Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.96 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ LOAN

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ, CHỒNG
VÀ CÁC CON KHI LY HÔN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HÀ THỊ MAI HIÊN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô Khoa sau
đại học Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ em trong
suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn gia đình, các đồng nghiệp Văn phòng
luật sư Kiều Vân và cộng sự đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa học. Đặc biệt,
em xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất đến Phó giáo sư, Tiến sĩ Hà Thị Mai Hiên –
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.


Tác giả luận văn

Lê Thị Loan


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hà Thị Mai Hiên. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả Luận văn

Lê Thị Loan


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ, CHỒNG VÀ CÁC CON KHI LY HÔN ......... 6
1.1. Ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn tới vợ, chồng và các con ..................... 6
1.1.1. Khái niệm ly hôn ..................................................................................... 6
1.1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn tới vợ, chồng và các con .............................. 7
1.2. Khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly
hôn

.................................................................................................................. 8


1.3. Vai trò, nội dung các biện pháp của pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn ............................... 9
1.3.1. Vai trò của pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ, chồng và các con khi ly hôn .................................................................. 9
1.3.2. Các biện pháp của pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn ................................................ 10
1.4. Khái lược pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và
các con khi ly hôn qua các thời kỳ ……………………………………………………………………………………………….12
1.4.1. Thời kỳ phong kiến………………………………………………………………………………………………..12

1.4.2. Thời kỳ Pháp thuộc ............................................................................... 13
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954 ....................................................... 14
1.4.4. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975 ....................................................... 15
1.4.5 Thời kỳ 1975 đến nay ............................................................................. 17
Chương 2 THỰC TRẠNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ, CHỒNG VÀ CÁC
CON KHI LY HÔN ............................................................................................. 19
2.1. Thực trạng quy định Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, chồng khi ly hôn .......................................................... 19


2.2. Thực trạng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hôn ...................................... 29
Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ, CHỒNG VÀ CÁC CON KHI LY
HÔN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 38
3.1. Thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án ly hôn với việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng và các con .................................................................... 38
3.1.1. Trong công tác hòa giải các vụ án hôn nhân và gia đình ....................... 38
3.1.2. Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử ............................................. 39

3.2. Thực tiễn công tác thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, chồng và các con khi ly hôn ......................................................................... 45
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn ............................. 48
3.3.1. Về vấn đề hoàn thiện pháp luật ............................................................. 48
3.3.2. Về công tác áp dụng pháp luật; công tác thi hành án và công tác tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật ............................................................... 51
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kết hôn là cơ sở, tiền đề để xác lập quan hệ vợ chồng và quan hệ gia đình. Khi
nam nữ tiến tới hôn nhân đều mong muốn và hướng tới xây dựng một gia đình hạnh
phúc, bền vững. Tuy nhiên, không phải gia đình nào cũng đạt được điều đó. Bởi khi
cuộc sống vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được thì ly hôn là lối thoát cho cuộc sống bế tắc,
không còn tình cảm của hai vợ chồng. Nhưng hậu quả pháp lý và xã hội mà ly hôn để
lại ảnh hưởng rất lớn tới vợ, chồng và các con. Hậu quả pháp lý của ly hôn không chỉ
làm chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ chồng trước pháp luật mà còn làm phát sinh
hàng loạt các vấn đề về thanh toán tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ
chồng, chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Các vấn đề đó có tác động và ảnh hưởng
không nhỏ tới lợi ích của các bên, của gia đình và sự ổn định của xã hội.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn ngày càng
gia tăng đã ảnh hưởng ít nhiều tới quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng và các con
nói riêng, đồng thời cũng ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng gia đình dân chủ, hòa

thuận, hạnh phúc và bền vững nói chung.
Vì vậy, cần phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật mà cụ thể là Luật hôn nhân
và gia đình. Đồng thời, cần có sự hoạt động hiệu quả của Tòa án trong việc áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn cũng như công tác thi hành án của
cơ quant thi hành án nhằm hạn chế những tác động tiêu cực mà ly hôn mang lại
cũng như bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con. Chính vì
những lý do đã nêu, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn” để làm công trình
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau, đề cập
trực tiếp hoặc có liên quan tới về vấn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và
các con khi ly hôn, tiêu biểu có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:


