Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông .pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.81 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM QUANG HUY

PHÁP LUẬT VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN PHƯƠNG ĐÔNG
Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ,
cung cấp tài liệu, sự chỉ bảo tận tình của Thầy giáo hướng dẫn là TS. Nguyễn Văn
Tuyến, các anh (chị) và bạn bè đồng nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần


Phương Đông, các cán bộ Trung tâm thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội. Em xin
gửi lời cảm ơn chân thành nhất vì sự giúp đỡ quý báu này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc thu thập tài liệu và tìm tòi, nghiên cứu
nhưng do thời gian nghiên cứu và nguồn tài liệu có hạn, cùng với những hạn chế
của bàn thân tác giả, Luận văn chắc chắn khó tránh khỏi những khiếm khuyết cần
được xem xét, chỉnh sửa. Em mong nhận được sự phê bình và góp ý của các Thầy,
cô, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để công trình khoa học này được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM QUANG HUY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân
tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực. Những kết quả,
những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ một công trình
nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM QUANG HUY


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM

: Ngân hàng thương mại


NHNN

: Ngân hàng nhà nước

TSBĐ

: Tài sản bảo đảm

OCB

: Ngân hàng Phương Đông

TMCP

: Thương mại cổ phần

VAMC

: Công ty Quản lý tài sản

XLNX

: Xử lý nợ xấu


DANH MỤC SƠ ĐỒ MINH HỌA
STT

Tên bảng, biểu, sơ đồ


Trang

1

Bảng 1: Phân loại nợ theo WB

8

2

Bảng 2: Phân loại nợ theo Thông tư 02/2013

33

3

Bảng 3: Tình hình nợ xấu tại OCB năm 2012-2014

51

4

Bảng 4: Tỷ trọng nợ xấu tại OCB năm 2012 – 2014

52


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ NỢ XẤU
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

5

1.1. Những vấn đề lý luận về nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại

5

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại

5

1.1.2. Phân loại nợ trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

7

1.1.3. Các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại

9

1.1.4. Tác động của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
đối với nền kinh tế - xã hội


14

1.1.5. Vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại

16

1.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về nợ xấu trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại

21

1.2.1. Cơ sở khoa học của việc ban hành các quy định về nợ xấu trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại

21

1.2.2. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại

22

1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại

23

1.2.4. Các yếu tố tác động ảnh hưởng đến pháp luật về nợ xấu trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại


25

1.2.5. Kinh nghiệm trong điều chỉnh pháp luật đối với nợ xấu trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở một số nước trên thế giới và bài học cho
Việt Nam

26


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

31

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN PHƯƠNG ĐÔNG

32

2.1. Thực trạng pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam

32

2.1.1. Các quy định về khái niệm nợ xấu và phân loại, đánh giá nợ xấu trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam

32


2.1.2. Các quy định về quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam

34

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Phương Đông

50

2.2.1. Tình hình nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ
phần Phương Đông giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2014

50

2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại cổ phần Phương Đông và một số nhận xét, đánh giá
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

52
55

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NỢ XẤU VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

56

3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về nợ xấu và nâng cao hiệu
quả xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam 56

3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

58

3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại ở Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông nói
riêng và các Ngân hàng Thương mại nói chung

62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

64

KẾT LUẬN

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

66


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính Việt Nam ngày
càng phát triển nhanh chóng với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng, chất lượng và đa

dạng hóa loại hình dịch vụ. Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại thế giới WTO đã tạo những tiền đề thuận lợi, đồng thời cũng mang lại
không ít thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, thị trường tài chính Việt
Nam nói riêng. Trong những năm vừa qua, tình hình nợ xấu tại Việt Nam có chiều
hướng gia tăng bởi những lý do chủ quan và khách quan đòi hỏi pháp luật về nợ xấu
phải có những điều chỉnh để đáp ứng nhu cầm kiểm soát và xử lý nợ xấu.
Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh có đối tượng kinh doanh
đặc biệt là tiền tệ. Hoạt động kinh doanh này đóng vai trò là huyết mạch của nền
kinh tế, bao gồm chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, nó liên quan
tới mọi hoạt động kinh doanh khác; tuy nhiên bản thân nó lại tiềm ẩn những rủi ro
lớn không thể tránh khỏi. NHNN Việt Nam với vai trò là ngân hàng trung ương,
ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
hoạt động tiền tệ, hoạt động ngân hàng. Một trong những mục tiêu và nhiệm vụ
quan trọng của NHNN Việt Nam đó là bảo đảm sự an toàn trong hoạt động hệ thống
Ngân hàng, đảm bảo kiểm soát rủi ro và quản lý nợ xấu hiệu quả.
Pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM tại Việt Nam hiện
nay đã có những bước tiến quan trọng tạo khung pháp lý cho hoạt động định hình
và xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, hệ thống các quy phạm pháp luật về nợ xấu còn nhiều
vấn đề cần phải hoàn thiện.
Xuất phát từ tầm quan trọng của pháp luật về nợ xấu và quản lý nợ xấu học viên
chọn đề tài: “Pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương
mại và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông” nhằm
nghiên cứu những nét khái quát về lý luận về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương
Đông, từ đó đưa ra một số nhận xét về ưu điểm, tồn tại cũng như đề ra phương hướng
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về nợ xấu theo pháp luật Việt Nam
như các đề tài cấp bộ, cấp cơ sở và các cơ quan chức năng đã tổ chức những hội
thảo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của pháp luật về giải quyết nợ xấu



