo yếu tố là các bên
đều có mục đích lợi nhuận. Qua quy định này, có thể hiểu hợp đồng trong kinh
doanh, thƣơng mại là hợp đồng giữa các bên vì mục tiêu lợi nhuận, trong đó có ít
nhất một bên là thƣơng nhân, còn bên còn lại có thể là các tổ chức không có
đăng ký kinh doanh, chỉ cần thỏa mãn có đủ năng lực chủ thể.
17

Nhƣ vậy, trong nhóm hợp đồng, chủ thể của nó hoặc bắt buộc đều là
thƣơng nhân, hoặc một trong hai bên phải là thƣơng nhân. Vì vậy, trong từng
trƣờng hợp cụ thể, không phải bất kỳ cá nhân tổ chức nào cũng có thể là
ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện. Ngoài ra, công việc nhất định đƣợc
làm thay ở đây phải là các hoạt động thƣơng mại, các công việc nhằm mục
đích lợi nhuận. Các công việc đó đƣợc biểu hiện qua quy trình đàm phán, ký
kết, thực hiện và thanh lý hợp đồng.
Tại mục 2, điều 2.2.1 Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại
quốc tế 2004 cũng đƣa ra quy định cụ thể: “mục này điều chỉnh quyền của một
ngƣời ở địa vị pháp lý của một ngƣời khác trong việc làm phát sinh hậu quả liên
quan tới việc ký kết hoặc thực hiện một hợp đồng với một bên thứ ba” [21].
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra một khái niệm cụ thể: Đại diện trong quan hệ
hợp đồng kinh doanh, thương mại là việc một cá nhân, tổ chức thay mặt cho
cá nhân, tổ chức khác và vì lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó tham

gia vào quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại trong phạm vi cá nhân, tổ
chức đó cho phép.
1.2. PHÂN LOẠI
Qua những nội dung trên tác giả đã làm rõ khái niệm quan hệ đại diện
nói chung và khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng nói riêng. Dễ dàng
nhận thấy quan hệ đại diện đƣợc thiết lập do nhiều nguyên nhân khác nhau và
trong nhiều trƣờng hợp khác nhau. Tƣơng ứng với những trƣờng hợp đó cũng
có các hình thức đại diện phù hợp. Cụ thể, theo quy định pháp luật Việt Nam
có các hình thức đại diện sau:
- Đại diện theo pháp luật - Theo quy định của pháp luật bao gồm cả quy
định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (đại diện bắt buộc).
- Đại diện theo ủy quyền - Theo hợp đồng ủy quyền (đại diện tự nguyện)
18

1.2.1. Đại diện theo pháp luật
Ngay trong tên gọi đã thể hiện rõ đặc thù của hình thức đại diện này.
Đây là hình thức đại diện đƣợc xác lập trên cơ sở pháp luật, mà không phải
theo bất kỳ yếu tố nào khác hay do ý chí của các bên. Vậy hình thức đại diện
theo pháp luật là hình thức đại diện nhƣ thế nào? Trong những trƣờng hợp
nào hình thức đại diện theo pháp luật sẽ đƣợc áp dụng?
Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, đại diện theo pháp luật là
đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
quyết định dựa trên các tiêu chí sau:
- Do quan hệ đặc biệt giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện mà
phát sinh quan hệ đại diện đƣơng nhiên (cha mẹ và con, vợ và chồng,…).
- Quan hệ đại diện phát sinh trên cơ sở một quan hệ pháp lý khác: Giám
hộ, quan hệ lao động,…
- Việc đại diện do cơ quan nhà nƣớc (chủ yếu là Tòa án) quyết định khi
sự đại diện là cần thiết đối với ngƣời bị hạn chế, bị mất năng lực hành vi dân
sự. [13, tr.294]