2

Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:
"Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000", Luận án Tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004; "Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học Luật Hà Nội;
"Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2000", Luận văn Thạc sĩ luật học, của Phạm Thị Ngọc Lan,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2008... Những luận án, luận văn trên các tác giả đã
đi vào nghiên cứu về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và ly hôn, đề cập
tới vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ.
Nhóm khóa luận tốt nghiệp: Có thể kể đến:
"Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân và

gia đình Việt Nam năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Lê Thu Lý, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2008; "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly
hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp của
Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; "Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn", Khóa luận tốt nghiệp, của
Phạm thị Ngân, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012… Các tác giả đã đi vào nghiên
cứu những quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em nói chung hoặc quyền lợi của
trẻ em nói riêng khi vợ chồng ly hôn.
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luật
khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2002; Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Tưởng Duy Lượng, Bình luận một số án
dân sự và Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Đinh Thị
Mai Phương, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và
Gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2009. Ngoài ra còn một số giáo


3

trình và sách bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình. Hầu hết các công trình
này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân
và gia đình về quan hệ tài sản nói chung giữa vợ, chồng, chưa đề cập hoặc ít đề cập
đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên.
Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu thuộc
nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Tòa án nhân dân
(TAND), tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Luật học... Trong
đó phải kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Văn Cừ đăng trên tạp chí Luật học năm
2002 với nhan đề "Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu
chung hợp nhất theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, số 5; "Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ", bài viết của TS. Trần Thị Huệ, Đặc san Luật học, số
03/2004… Phần lớn các bài viết này chỉ đề cập tới một số vấn đề cụ thể của quan hệ
tài sản vợ chồng, vấn đề bảo vệ quyền lợi của phụ nữ theo pháp luật Hôn nhân và
gia đình nói chung mà chưa đề cập được cụ thể, chi tiết vấn đề bảo vệ quyền lợi
chính đáng của vợ, chồng và các con ly hôn.
Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về mối
quan hệ Hôn nhân và gia đình nhưng các công trình đó hoặc chủ yếu tập trung vào
một mảng cụ thể của quan hệ này (như bảo vệ quyền lợi của con hoặc của bà mẹ và
trẻ em khi ly hôn), hoặc nghiên cứu dưới góc độ tranh chấp về tài sản vợ chồng với
ý nghĩa lý luận và thực tiễn). Chưa có một công trình nào đề cập tới vấn đề bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn theo pháp luật Việt
Nam một cách đầy đủ và toàn diện. Chính vì những lý do đã nêu, tôi đã chọn đề tài
trên để làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là hệ thống pháp luật Việt nam với việc
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn trong đó tập
trung chủ yếu vào quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật trong hoạt động xét xử, và thực tiễn thi hành án.


4

Đồng thời nghiên cứu, đánh giá pháp luật Hôn nhân và gia đình mới ban hành năm
2014 để từ đó có sự so sánh, đối chiếu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 nhằm đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật hơn nữa
về việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đề tài tương đối phức tạp, nội dung phong phú và
có liên quan đến nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta. Nhưng trong
phạm vi Luận văn tôi xin đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

vợ, chồng và các con khi ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình, đặc biệt trú
trọng vào Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, thực tiễn xét xử án ly hôn cũng như
việc thi hành các bản án ly hôn có liên quan đến vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài khoa học được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài khoa học cũng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: Phương pháp lịch sử, tổng hợp, phân
tích, so sánh, đối chiếu… để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là khái quát các quy định của hệ thống
pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền, lợi ích của vợ, chồng và các con khi ly hôn;
đi sâu vào phân tích các quy định bảo đảm quyền và lợi ích của vợ, chồng và các
con khi ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nhận xét, đánh giá hoạt
động xét xử và thi hành án có liên quan đến vấn đề này để thấy được những vướng
mắc khi áp dụng pháp luật.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
-