2

cũng như thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động kinh doanh
của NHTM
Ở mỗi đề tài, mỗi tác giả đều có cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ như:
- Luận án tiến sỹ với đề tài “Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại Việt
Nam” của Thạc sỹ Nguyễn Thị Hoài Phương, Đại học Kinh tế quốc dân;
- Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam” của Phạm Thị Thương, Đại học
Luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Giải pháp phòng ngừa và xử lý nợ xấu tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Đà Nẵng” của
Lê Thị Hoài Diễm, Đại học Đà Nẵng;
- Bài viết: “Vấn đề xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”
của Nguyễn Văn Nam , Học viện Ngân hàng, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân
hàng số 135 – tháng 8 năm 2013…
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nói trên chỉ khảo sát, bình luận,
nghiên cứu về mặt lý luận và đưa ra các giải pháp mang tính chuyên ngành kinh tế
tài chính hoặc tại thời điểm nghiên cứu chưa có những điều chỉnh pháp luật về nợ
xấu mang tầm vĩ mô như hiện nay. Đề tài này của học viên phần nào đáp ứng được
tính cấp thiết của việc nghiên cứu trong tình hình hiện nay, khi mà vấn đề nợ xấu
đang ngày càng tăng về quy mô, pháp luật về nợ xấu đã và đang có những điều
chỉnh hợp lý và hiệu quả nhằm hoạch định chính sách nợ xấu và nâng cao hiệu quả
xử lý nợ xấu hướng đến các mục tiêu áp sát tiêu chuẩn quốc tế về nợ xấu.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về nợ
xấu và quản lý nợ xấu, thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề
này. Đồng thời, qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại Ngân hàng

thương mại cổ phần Phương Đông để đưa ra những nhận xét, đánh giá về những
quy định của pháp luật hiện hành áp dụng trên phạm vi cả nước nói chung. Tổng
hợp các phương pháp để hoàn thiện pháp luật về nợ xấu và nâng cao hiệu quả xử lý
nợ.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm khoa học về nợ xấu và
quản lý nợ xấu; quy định của pháp luật Việt Nam về nợ xấu và quản lý nợ xấu nói
riêng, tích hợp so sánh với quy định pháp luật trên thế giới từ đó rút ra kinh nghiệm
điểu chỉnh pháp luật cho Việt Nam.


3

Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung vào hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận: luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về nợ
xấu và quản lý nợ xấu của NHTM, cơ chế điều chỉnh của pháp luật về nợ xấu và
quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
Thứ hai, về mặt thực tiễn: luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật
và đặc biệt là đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật về nợ xấu và quản lý nợ xấu
trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông giai đoạn
2012 – 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu trên, luận văn chủ yếu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu được áp dụng phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như:
phương pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa, so sánh, đối chiếu, thống kê và
khảo sát...
Các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa được sử dụng để làm rõ
các vấn đề lý luận về nợ xấu của NHTM, cơ chế và xu hướng điều chỉnh pháp luật
và thực trạng pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM trong nền
kinh tế thị trường.
Các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, khảo sát… được sử

dụng để làm rõ các vấn đề thực tiễn về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
NHTM nói chung và NHTMCP Phương Đông nói riêng, trên cơ sở đó luận văn đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả
xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn có những đóng góp mới sau đây về mặt lý luận và thực tiễn:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về nợ xấu được điều
chỉnh và hoàn thiện trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công tác minh bạch nợ
xấu, thực hiện đề án xử lý nợ xấu và thành lập Công ty Quản lý tài sản VAMC.
Thứ hai, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu các vấn đề cốt lõi như hoàn
thiện khung khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu, nhất là các quy định về
mua, bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm, trách nhiệm người đi vay và quyền hạn của chủ
nợ; hoàn thiện chức năng tăng cường tiềm lực tài chính, nâng cao năng lực, phát triển
vai trò của VAMC, trong đó có việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường; phát triển
mạnh thị trường mua bán nợ xấu; khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước


4

tham gia mua bán nợ xấu; công khai minh bạch về nợ xấu và kết quả xử lý, thực hiện
giải pháp kiểm soát chất lượng tín dụng và thực hiện quy định pháp luật về phân loại
nợ, trích lập dự phòng rủi ro tại các NHTM; biện pháp tăng cường phối hợp giữa các
Bộ, ngành, địa phương trong xử lý các vấn đề liên quan và hỗ trợ các ngân hàng
thương mại, VAMC trong xử lý nợ xấu, nhất là hoàn thiện hồ sơ pháp lý, thu hồi nợ
và xử ly tài sản bảo đảm…
Thứ ba, luận văn đề xuất những giải pháp và kiến nghị có tính thực tiễn cao để
hoàn thiện pháp luật về nợ xấu và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong hoạt động
cho vay của NHTM.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn được kết
cấu thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nợ xấu trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại và pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về nợ xấu của Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về nợ xấu và nâng cao hiệu
quả xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàn thương mại ở Việt Nam.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ NỢ
XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề lý luận về nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Các quan điểm về nợ xấu của ngân hàng thương mại
Có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu nói chung và nợ xấu của NHTM
nói riêng. Dưới góc nhìn từ phía NHTM thì nợ xấu có thể hiểu là những khoản cho
vay không có khả năng sinh lời hay những khoản cho vay không còn hoạt động. Nói
cách khác, nợ xấu là những khoản cho vay trở nên không sinh lời khi người vay
dừng việc thanh toán và khoản vay bắt đầu bị vỡ nợ.
Nợ xấu cũng có thể hiểu là các khoản nợ dưới chuẩn bị nghi ngờ về khả năng
trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, thường xảy ra khi người vay nợ tuyên bố

phá sản hoặc đã bán dần tài sản [7, tr.1]. Về bản chất, nợ xấu là khái niệm dùng để chỉ
các khoản nợ của ngân hàng đang đối diện với nguy cơ rủi ro cao trong việc thu hồi
lại cả gốc và lãi do khách hàng gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ hoặc phá sản. Sau đây là
một số quan điểm về nợ xấu trên thế giới với những cách tiếp cận khác nhau:
Theo định nghĩa của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), nợ xấu trong
các NHTM bao gồm:
- Những khoản nợ không thể thu hồi được: Những khoản nợ đã hết hiệu lực
hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ nợ; người mắc nợ trốn
hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ; những khoản nợ mà ngân hàng
không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ;
những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản hoặc
kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ;
- Nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng: Là những khoản nợ
không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ; người mắc nợ
không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn
cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ. [22, tr.1]
Như vậy, theo quan điểm của ECB thì nợ xấu được định nghĩa thông qua hai