Nhìn từ ba tiêu chí xác lập quan hệ đại diện theo pháp luật kể trên có thể
thấy bên cạnh việc thực hiện hành vi đại diện, ngƣời đại diện còn thực hiện các
chức năng khác đƣợc pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời đƣợc
đại diện. Ví dụ nhƣ quy định giám hộ đối với ngƣời chƣa thành niên chính là
nhằm bảo vệ cho quyền lợi của ngƣời chƣa thành niên hay đảm bảo an toàn về tài
sản của ngƣời đó, hay hỗ trợ các chủ thể thực hiện các hoạt động giao dịch trong
trƣờng hợp chủ thể là ngƣời bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự,….
Theo quy định pháp luật, dù trong lĩnh vực dân sự hay kinh doanh
thƣơng mại, ngƣời đại diện trong quan hệ đại diện theo pháp luật bắt buộc
19

phải là cá nhân. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa
hình thức đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định pháp luật, ngƣời đại diện theo pháp luật là “ngƣời đại
diện toàn quyền”. Nhƣ vậy, đồng nghĩa là ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc
phép thực hiện mọi hành vi thay ngƣời đƣợc đại diện với một điều kiện duy
nhất là ngƣời đại diện phải thực hiện những hành vi đó xuất phát từ chính lợi
ích của ngƣời đƣợc đại diện. Ngoài ra, ngƣời đại diện theo pháp luật có thể ủy
quyền đại diện cho ngƣời khác. Tuy nhiên, việc ủy quyền này chỉ là ủy quyền
thực hiện một hoặc một số hành vi pháp lý cụ thể trong một thời hạn nhất
định chứ không phải là giao tất cả thẩm quyền đại diện cho ngƣời khác. Trong
trƣờng hợp này, ngƣời đại diện vẫn phải chịu trách nhiệm trƣớc ngƣời đƣợc
đại diện về việc thực hiện đúng đắn nghĩa vụ đại diện.
Vấn đề đại diện theo luật đƣợc thừa nhận ở các nƣớc theo hệ thống luật
dân sự, song lại không đƣợc thừa nhận ở hệ thống thông luật. Theo luật Anh -
Mỹ thì ngay cả cha mẹ cũng không là đại diện đƣơng nhiên của ngƣời chƣa
thành niên trong các giao dịch pháp lý. Các hợp đồng đƣợc ký với ngƣời chƣa
thành niên đều không có giá trị trừ những hợp đồng “thiết yếu” cho ngƣời
chƣa thành niên. Sự đồng ý của cha mẹ cũng không có ý nghĩa trong việc tạo
nên hiệu lực của hợp đồng [32].

1.2.2. Đại diện theo ủy quyền
Song hành với hình thức đại diện theo pháp luật, hình thức đại diện
theo ủy quyền cũng đƣợc sử dụng rất phổ biến. Theo quy định pháp luật Việt
Nam, hình thức đại diện theo ủy quyền đƣợc thể hiện rất rõ nét trong hai lĩnh
vực dân sự và kinh doanh, thƣơng mại. Và ở mỗi lĩnh vực, hình thức đại diện
theo ủy quyền có những đặc điểm rất riêng biệt.
20

1.2.2.1. Đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực dân sự
“Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập trên cơ sở sự ủy
quyền giữa người đại diện và người được đại diện”.
Theo đó, trong quan hệ đại diện theo ủy quyền luôn có hai bên: Ngƣời đại
diện (ngƣời đƣợc ủy quyền) và ngƣời đƣợc đại diện (ngƣời ủy quyền). Cụ thể:
- Ngƣời đƣợc đại diện: Do hành vi ủy quyền của ngƣời đƣợc đại diện
cho ngƣời đại diện là hành vi xác lập một giao dịch dân sự nên tất yếu chủ thể
tham gia phải thỏa mãn các điều kiện chung về thẩm quyền và năng lực hành
vi dân sự của BLDS. Ngƣời đƣợc đại diện có thể là một cá nhân, pháp nhân
có công việc cần ủy quyền thực hiện và có năng lực xác lập quan hệ đại diện
đó. Nếu bên đƣợc đại diện là pháp nhân, thì việc ủy quyền đại diện sẽ đƣợc
tiến hành bởi ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó (Nhƣ đã nêu ở
phần 1.2.1); nếu là cá nhân thì cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự,
không bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
- Ngƣời đại diện: Theo quy định của BLDS, ngƣời đại diện theo ủy
quyền phải là cá nhân. Cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi có thể là ngƣời đại
diện theo ủy quyền, trừ trƣờng hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải
do ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập và thực hiện. Ngƣời mất năng lực hành
vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không đƣợc là ngƣời đại diện.
Việc xác định một ngƣời có đƣợc phép là ngƣời đại diện để thực hiện giao
dịch hay không còn phụ thuộc vào loại hình đại diện nào.