Phân tích các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền, lợi ích của vợ, chồng và

các con khi ly hôn.
-

Phân tích, đánh giá các quy định về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

vợ, chồng và các con khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


5


-

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong hoạt động

xét xử, thực tiễn thi hành án để chỉ ra những tồn tại, vướng mắc.
-

Nghiên cứu Luật Hôn nhân và gia đình mới ban hành năm 2014 đồng thời

so sánh với Luật Hôn nhân và gia đình 2000 để thấy được sự kế thừa và phát triển cũng
như những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn; đồng thời xem xét xem còn có
những vấn đề nào mà Luật Hôn nhân và gia đình mới ban hành chưa đề cập đến.
6. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ, chồng và các con khi ly hôn.
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn và một số kiến nghị.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ, CHỒNG VÀ CÁC CON KHI LY HÔN


1.1. Ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn tới vợ, chồng và các con
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, ly hôn là một mặt của quan hệ
hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu của
quan hệ hôn nhân và gia đình. Khi đời sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã
hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hôn nhân không đạt được thì vấn đề ly
hôn được đặt ra nhằm giải phóng cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia
đình thoát khỏi những xung đột, bế tắc trong đời sống chung.
Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà chỉ có vợ,
chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, quyền ly hôn
của vợ, chồng phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật nhằm
hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây
hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Đứng trên lập trường quan điểm Chủ nghĩa Mác
– Lê nin, khoản 8 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu
của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng”.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật Hôn nhân và gia đình nói
riêng, việc đưa ra khái niệm đầy đủ về ly hôn có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở cho
việc xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh của
các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình về vấn đề ly hôn và các vấn đề khác phát
sinh từ ly hôn. Theo Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp thì ly hôn được hiểu là:
“Chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án nhân dân công nhận hoặc quyết định theo
yêu cầu của vợ chồng hoặc của cả hai vợ chồng”. Đây là cách giải thích được sử
dụng nhiều trong công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp luật và giải thích
cho các đương sự có liên quan trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn.


7

Theo khoản 14, điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Ly hôn là

việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án”. Có thể nói đây là khái niệm ngắn gọn, súc tích, nhưng đầy đủ vì không bó
buộc về đối tượng có quyền yêu cầu ly hôn như các khái niệm trước đây (Chỉ vợ,
chồng hoặc cả hai vợ chồng).
1.1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn tới vợ, chồng và các con
Ly hôn dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định tới vợ, chồng và các con:
làm chấm dứt quan hệ nhân thân, phát sinh vấn đề chia tài sản vợ chồng và vấn đề
cấp dưỡng giữa vợ, chồng, đặc biệt là hậu quả pháp lý không nhỏ tới các con.
Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng mang yếu tố tình cảm là nét đặc trưng gắn
liền với bản thân họ mà không thể chuyển giao cho người khác được. Quan hệ nhân
thân này chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, do đó sau khi quyết định ly hôn của Tòa
án có hiệu lực, quan hệ vợ chồng hoàn toàn chấm dứt, vợ, chồng có quyền kết hôn
với người khác.
Quan hệ tài sản của vợ chồng được thiết lập khi có quan hệ hôn nhân. Ngoài
việc yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau thì việc cùng nhau
tạo dựng nên khối tài sản chung là điều hoàn toàn hợp lẽ tự nhiên bởi đó là nguồn
nuôi sống gia đình. Và họ cũng có những tài sản riêng thuộc quyền sở hữu riêng của
mỗi người. Do đó, khi hôn nhân chấm dứt làm vấn đề chia tài sản chung, tài sản
riêng của vợ, chồng phát sinh. Làm thế nào để chia tài sản cho vợ chồng một cách
công bằng, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên, đồng thời vẫn bảo
đảm được quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em là điều rất cần thiết và quan trọng.
Ngoài phát sinh việc chia tài sản của vợ chồng thì sự kiện ly hôn còn làm
phát sinh vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Việc quy định vấn đề này đã góp
phần đảm bảo quyền lợi cho hai bên vợ chồng, đặc biệt là người phụ nữ - đối tượng
hay chịu nhiều thiệt thòi khi ly hôn sẽ có cuộc sống đảm bảo sau ly hôn.
Đây tuy là một quy định của pháp luật nhưng lại thể hiện tính nhân văn sâu sắc, có
ý nghĩa giáo dục và nâng cao giá trị đạo đức xã hội, thể hiện tinh thần tương thân
tương ái, thể hiện tình nghĩa vợ chồng ngay cả khi quan hệ vợ chồng đã không còn
được pháp luật bảo hộ, thể hiện sự quan tâm của xã hội tới vấn đề này.