6

yếu tố: (i): khoản nợ vay không có khả năng thu hồi, và (ii): mặc dù được thu hồi
nhưng giá trị thu hồi là không đầy đủ. Như vậy, quan điểm về nợ xấu của ECB được
tiếp cận dựa trên kết quả thu hồi nợ của ngân hàng.
Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Một khoản cho vay được
coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ
90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái
cơ cấu hoặc gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các
nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ được thực hiện đầy đủ”. [17, tr. 31]
Về cơ bản, nợ xấu theo quan điểm của IMF được tiếp cận dựa trên thời gian

quá hạn trả nợ và khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ ở đây có thể
hiểu là khách hàng hoàn toàn không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ. Như
vậy, so với quan điểm của ECB thì quan điểm về nợ xấu của IMF cũng dựa trên kết
quả thu hồi nợ của ngân hàng, nhưng có bổ sung thêm yếu tố về thời gian quá hạn
trả nợ. Đây được coi là định nghĩa có tính phổ biến và hiện đang được thừa nhận
rộng rãi trên thế giới.
Theo định nghĩa về nợ xấu trong pháp luật thực định ở Việt Nam, “nợ xấu
là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ)
và nhóm 5 (có khả năng mất vốn)”. Như vậy, ở Việt Nam nợ xấu cũng được xác
định theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày; và (ii) khả năng trả nợ đáng lo
ngại. Đây được coi là định nghĩa chính thức về nợ xấu theo quan điểm của
NHNN Việt Nam [10].
Tóm lại, từ các định nghĩa nói trên có thể nhận xét rằng quan niệm về nợ xấu
là rất khác nhau. Tuy nhiên, điểm thống nhất giữa các quan niệm về nợ xấu là ở
chỗ, hầu hết các ý kiến đều thừa nhận rằng nợ xấu là những khoản nợ khó có khả
năng thu hồi, do con nợ gặp khó khăn, làm ăn thu lỗ, phá sản hoặc cố tình chây ỳ
không trả nợ. Việc tiếp cận các khái niệm về nợ xấu đều hướng đến mục đích nhìn
rõ bản chất của khoản nợ, từ đó đưa ra phương án giải quyết dứt điểm.
Theo quan điểm của tác giả luận văn, khái niệm nợ xấu cần được tiếp cận
dựa vào khả năng trả nợ của khách hàng. Có nghĩa là một khoản nợ cho vay trong
hạn hoặc thậm chí mới cho vay, nhưng có dấu hiệu chứng tỏ rằng khả năng trả nợ
của khoản vay là đáng nghi ngờ thì cũng có thể coi là một khoản nợ xấu.
1.1.1.2. Đặc điểm của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Khái quát được các đặc điểm của nợ xấu sẽ nhận biết được bản chất của nợ
xấu, từ đó làm tiền đề cho việc thiết kế, xây dựng chính sách quản lý nợ xấu trong


7

hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.

Một cách khái quát, có thể nhận diện nợ xấu của NHTM thông qua các đặc
điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng là những khoản nợ
dưới chuẩn. Theo quan niệm chung ở nhiều quốc gia trên thế giới, nợ dưới chuẩn
được hiểu là nợ đã quá hạn trên 90 ngày mà con nợ vẫn không có dấu hiệu trả được
nợ. Như vậy, những khoản nợ quá hạn đến 90 ngày và con nợ không có những dấu
hiệu để nghi ngờ về khả năng trả nợ thì vẫn chưa được xếp vào nhóm “nợ xấu”
trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Thứ hai, nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng là những khoản nợ
có bằng chứng nghi ngờ về khả năng trả nợ của con nợ, chẳng hạn như: con nợ bỏ
trốn hoặc tẩu tán tài sản; con nợ thua lỗ dẫn đến nguy cơ phá sản; con nợ chấm dứt
tồn tại trong khi tài sản còn lại không đủ thanh toán nợ. Đôi khi, sự chậm trễ bất
thường và không có lý do trong việc cung cấp các báo cáo tài chính và trả nợ theo
lịch đã thỏa thuận hoặc chậm trễ trong việc liên lạc với cán bộ tín dụng cũng được
xem là có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng trả nợ của con nợ.
Ngoài ra, theo một số tác giả thì khi có một trong các hiện tượng như liệt kê
dưới đây thì cũng được xem là có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng trả nợ của con nợ,
chẳng hạn như: Sự thay đổi bất thường trong khấu hao, kế hoạch trả lương và phụ
cấp giá trị hàng tồn kho, tài khoản thuế và thu nhập; cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh
toán cổ tức, hoặc có sự thay đổi vị trí xếp hạng tín nhiệm; giá cổ phiếu của công ty
thay đổi bất lợi; thu nhập ròng giảm một hay nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu như
tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản, tỷ lệ sinh lời trên vốn cổ phần hay lợi tức trước thuế
và lãi suất [21, tr.4]; những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn của người vay như tỷ
lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản, khả năng thanh
toán hay mức độ hoạt động; sự thay đổi thường xuyên về tổ chức ban lãnh đạo
doanh nghiệp; có những bất đồng và mâu thuẫn trong ban lãnh đạo, tranh chấp
trong quá trình quản lý… [23, tr.2]
1.1.2. Phân loại nợ trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Sau khi đã được nhận biết, nợ xấu sẽ được phân loại vào các nhóm nợ có
mức độ rủi ro khác nhau. Các quốc gia, các tổ chức tài chính quốc tế khác nhau đều

có cách phân loại nợ xấu của riêng mình.
Theo cách phân loại nợ của Ngân hàng thanh toán quốc tế, nợ của NHTM
bao gồm các nhóm sau đây: [17, tr. 41]


8

- Nợ đủ tiêu chuẩn: Khoản vay có khả năng được thanh toán.
- Nợ cần chú ý đặc biệt: Các khoản cho vay với doanh nghiệp mà có thể có
khó khăn trong việc thu hồi.
- Nợ dưới tiêu chuẩn: Các khoản cho vay mà tiền lãi hoặc gốc thanh toán đã
quá hạn 3 tháng. Ngân hàng sẽ trích lập tỷ lệ 10% dự phòng cho các khoản vay bị
xếp vào loại dưới chuẩn.
- Nợ nghi ngờ: Là những khoản vay có nghi ngờ trong việc thanh toán và
được xác định là sẽ gây tổn thất. Ngân hàng trích tỷ lệ dự phòng là 50% cho các
khoản cho vay có nghi ngờ.
- Nợ có khả năng mất vốn: Các khoản nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi được áp dụng các biện pháp bảo vệ theo luật phá sản. Các ngân hàng
sẽ trích tỷ lệ dự phòng là 100% cho các khoản vay này.
Với cách phân loại nợ của Ngân hàng thanh toán quốc tế, nợ xấu là các
khoản nợ thuộc 3 nhóm cuối và chúng sẽ được đánh giá theo mức độ khó khăn khi
thu hồi.
Bảng 1: Phân loại nợ theo Ngân hàng thế giới (WB)
Khoản vay
Đạt tiêu chuẩn