Pháp luật dân sự không hạn chế việc ủy quyền cho ngƣời có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ thực hiện việc đại diện, trừ những giao dịch mà pháp luật quy định
phải do chính ngƣời đó thực hiện. Ví dụ nhƣ: Việc kết hôn, nhận con nuôi cũng
phải do các bên tự mình thực hiện với sự công nhận của cơ quan nhà nƣớc,….
21

Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hình thức xác lập quan hệ
đại diện theo ủy quyền do các bên tự thỏa thuận, trừ trƣờng hợp pháp luật quy
định việc ủy quyền phải đƣợc lập thành văn bản. Trong trƣờng hợp việc xác
lập quan hệ đại diện theo ủy quyền đƣợc thực hiện dƣới dạng văn bản thì sẽ
tồn tại hai hình thức sau:
+ Giấy ủy quyền: Giấy ủy quyền là một văn bản thể hiện ý chí của bên
ủy quyền ủy quyền cho bên nhận ủy quyền thực hiện một công việc nhất định.
Việc xác lập giấy ủy quyền hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí đơn phƣơng của
bên ủy quyền và thông thƣờng phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm bên ủy
quyền kí vào giấy ủy quyền. Do đó quan hệ ủy quyền đƣợc xác lập bằng giấy
ủy quyền là một giao dịch pháp lí đơn phƣơng, trong giao dịch này các bên
không có quyền và nghĩa vụ đối ứng. Theo đó, nội dung giấy ủy quyền thông
thƣờng chỉ nêu phạm vi ủy quyền, thời hạn hiệu lực mà không có điều khoản
về quyền và nghĩa vụ của các bên. Vì những đặc điểm trên, giấy ủy quyền
không cần phải có chữ kí của bên nhận ủy quyền.
+ Hợp đồng ủy quyền: Quan hệ ủy quyền đƣợc xác lập bằng hợp đồng
ủy quyền là quan hệ trong hợp đồng song vụ. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của
bên ủy quyền cũng nhƣ của bên nhận ủy quyền đƣợc thỏa thuận rõ trong hợp
đồng ủy quyền.
Khác với các hình thức thể hiện khác, quan hệ đại diện theo ủy quyền
đƣợc xác lập dƣới dạng Giấy ủy quyền và Hợp đồng ủy quyền sẽ có nội dung
và hậu quả pháp lí phát sinh từ việc ủy quyền đƣợc thể hiện rất rõ ràng. Nội
dung của việc ủy quyền đƣợc bên ủy quyền nêu rõ trong giấy ủy quyền, bên
nhận ủy quyền và bên ủy quyền thỏa thuận rõ trong hợp đồng ủy quyền. Theo

đó, bên đại diện chỉ đƣợc phép nhân danh bên đƣợc đại diện xác lập, thực
hiện giao dịch với ngƣời thứ ba trong phạm vi ủy quyền và có nghĩa vụ thông
22