8

Khi vợ chồng ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyết
thống hay quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn không hề thay đổi. Vì vậy,
trên phương diện pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau sẽ
chấm dứt nhưng các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con thì vẫn không thay
đổi. Tuy nhiên, cha mẹ ly hôn, con cái sẽ là người phải chịu nhiều đau khổ, thiệt
thòi nhất về mặt tâm lý, tình cảm cũng như sự phát triển bình thường của đứa trẻ
dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ học đi lang thang, trẻ em phạm tội… Nguyên nhân
chính là do cha mẹ ly hôn không quan tâm tới việc chăm sóc, giáo dục con đã trở
thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Vì vậy, vợ chồng ly hôn đã gây hậu quả
pháp lý không nhỏ tới các con.
Như vậy, ly hôn dẫn đến những hậu quả pháp lý tới vợ, chồng và các con:
làm chấm dứt quan hệ nhân thân, phát sinh vấn đề chia tài sản vợ chồng và vấn đề
cấp dưỡng giữa vợ, chồng; hậu quả pháp lý tới các con. Vì vậy việc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn chính là nhìn nhận ở góc độ
hậu quả pháp lý của ly hôn.
1.2. Khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các
con khi ly hôn
Để xây dựng được khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng
và các con khi ly hôn thì trước hết cần tìm hiểu thế nào là “bảo đảm”; thế nào là
“quyền” và thế nào là “lợi ích hợp pháp”.
- Khái niệm “bảo đảm”:
Về mặt ngôn ngữ, theo từ điển Tiếng Việt thì “bảo đảm” được hiểu là sự chắc
chắn thực hiện được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để thực hiện được một việc cụ
thể nào đó. Đây là khái niệm chung nhất cho mọi lĩnh vực. Còn khái niệm “bảo
đảm” ở đây được nghiện cứu trong phạm vi “quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng
và các con khi ly hôn”, có nghĩa là nó được giới hạn trong lĩnh vực pháp luật cụ thể
đó là pháp luật hôn nhân và gia đình. Do đó, về mặt pháp lý, theo từ điển Luật học thì

“bảo đảm pháp luật” là việc sử dụng pháp luật như một phương thức quản lý xã hội,
quản lý Nhà nước thông qua việc chuyển hóa nhu cầu quản lý, điều chỉnh xã hội