Cần theo dõi

Dưới tiêu chuẩn


Đáng ngờ

Mất vốn

Những đặc thù và thời hạn
- Không nghi ngờ về thời gian trả nợ.
- Tài sản được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền hoặc tương
đương.
- Quá hạn dưới 90 ngày.
- Những điểm yếu tiềm tàng có thể ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ.
- Các điều kiện kinh tế hoặc viễn cảnh tài chính khó khăn.
- Quá hạn dưới 90 ngày.
- Các nhược điểm rõ rệt về tín dụng có thể ảnh hưởng tới khả
năng trả nợ.
- Các khoản nợ đã được thỏa thuận lại;
- Quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
- Không chắn thu hồi được toàn bộ nợ dựa trên các điều kiện
kiện hiện tại;
- Có khả năng thất thoát;
- Quá hạn từ 180 đến 360 ngày.
- Các khoản vay không thu hồi được;
- Quán hạn hơn 360 ngày.

Theo cách phân loại nợ mà WB đưa ra, thì nợ xấu được xếp loại lần lượt vào
ba nhóm cuối, và được phân loại theo tiêu chí: thời gian quá hạn trả nợ và khả năng
trả nợ. Phân loại nợ theo Ngân hàng nhà nước Việt Nam: [10]


9


Trước năm 2005, việc phân loại nợ các khoản nợ xấu không căn cứ vào thời
gian quá hạn cụ thể mà căn cứ vào tính chất và khả năng thu hồi nợ thông qua các
biện pháp bảo đảm của khoản vay (có tài sản bảo đảm hoặc không có tài sản bảo
đảm) và tình trạng pháp lý khách hàng (không còn tồn tại hoặc còn tồn tại, hoạt động)
để phân loại thành 3 nhóm nợ với các cơ chế xử lý khác nhau, bao gồm: (i) Nợ tồn
đọng có tài sản bảo đảm (nợ tồn động nhóm 1); (ii) Nợ tồn đọng không có tài sản bảo
đảm và không còn đối tượng thu hồi (nợ tồn đọng nhóm 2); (iii) Nợ tồn đọng có tài
sản bảo đảm nhưng con nợ đang còn hoạt động, tồn tại (nợ tồn đọng nhóm 3). [10]
Từ năm 2005 đến nay, nợ xấu của các NHTM được xác định theo sát thông
lệ quốc tế (phân loại căn cứ vào thực trạng kinh doanh và khả năng trả nợ của khách
hàng chứ không chỉ căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản cấp tín dụng) Theo đó,
các khoản nợ của NHTM phân loại theo 05 nhóm nợ có thể dựa trên phương pháp
phân loại nợ định lượng hoặc định tính: (i) Nợ nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn. Các
khoản nợ trong hạn mà NHTM đánh giá đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi
đúng thời hạn. Khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 khi khách hàng trả đầy
đủ nợ gốc và lãi, lãi treo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối
với các khoản nợ trung và dài hạn, ba tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được
NHTM đánh giá là có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời
hạn đã được cơ cấu lại; (ii) Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm các khoản nợ quá hạn
dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong thời hạn theo thời hạn
cơ cấu lại. Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2; (iii) Nhóm 3: Nợ dưới tiêu
chuẩn, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ khác
được phân vào nhóm 3; (iv) Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm các khoản nợ quá hạn
dưới 180 – 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 – 180 ngày
theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5. [12]
Như vậy, nếu phân loại theo phương pháp định lượng nợ xấu được các
NHTM Việt Nam phân loại vào ba nhóm cuối, và là các khoản nợ có thời gian quá
hạn từ 90 ngày trở lên.

1.1.3. Các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
Việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến nợ xấu luôn là vấn đề tiên quyết trong
hoạt động nghiên cứu pháp luật về nợ xấu và xử lý nợ xấu. Thành tựu nghiên cứu
các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu sẽ tạo tiền đề để giới lập pháp ban hành các quy


10

phạm pháp luật phù hợp để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả. Tựu chung nguyên
nhân dẫn đến nợ xấu bao gồm các nguyên nhân khách quan và chủ quan sau đây:
1.1.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Các nguyên nhân chủ quan được hiểu là những nguyên nhân bắt nguồn từ
chính mỗi ngân hàng. Các nguyên nhân chủ quan bao gồm:
Thứ nhất, hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn thừ khâu thẩm định quá hời
hợt của bộ phận tín dụng. Do không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của
khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà họ đang
kinh doanh, không xác định được nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có
thể đưa ra một mức cho vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ Ngân hàng đôi
khi còn hời hợt trong phần kiểm tra mục đích sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện
kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Hay các Ngân
hàng cũng không đánh giá được hiệu quả của đồng vốn đó như thế nào vì họ quan
niệm khi bỏ đồng vốn ra cho vay là hết nghĩa vụ, trách nhiệm, họ chỉ việc ngồi chờ
đồng vốn đó lớn lên mà quên hay cố tình quên không làm một động tác nữa là luôn
giám sát quỹ đạo của đồng vốn xoay chuyển sao cho nó luôn khép kín. Không ít
khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần
vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dung cho mục đích sửa nhà, mua sắm
vật dụng, thậm chí là tiêu sài cá nhân… Đến khi vốn đầu tư kinh doanh thu lỗ,
không còn nguồn khác để trả nợ Ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư
cách khách hàng là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của

khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
Bên cạnh đó, chính mỗi ngân hàng cũng đã buông lỏng kỷ cương, kỷ luật trong
kiểm soát rủi ro khi cho vay, điển hình là các khoản cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản. Ngân hàng trực tiếp có trách nhiệm đối với các khoản nợ xấu trong hoạt động
cho vay do không tiến hành thẩm định chặt chẽ các khoản vay có liên quan tới doanh
nghiệp thuộc khu vực Nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước, các chương trình, dự
án đầu tư theo chỉ định của Chính Phủ (bao gồm các chỉ định chính thức hoặc chỉ định
ngầm của Chính phủ); cho vay đối với doanh nghiệp là sân sau của các thành viên Hội
đồng quản trị, Ban Giám đốc hoặc cho vay đối với người thân quen của lãnh đạo các
ngân hàng thương mại; cho vay tràn lan đối với các khoản mục đầu tư vào chứng
khoán, bất động sản mà không có kiểm soát rủi ro đối với các dự án đầu tư này.
Việc thẩm định tài sản thế chấp có vấn đề do tại thời điểm cho vay chưa có
sự thẩm định đúng hoặc chưa có định vị đúng diễn biến kinh tế của tài sản thế chấp