báo cho ngƣời thứ ba biết phạm vi đại diện của mình. Theo quy định của
BLDS 2005 ngƣời đại diện không đƣợc phép thực hiện các giao dịch dân sự
với chính mình hoặc với ngƣời thứ ba mà mình cũng là ngƣời đại diện của
ngƣời đó (Quan hệ đại diện đó có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện
theo ủy quyền). Vì giao dịch dân sự thông qua ngƣời đại diện nhân danh bên
đƣợc đại diện nên mọi trách nhiệm pháp lí phát sinh trong phạm vi ủy quyền
bên đƣợc đại diện phải gánh chịu.
1.2.2.2. Đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực thương mại
Trong nội dung trình bày ở trên, tôi đã giới thiệu và làm rõ về hình thức
đại diện theo ủy quyền trong lĩnh vực dân sự. Đây là những lý luận mang tính
chất nền tảng, làm cơ sở cho loại “đại diện chuyên ngành” hơn - đại diện theo
ủy quyền trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại. Đây cũng là lĩnh vực phạm
vi mà nội dung Luận văn hƣớng tới - giới hạn phạm vi nhóm hợp đồng trong
kinh doanh, thƣơng mại.
Bên cạnh những điểm tƣơng đồng giữa hình thức đại diện theo ủy
quyền trong lĩnh vực dân sự và trong lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại thì
cũng có những điểm khác biệt rõ nét. Cụ thể, xét về mặt chủ thể, nếu nhƣ chủ
thể trong quan hệ đại diện dân sự bắt buộc phải là cá nhân thì chủ thể đại diện
trong quan hệ đại diện thƣơng mại lại có thể là cá nhân hoặc thƣơng nhân. Sự
khác biệt này bắt nguồn từ thực tế trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại, các
quan hệ giao dịch đƣợc thiết lập giữa các chủ thể đặc biệt hơn - thƣơng nhân.
Trong từng giao dịch khác nhau, tùy theo điều kiện mà một trong hai bên
hoặc cả hai bên trong giao dịch đều phải là thƣơng nhân. Theo quy định tại
Điều 6 Luật thƣơng mại, Thƣơng nhân bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên
và có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu không đăng ký kinh doanh, những

23

chủ thể này cũng có thể đƣợc xem nhƣ một thƣơng nhân thực tế và phải tuân
thủ các nghĩa vụ của một thƣơng nhân. [17, tr. 13]
Nhƣ vậy, gắn liền với yếu tố bên đƣợc đại diện có thể là cá nhân hoặc
tổ chức thì bên đại diện cũng đƣợc mở rộng hơn “ngƣời đại diện” trong quan
hệ dân sự, sẽ bao gồm cả cá nhân và tổ chức.
Điểm khác biệt thứ hai cần nói tới đó là về nội dung đại diện. Nếu nhƣ
đại diện trong dân sự hƣớng tới mọi quan hệ khác nhau trong đời sống dân sự
thì đại diện trong kinh doanh thƣơng mại lại hƣớng tới việc thực hiện “thay”
các “hoạt động thƣơng mại”. Đó là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Đây là hai điểm khác biệt cơ bản giữa đại diện theo ủy quyền trong dân
sự và đại diện theo ủy quyền trong kinh doanh, thƣơng mại. Hai điểm khác
biệt này sẽ chi phối các nội dung khác xoay quanh quan hệ đại diện và tạo nên
những nét đặc thù trong từng loại đại diện.
Ngoài những nội dung trên, còn một vấn đề nữa mà tác giả muốn đƣa
ra luận bàn. Trong phạm vi quan hệ đại diện trong kinh doanh, thƣơng mại, có
một hình thức đại diện có thể nói là rất đặc thù. Đó là hình thức đại diện cho
thƣơng nhân. Cũng bắt nguồn từ những nguyên tắc chung về đại diện, nhƣng
hình thức đại diện cho thƣơng nhân mang những nét rất riêng, trở thành một
chế định pháp lý đặc biệt của Luật thƣơng mại trong quan hệ với đại diện
mang tính chất chung theo quy định của Bộ luật dân sự. Đại diện cho thƣơng
nhân là một biểu hiện đặc biệt của hình thức đại diện theo ủy quyền đƣợc quy
định trong lĩnh vực dân sự và hình thức pháp lý của đại diện cho thƣơng nhân
- hợp đồng đại diện cho thƣơng nhân cũng đƣợc kế thừa đa số các quy định về
hợp đồng ủy quyền của BLDS. Bên cạnh đó, Đại diện cho thƣơng nhân (đại

×