9

thành những quy phạm, những chế định pháp luật cụ thể. Nói cách khác, bảo đảm
pháp luật là việc Nhà nước ban hành các quy phạm, các chế định pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh; có biện pháp bảo đảm những điều kiện và cơ chế
cần thiết cho việc tuân thủ thi hành và áp dụng pháp luật; xác định trách nhiệm đối
với việc vi phạm pháp luật và cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý.
- Khái niệm “quyền”: Theo từ điển Tiếng Việt, “quyền” là điều mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. [24, tr.786]
- Khái niệm “lợi ích”: Theo từ điển Tiếng Việt thì “lợi ích” là điều có ích,
có lợi cho một tập thể người nhất định hay cho một cá nhân trong đó, trong mối
quan hệ với tập thể ấy. [24, tr.566 ] Còn “lợi ích hợp pháp” được hiểu là các lợi ích
không mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Từ những tìm hiểu về các khái niệm trên, có thể xây dựng khái niệm bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn là hệ thống các biện pháp,
cơ chế, cách thức được pháp luật quy định để quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ và
các con được thực hiện chắc chắn trên thực tế khi có sự kiện pháp lý ly hôn.
1.3. Vai trò, nội dung các biện pháp của pháp luật Việt Nam với việc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn
1.3.1. Vai trò của pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn
Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn không
nằm ngoài nội dung bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Và pháp luật chính
là phương tiện quan trọng, hữu hiệu nhằm bảo đảm các quyền này.
Việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn
không chỉ được trực tiếp quy định ở pháp luật Hôn nhân và gia đình mà còn được quy

định gián tiếp thông qua các luật khác như: Bộ Luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự,
Luật thi hành án dân sự, Luật bình đẳng giới, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em; Luật Doanh nghiệp… Đồng thời việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ,
chồng và các con còn được thể hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án trong
hoạt động xét xử các vụ án ly hôn và thực tiễn thi hành án của cơ quan Thi hành án.


10

Có thể thấy pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu trong việc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn.
- Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, chồng và các con khi ly hôn. Các quyền, lợi ích này khi đã được quy định trong
pháp luật thì nó sẽ trở thành quyền pháp định, được xã hội thừa nhận, được Nhà
nước tôn trọng bảo vệ. và có giá trị bắt buộc đối với toàn xã hội.
- Pháp luật là công cụ sắc bén trong việc thực hiện bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn. Tính sắc bén của pháp luật trong
việc thực hiện bảo đảm quyền, lợi ích của vợ, chồng và các con được thể hiện ở các
quy định về quyền, lợi ích của vợ, chồng và các con khi ly hôn trong pháp luật. Khi
cần thiết thì Nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế trên cơ sở tiến hành các
biện pháp giáo dục, thuyết phục bảo đảm cho nội dung quyền, lợi ích của vợ, chồng
và các con được thực hiện và bảo vệ. Bên cạnh đó, nhờ hệ thống cơ quan bảo vệ
pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền, lợi ích này đều có khả năng bị phát hiện
nhanh chóng và xử lý kịp thời.
- Pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để vợ, chồng và các con
đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi pháp luật được xem
xét là công cụ, phương tiện, vũ khí của mọi người trong xã hội để thực hiện, bảo vệ
quyền, lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Chỉ có pháp luật, bằng các qui phạm pháp
luật được quy định chặt chẽ mới tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để mọi người đấu
tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Từ các điều kiện của pháp luật như đã trình bày, chúng ta thấy pháp luật có
vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp vợ, chồng
và các con khi ly hôn. Là công cụ và phương tiện hữu hiệu để bảo đảm cho các
quyền và lợi ích này được thực hiện trên thực tế.
1.3.2. Các biện pháp của pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn
Việc bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
mang nét đặc trưng so với các ngành luật khác đó là chủ yếu do các chủ thể tự thực


11

hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Và vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ, chồng và các con khi ly hôn cũng không nằm ngoài đặc điểm này. Tuy
nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng tự giác thực hiện. Vì vậy,
yêu cầu xây dựng một hệ thống các biện pháp của pháp luật là điều quan trọng, cần
thiết để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn được
thực hiện trên thực tế.
- Biện pháp bảo đảm bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan
trọng nhất để quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn được
thực hiện trên thực tế. Việc bảo đảm bằng pháp luật bao gồm việc pháp luật ghi
nhận các quyền và lợi ích của vợ, chồng và các con khi ly hôn và bảo đảm cho các
quyền, lợi ích đó được thực hiện trên thực tế. Nhà nước ta đã xây dựng một hệ
thống các quy phạm pháp luật tương đối đầy đủ để bảo đảm quyền và lợi ích của
vợ, chồng và các con khi ly hôn: Hiến pháp năm 2013 (có các quy định về quyền
con người, quyền công dân, quyền trẻ em); Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004 (có các quy định về bảo vệ quyền trẻ em); Bộ luật dân sự năm 2005
(có các quy định về vấn đề tài sản của vợ, chồng; về đại diện cha,mẹ cho các con);
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (có các quy định
về thủ tục ly hôn; về nội dung giải quyết vụ kiện ky hôn)… đặc biệt là Luật Hôn