11

đó nên nhiều khoản thế chấp có giá trị có thể sụt giảm mạnh khi bong bóng tài sản
xì hơi hoặc được định giá quá cao hoặc rủi ro chính sách. Một số ngân hàng chưa
thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát vốn cho vay. Một bộ phận cán bộ ngân hàng
không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về cho vay dẫn đến vốn vay sử dụng
không đúng mục đích (cho vay tín dụng đen), sai về thủ tục pháp lý (sử dụng giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất giả để vay vốn), nhiều doanh nghiệp khó khăn về
hoạt động sản xuất, kinh doanh và khả năng tài chính trong thời gian dài nhưng
chậm phát hiện, nên chưa có biện pháp kịp thời để thu hồi nợ.
Khả năng quản trị của một số ngân hàng còn nhiều bất cập so với quy mô:
Một số ngân hàng thường hay sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và
dài hạn, dẫn đến độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, mất tính thanh
khoản và tiểm ấn rủi ro thanh toán rất lớn. Bên cạnh đó, các ngân hàng cạnh tranh
nhau bằng tăng lãi suất huy động và điều tất yếu là lãi suất cho vay cũng sẽ tăng làm

cho các khách hàng đi vay rơi vào tình trạng phải trả lãi cao, cứ như thế kéo dài
khách hàng sẽ mất dần khả năng trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ xấu tăng mạnh.
Thứ hai, các ngân hàng chưa áp dụng đầy đủ các chuẩn mực phân loại nợ
theo tiêu chuẩn quốc tế, có thể tạo tâm lý xem nhẹ nợ xấu và các rủi ro kèm theo.
Có rất nhiều dấu hiệu về tình trạng chưa thực sự bền vững của các NHTM. Sự mất
cân đối giữa huy động vốn chủ yếu là ngắn hạn (80% tổng nguồn vốn) và cho vay
chủ yếu là trung và dài hạn (70% tổng dư nợ) là đặc điểm rủi ro của các NHTM
Việt Nam hiện nay. Các ngân hàng cần xem lại việc cơ cấu kỳ hạn và cơ cấu đồng
tiền trong bảng cân đối tài chính. Tình trạng sai lệch quá mức về cơ cấu thời hạn có
thể thấy ở việc nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm một tỷ
trọng rất lớn, khoảng 75% song được các NHTM sử dụng một tỷ trọng quá mức để
cho vay trung và dài hạn. Tình trạng này gây rủi ro lớn, đặc biệt khi nguồn vốn cho
vay các dự án có hiệu quả thấp, thiếu sự thẩm định cần thiết. Mức sai lệch về cơ cấu
đồng tiền rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là trong bối cảnh tình
trạng đô la hóa cao và tài khoản vốn được tự do hóa dần ở Việt Nam. [17, tr.32]
Thứ ba, tình trạng sở hữu chéo - ngân hàng này là chủ sở hữu (cổ đông) của
ngân hàng kia và ngược lại, hoặc một cổ đông có các cổ phần tại nhiều ngân hàng,
tập đoàn kinh tế khác nhau đã tạo ra các nhóm lợi ích có thể chi phối thị trường, làm
lu mờ tính minh bạch về quyền tài sản và quyền sở hữu trong cầu trúc tài chính của
ngân hàng. Các ngân hàng ngoài hoạt động chính là huy động vốn và cho vay thì
còn thực hiện hoạt động đầu tư. Chính vì sở hữu chéo lẫn nhau nên một số ngân


12

hàng thay vì dùng vốn huy động để cho vay thúc đẩy sản xuất kinh doanh thì lại ủy
thác cho các công ty con đầu tư vào bất động sản, chứng khoán, mua cổ phần của
ngân hàng khác. Sở hữu chéo không phù hợp sẽ đem lại nhiều rủi ro, khi đó làm
chất lượng tín dụng giảm xuống dẫn đến nợ xấu.
1.1.3.2. Nguyên nhân khách quan

Các nguyên nhân khách quan được hiểu là nguyên nhân tác động từ bên
ngoài mỗi ngân hàng và hệ thống ngân hàng. Các nguyên nhân này có thể bắt nguồn
từ chủ thể quản lý vĩ mô là Nhà nước, hoặc từ phía khách hàng vay vốn là tổ chức,
cá nhân. Cụ thể như sau:
a) Nhóm nguyên nhân từ phía chủ thể quản lý vĩ mô là Nhà nước
Nhóm nguyên nhân này bao gồm:
Một là, do sự không hợp lý trong việc ban hành và tổ chức thực thi chính sách
vĩ mô, các quy định pháp luật của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực kinh doanh ngân
hàng. Việc điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô không nhất quán sẽ không tạo được
định hướng cho sự phát triển lâu dài của ngành ngân hàng dẫn đến hiện tượng chạy
theo lợi nhuận, khó kiểm soát thanh tra giám sát góp phần làm nợ xấu tăng cao.
Hai là do chưa xác định rõ vị trí quan trọng của Ngân hàng nhà nước, cơ
quan quản lý về chính sách tiền tệ góp vai trò cốt yếu trong việc tái cơ cấu hệ thống
ngân hàng, điều chỉnh thanh khoản, giám sát hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng. Mặt khác, các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô chưa có sự định
hướng nguồn vốn tín dụng tới những khu vực kinh tế thực sự có hiệu quả trung và
dài hạn, thả lỏng tăng trưởng tín dụng để các NHTM trở thành trung gian tích cực
của việc đầu cơ lợi ích ngắn hạn như chứng khoán, bất động sản, ngoại tệ mạnh đã
tạo ra cơn sốt thị trường ảo và gia tăng nợ xấu đáng kể.
Ba là, sự giám sát của các cơ quan quản lý chức năng chưa chặt chẽ.
Việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, giám sát an toàn vĩ mô yếu kém;
chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ. Giám sát vẫn chưa bao quát được hoạt động của
các tập đoàn kinh tế, các tập đoàn kinh tế, tài chính xuyên quốc gia. Giám sát các
rủi ro sở hữu chéo (giữa các Ngân hàng, các định chế tài chính, tập đoàn và tổng
công ty) yếu do thiếu minh bạch, công khai, đặc biệt thiếu sự phối kết hợp, liên
thông trong giám sát tài chính. [17, tr.5]
Hiện cũng còn thiếu khuyết các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô
và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các mô hình
phân tích định lượng, dự báo, kiểm định như (mô hình cảnh báo khủng hoảng, kiểm