nhân và gia đình năm 2014 quy định rất cụ thể các quyền, lợi ích hợp pháp của vợ,
chồng và các con khi ly hôn. Bên cạnh hệ thống pháp luật quốc gia, Việt nam còn
tích cực tham gia, phê chuẩn các Công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về
quyền con người, quyền trẻ em.
- Ngoài việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn thì pháp luật còn bảo đảm các
quyền, lợi ích này được thực hiện trên thực tế thông qua hoạt động của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức hữu quan. Pháp luật quy định trách nhiệm của cha, mẹ, nhà trường,
Tòa án, cơ quan Thi hành án và quy định cả các hình thức, biện pháp xử lý những
hành vi vi phạm; xây dựng hệ thống các thủ tục trong tố tụng trong đó có tố tụng
hình sự, tố tụng dân sự, ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và những
người tiến hành tố tụng; cụ thể hóa các Công ước quốc tế về quyền con người,
quyền trẻ em để hòa nhập pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.


12

- Việc triển khai các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục, giải thích
pháp luật, hướng dẫn thực hiện pháp luật… nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các
thành viên xã hội, hình thành văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội cũng là điều
cần thiết. Đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật
của bộ máy Nhà nước, phải bảo đảm cho các quy định về bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn được thực thi nghiêm chỉnh, các hành
vi vi phạm ngày càng giảm, còn có hiện tượng vi phạm thì càng phải được phát
hiện, xử lý kịp thời.
- Các cơ quan tổ chức trong xã hội muốn thực hiện tốt các hoạt động bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn thì cần phải có
nguồn lực tài chính để đảm bảo. Vì vậy việc xây dựng các quỹ tài trợ, quỹ hỗ trợ tài
chính trong xã hội cũng là điều cần thiết và quan trọng. Nhà nước ta luôn khuyến

khích các cá nhân, tổ chức trong xã hội thể hiện tinh thần tương thân tương ái đối
với những trường hợp cha, mẹ và các con có hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh khó
khăn khi ly hôn, mà đặc biệt ưu tiên hơn đối với những bà mẹ và trẻ em.
Như vậy, các biện pháp nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ,
chồng và các con khi ly hôn luôn có sự đan xen, tác động qua lại hữu cơ với nhau
tạo nên một cơ chế để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi
ly hôn trên thực tế một cách tốt nhất.
1.4. Khái lược pháp luật Việt nam về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ, chồng và các con khi ly hôn qua các thời kỳ
1.4.1. Thời kỳ phong kiến
Vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn
thời kỳ này được quy định:
Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, quan hệ vợ chồng hoàn toàn
chấm dứt, không bên nào có quyền và nghĩa vụ với bên nào, vợ chồng đã ly
hôn có thể tái hôn với người khác: “người chồng không được ngăn cản người
khác lấy vợ cũ của mình”.