13

định khả năng chịu đựng các cú sốc tài chính - tiền tệ), giá trị có thể tổn thất cho cả
hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính. Điều này khiến việc áp dụng các
chỉ tiêu an toàn như tiêu chuẩn nợ xấu không mang lại kết quả như mong muốn, gây
ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt
động tại Việt Nam. Bản thân các cơ quan thanh tra giám sát còn hạn chế, trên cả
phương diện kỹ thuật lẫn nguồn nhân lực. Đến nay, công nghệ thu thập, xử lý thông
tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa còn lạc hậu. Ngoài ra, hoạt động giám
sát các định chế tài chính ngày càng trở nên khó khăn do sự gia tăng các sáng tạo tài
chính và công nghệ thông tin - truyền thông, tự do hóa kinh tế - tài chính, các bộ
phận của hệ thống tài chính ngày càng đan xen chặt chẽ và các Ngân hàng cũng
ngày trở nên đa năng, đa quốc gia. Điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát phải có
tầm nhìn toàn cầu, khu vực và sự phối hợp chặt chẽ từ việc lập chiến lược phát triển
tổng thể hệ thống tài chính, vừa hợp tác thường xuyên trong việc quản lý, xử lý
những vấn đề của thị trường và giám sát một cách có hiệu quả các đối tượng tham
gia và hoạt động đan xen trên thị trường.
b) Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
Nhóm nguyên nhân này bao gồm:
Một là, do khách hàng vay không coi trọng uy tín của mình trong quan hệ
hợp đồng, sẵn sàng vi phạm cam kết với ngân hàng khi có dấu hiệu khó khăn về tài
chính. Điều này đặc biệt hay xảy ra đối với khách hàng vay là cá nhân, hộ gia đình
hoặc tổ hợp tác, thậm chí là doanh nghiệp tư nhân.
Hai là, do khả năng quản trị yếu kém của khách hàng vay là chủ thể kinh
doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước. Hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam đều không được đào tạo đầy đủ, cơ bản kiến thức về kinh tế thị
trường và quản trị doanh nghiệp. Sự yếu kém về quản trị thể hiện trong quản trị
nguồn vốn, quản trị kinh doanh, quản trị rủi ro và quản trị sự thay đổi trong thị trường
hội nhập quốc tế hiện nay. Việc thiếu kiến thức, ít kinh nghiệm và không có khả năng

chịu đựng các va đập trong kinh doanh đã dẫn đến hậu quả là gánh chịu rủi ro về tài
chính nặng nề. Từ đó dẫn đến việc không có khả năng trả nợ vốn vay cho ngân hàng.
Ba là, do khách hàng vay để kinh doanh và đầu tư dàn trải, không có sự
nghiên cứu bài bản, tầm nhìn hạn hẹp và hám lợi trước mắt. Rất ít các doanh nghiệp
Việt biết rõ tầm nhìn và giới hạn của công ty để có một kế hoạch phát triển lâu dài và
bền vững. Phần lớn các doanh nghiệp thường kinh doanh theo vụ việc một cách chộp
giật, lấy ngắn nuôi dài, đi tắt đón đầu... Các hợp đồng kinh tế có được thường dựa vào


14

quan hệ và quen biết. Cách làm như vậy có thể tạo hiệu ứng nhất thời nhưng không
có tính bền vững và làm cho doanh nghiệp đi quá xa ra khỏi mục tiêu và dễ vướng
vào khó khăn chung của bối cảnh thực tế. Sự đầu tư vào những lĩnh vực không có sự
hiểu biết kỹ, không nghiên cứu thị trường cũng là một trong những nguyên nhân cơ
bản hàng đầu khiến tài chính doanh nghiệp đi đến chỗ kiệt quệ. Đơn cử như việc đầu
tư vào sàn chứng khoán, sàn vàng, bất động sản là những ví dụ sinh động nhất cho
việc đầu tư theo “hiệu ứng đám đông” của các doanh nghiệp Việt gây ra những hệ lụy
không mong muốn cho nền kinh tế, góp phần đẩy tỷ lệ nợ xấu lên cao.
Với những yếu kém nội tại của doanh nghiệp trong cuộc khủng hoảng của kinh
tế toàn cầu đã khiến cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều
khó khăn, chi phí đầu vào cao, hiệu quả kinh doanh kém giảm khả năng về tài chính,
nên chậm trả nợ ngân hàng. Thêm vào đó, sức mua của thị trường suy giảm, hàng hoá
tồn kho lớn khó tiêu thụ, nguồn tiền để trả nợ không thực hiện được theo kế hoạch xây
dựng trong dự án, phương án vay vốn nên doanh nghiệp cũng không có khả năng trả
nợ đúng hạn. Chưa kể đến một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh bị thua lỗ như: bất
động sản, chứng khoán... và các công trình có nguồn vốn ngân sách bị đình, hoãn, giãn
tiến độ theo chủ trương cắt giảm đầu tư công của Chính phủ, dẫn đến doanh nghiệp xây
dựng, kinh doanh bất động sản gặp khó khăn do đã vay vốn ngân hàng để thi công mà
không thu hồi được vốn. Tất cả những nguyên do trên tạo nên tỷ trọng lớn dư nợ cho

vay dựa vào tài sản thế chấp là bất động sản, nay thị trường bất động sản đóng băng
khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc xử lý tài sản để thu hồi nợ.
1.1.4. Tác động của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại đối với nền kinh tế - xã hội
1.1.4.1. Tác động của nợ xấu đối với ngân hàng
Thực tế cho thấy nợ xấu có tác hại rất lớn đối với ngân hàng. Điều đó được
thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, khi gặp nợ xấu, Ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn,
điều này làm cho Ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ
thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm Ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả và
thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi
tiền, ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng.
Ngoài ra, đối với cấp dưới hay các nhân viên ngân hàng, do gặp phải rủi ro
tín dụng nên không có chế độ đãi ngộ tốt đối với nhân viên, vì thế những người có


15

năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho Ngân hàng.
Thứ hai, nợ xấu làm giảm uy tín của Ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới, tình hình tài chính và đặc biệt
các khoản nợ xấu của Ngân hàng đang ngày càng được minh bạch hóa hơn, người
dân và các tổ chức tín dụng khác có thể dễ dàng được tiếp cận với những con số
này. Khi đó, nợ xấu sẽ khiến dân chúng thiếu lòng tin, nguồn vốn huy động sẽ giảm
sút. Các đối tác (đặc biệt là các tổ chức tín dụng nước ngoài) sẽ giảm các mối quan
hệ làm ăn, đẩy Ngân hàng vào tình trạng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Thứ ba, nợ xấu làm giảm lợi nhuận và có khả năng khiến ngân hàng phá sản:
Gia tăng nợ xấu sẽ kéo theo việc ngân hàng phải tăng cường sử dụng dự phòng rủi ro
cho các khoản nợ này khiến lợi nhuận giảm và ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của

ngân hàng. Điều này sẽ kéo theo rủi ro vỡ thanh khoản, vỡ cơ cấu kỳ hạn của ngân
hàng trong trường hợp không thu hồi được nợ. Ngoài ra, những ngân hàng có tỷ lệ nợ
xấu cao thì cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và danh tiếng, đồng thời, khi
những ngân hàng này gặp khó khăn nhất định thì khả năng xảy ra đổ vỡ cũng cao hơn
những ngân hàng khác. Và khi không đảm bảo được tính thanh khoản thì việc đối mặt
với nguy cơ phá sản chỉ là sớm muộn. Do những mối liên hệ trên thị trường tài chính
nói chung và thị trường vay mượn tiền giữa các ngân hàng nói riêng, khi bất kỳ một
ngân hàng nào gặp những rủi ro trên cũng đều có thể ảnh hưởng tới cả hệ thống.
Thứ tư, nợ xấu làm giảm cơ hội vươn ra thị trường tài chính thế giới: Mở cửa và
hội nhập là xu thế tất yếu của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Khi mức độ tiền tệ
hóa nền kinh tế của các nước ngày càng cao thì hoạt động của ngành tài chính nói
chung và của ngân hàng nói riêng càng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Việc gia
nhập vào mối trường kinh doanh kinh tế quốc tế các Ngân hàng sẽ được các tổ chức
Tài chính, Kiểm Toán uy tín trên thế giới xếp hạng tín nhiệm hàng năm. Hệ quả của
việc xếp hạng này sẽ tác động đến khả năng hợp tác kinh doanh với đối tác nước ngoài,
khả năng phát hành trái phiếu huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế của các
ngân hàng. Yếu tố nợ xấu là yếu tố tiên quyết trong việc đánh giá tín nhiệm kể trên.
1.1.4.2. Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế - xã hội
Hệ thống tài chính- ngân hàng là xương sống của nền kinh tế, khi nợ xấu gây
tác hại tới ngân hàng hệ quả là nó sẽ làm cho nền kinh tế bị ảnh hưởng một cách
tiêu cực, kéo theo các vấn đề xã hội. Nghiên cứu tác hại của nợ xấu đối với nền kinh
tế - xã hội cho phép chỉ ra các vấn đề sau:
Thứ nhất, nợ xấu làm nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất


16

nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động
doanh nghiệp, các ngành và cá nhân, vì vậy khi một Ngân hàng lâm vào tình trạng
nợ xấu quá nhiều hay bị phá sản thì người gửi dân sẽ rút hết tiền và gửi ở các ngân

hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản
sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả
lương dẫn đến đời sống của công nhân gặp khó khăn. Để cắt giảm chi phí, họ phải
cắt giảm nhân công khiến thất nghiệp gia tăng.
Thứ hai, khi nợ xấu ngân hàng gia tăng, các ngân hàng không mặn mà với việc
cho vay đối với doanh nghiệp, dẫn đến hàng hóa, dịch vụ khan hiếm do các doanh
nghiệp không có vốn để sản xuất làm giá cả tăng, người tiêu dùng lại càng thắt chặt
chi tiêu hơn nữa và sức mua liên tục giảm. Cứ như vậy, nó tạo thành một vòng luẩn
quẩn trì trệ nền kinh tế, và dẫn đến suy thoái. Như thế, sự hoảng loạn của các Ngân
hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, từ đó gây mất ổn định xã hội.
Thứ ba, khi nợ xấu ngân hàng gia tăng, do tác động dây chuyền mà nợ xấu
của ngân hàng tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó
làm giảm mức độ tăng trưởng kinh tế, dẫn đến đời sống nhân dân khó khăn, kinh tế
trì trệ, chậm phát triển. Đây là hậu quả xấu nhất mà nền kinh tế và xã hội phải gánh
chịu, dẫn đến các bất ổn về chính trị, an ninh xã hội.
1.1.5. Vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.1.5.1. Khái niệm xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Bên cạnh khái niệm nợ xấu, khái niệm về xử lý nợ xấu cũng được đặt ra và
được nghiên cứu trong khoa học pháp lý về nợ xấu.
Theo nghĩa rộng, xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM là việc các
chủ thể có liên quan (Nhà nước và các NHTM) sử dụng kết hợp các biện pháp vĩ mô
và vi mô nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu của mỗi ngân hàng và cả hệ thống ngân
hàng, góp phần lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng và thúc đẩy tăng trường kinh tế,
ổn định xã hội. Theo nghĩa này, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
NHTM không phải chỉ là công việc của mỗi ngân hàng mà còn là trách nhiệm chung
của Nhà nước và xã hội, trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, vì có
những giải pháp xử lý nợ xấu vượt quá khả năng của mỗi ngân hàng và chỉ có Nhà
nước mới làm được. Cũng theo nghĩa này, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay
của NHTM có phạm vi rất rộng, bao gồm việc xử lý nợ xấu trong cả hệ thống ngân

hàng chứ không phải chỉ là xử lý nợ xấu trong phạm vi một ngân hàng cụ thể.


17

Theo nghĩa hẹp, xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM là việc
NHTM sử dụng những biện pháp nghiệp vụ tài chính lẫn công cụ pháp lý nhằm
giảm tỷ lệ các khoản nợ được coi là nợ xấu của ngân hàng, góp phần lành mạnh hóa
tình hình tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng trong nền
kinh tế. Theo nghĩa này, xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM chỉ là
công việc có tính kỹ thuật - nghiệp vụ của từng ngân hàng riêng lẻ, vì thế việc xử lý
nợ xấu chỉ do mỗi ngân hàng chủ động thực hiện chứ không phụ thuộc vào Nhà
nước hay các chủ thể khác.
Trong khuôn khổ luận văn này, học viên tiếp cận khái niệm xử lý nợ xấu
trong hoạt động cho vay của ngân hàng theo nghĩa hẹp, nghĩa là chỉ tập trung làm rõ
vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của mỗi ngân hàng thương mại, với tư
cách là một chủ thể kinh doanh độc lập.
1.1.5.2. Đặc điểm của xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
Từ các phân tích nêu trên, có thể cho rằng xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của ngân hàng mang những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, chủ thể tham gia xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng phải là chủ nợ - chính là các ngân hàng, bởi vì ngân hàng là chủ thể chính có
sự liên quan trực tiếp đến quyền lợi và lợi ích trong việc xử lý các khoản nợ đối với
con nợ. Ngoài ra, các chủ thể tham gia XLNX còn có thể là các chủ nợ thứ cấp (khi
khoản nợ đã được chuyển giao), các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tòa án, cơ
quan thi hành án...) cùng hỗ trợ ngân hàng trong việc thu hồi nợ để giảm tỷ lệ nợ
xấu ngân hàng.
Hai là, mục đích của việc XLNX là nhằm thu hồi các khoản nợ theo cam kết
tại hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ. Cho vay là hoạt động kinh doanh,

tìm kiếm lợi nhuận nhưng thu hồi nợ chủ yếu là thu hồi được tối đa các khoản nợ
vay, giảm chi phí thấp nhất trong quá trình xử lý nợ, nhanh chóng chuyển TSBĐ
thành tiền để có thể lành mạnh hóa tài chính của ngân hàng và hệ thống ngân hàng,
giữ vững ổn định nền kinh tế xã hội.
Ba là, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng đòi hỏi chủ
thể xử lý nợ xấu phải kết hợp giữa các biện pháp nghiệp vụ kinh tế tài chính với các
công cụ pháp lý, giữa các biện pháp có tính phòng ngừa rủi ro với các biện pháp
khắc phục rủi ro. Sự kết hợp giữa các biện pháp này sẽ cho phép đem lại hiệu quả
cao nhất cho quá trình xử lý nợ xấu của ngân hàng.


18

Bốn là, xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng là một thủ tục
đặc biệt. Sở dĩ, việc XLNX được xem là một thủ tục đặc biệt vì sẽ không có một
“quy định cứng” nào để áp dụng cho tất cả các khoản nợ xấu. Các biện pháp XLNX
sẽ được xây dựng và quyết định áp dụng với con nợ sau khi ngân hàng đã xem xét
đầy đủ các đặc điểm, tính chất, nguyên nhân dẫn đến nợ xấu kết hợp với việc đánh
giá ý thức, khả năng hoàn trả nợ của người vay. Ngân hàng căn cứ trước hết vào
những thỏa thuận xử lý nợ mà hai bên đã cam kết trong Hợp đồng tín dụng. Bên
cạnh đó, ngân hàng cũng phải xét đến yếu tố số lượng vay và tầm ảnh hưởng của
khoản nợ đến tình hình hình kinh tế xã hội chung của quốc gia để từ đó các bên có
sự nhận định khái quát nhất về nợ. Sau cùng, các biện pháp XLNX phù hợp nhất sẽ
được đưa ra với từng khoản nợ. [17, tr.12]
1.1.5.3. Vai trò của việc xử lý nợ xấu và các nguyên tắc xử lý nợ xấu
Vai trò của việc xử lý nợ xấu
Về lý thuyết, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng có
những tác động đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó đáng kể nhất là
ngân hàng; khách hàng vay vốn và đối với nền kinh tế - xã hội.
Đối với ngân hàng thương mại, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của

ngân hàng giúp lành mạnh hóa tình hình tài chính và đảm bảo tính an toàn cao của
hoạt động Ngân hàng. Giải quyết được nợ xấu cũng tạo điều kiện cho tăng trưởng tín
dụng, nâng doanh thu cho NHTM. Trong quá trình xử lý nợ, NHTM có cơ hội rà
soát, đánh giá lại tình hình khách hàng từ đó phân loại khách hàng và rút ra những
kinh nghiệm để xây dựng quy trình quản trị rủi ro áp dụng cho tổ chức của mình.
Đối với các khách hàng vay vốn nói chung và doanh nghiệp vay vốn nói
riêng, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng nhằm lành mạnh
hóa bảng cân đối tài sản của các NHTM và doanh nghiệp, qua đó sẽ đẩy mạnh tín
dụng vào nền kinh tế, tháo gỡ sự ngưng trệ lưu chuyển vốn giữa Ngân hàng và
Doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế xã hội, việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng giúp đưa một nguồn vốn nhất định quay trở lại nền kinh tế. Nền kinh tế
suy kiệt nguồn vốn không phải do ngân hàng cố tình đóng băng tín dụng mà do
hoàn cảnh sản xuất đình đốn, kinh tế tăng trưởng thấp và nợ xấu tăng cao. Thực tế
cho thấy những doanh nghiệp cần tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hầu hết đều là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có khả năng chi trả hoặc chưa thể thanh
toán được những món nợ xấu cho Ngân hàng.


×