13

Về quan hệ tài sản: Theo quy định tại điều 401 Bộ luật Hồng Đức thì “khi
ly hôn, tài sản riêng của ai vẫn thuộc sở hữu của người đó và họ có quyền mang
theo” trừ trường hợp ly hôn do lỗi của người vợ hoặc khi người vợ có hành vi đánh
chồng, chồng thưa kiện lại muốn ly hôn thì vợ mất quyền về tài sản (Bộ luật Gia
Long) hay điền sản của vợ để lại cho chồng. Như vậy, quy định này chỉ nhằm bảo
đảm quyền lợi cho người chồng mà không quan tâm tới người vợ, chỉ quy định lỗi
cho người vợ. Đối với tài sản chung, trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài
sản chung được chia đôi mỗi người một nửa. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật thời
kỳ này vì đã bảo đảm được quyền lợi của cả vợ và chồng.
Về con cái: Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn

không được pháp luật ghi nhận nên nếu có vướng mắc về vấn đề nuôi dưỡng, chăm
sóc con thì quan lại địa phương sẽ xem xét tùy từng trường hợp cụ thể. Đối với con
cái thì con mang họ cha nên sau khi ly hôn con sẽ sống với cha nhưng nếu muốn
giữ con thì người vợ có quyền yêu cầu “chia” một nửa số con. Những quy định này
đã không đảm bảo được quyền và lợi ích cho vợ và các con.
Như vậy các quy định của pháp luật thời kỳ này tuy có điểm tiến bộ thể hiện
quyền bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, nhưng lại chủ yếu bảo đảm
quyền lợi cho người chồng mà không quan tâm tới bảo đảm quyền và lợi ích cho vợ
và các con. Bởi ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, cũng như phong tục
tập quán đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen ứng xử của người Việt nam
lúc bấy giờ.
1.4.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các
văn bản pháp luật mới: Tập dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883; Bộ dân luật Bắc
Kỳ năm 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936 nên các quan hệ hôn nhân và gia
đình thời kỳ này cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung những quy định về hôn
nhân và gia đình trong các bộ luật này vẫn duy trì sự bất bình đẳng nam, nữ với việc
thừa nhận quyền gia trưởng của người đàn ông, tước đi nhiều quyền lợi cơ bản của
người phụ nữ. Vì vậy, các quy định về ly hôn cũng tuân thủ triệt để nguyên tắc củng
cố địa vị của người gia trưởng, có sự phân biệt giữa các con, coi rẻ quyền lợi của
con cái, trú trọng tới việc giải quyết hậu quả về tài sản khi vợ chồng ly hôn.


14

Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, vợ chồng muốn đoàn tụ với nhau thì
“phải khai giá thú với hộ lại” nhưng sau khi đoàn tụ rồi mà lại xin ly hôn lần nữa
thì Tòa án không giải quyết. Quy định này có phần cứng nhắc và không bảo đảm
được quyền nhân thân cho cả vợ và chồng.
Về quan hệ tài sản: Khi ly hôn, vấn đề thanh toán tài sản giữa vợ, chồng

được đặt ra nhưng lại thiên về lỗi của người vợ để xem xét và quyết định phần dành
cho người vợ. Trường hợp vợ thứ ly hôn thì “không bao giờ được dự phần chung,
chỉ được lấy tài sản riêng của mình”. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 149 Bộ dân
luật Bắc Kỳ, nếu ly hôn do lỗi của người vợ thì người vợ phải bồi thường lại những
đồ vật, sính lễ trước kia nhà chồng đã làm lễ đính ước trừ khi đồ dùng đó đã tiêu
dùng cho lễ cưới. Những quy định này không những không bảo đảm được lợi ích
cho người vợ mà còn gây bất lợi cho người vợ, thể hiện rõ tư tưởng trọng nam
khinh nữ.
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn cũng được đặt ra “án xử ly hôn sẽ
xử cả về tiền cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và quyền lợi tài sản
của người vợ”. Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sẽ chấm dứt nếu người vợ tái giá
hoặc ăn ở tư tình với người khác hoặc vô hạnh. Đây có thể nói là quy định tiến bộ,
phần nào đã quan tâm và bảo đảm được quyền lợi cho người vợ khi ly hôn.
Về con cái: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được pháp
luật ghi nhận nhưng “vấn đề nuôi nấng con cái được giao cho người cha” trừ trường
hợp vì lợi ích của đứa trẻ ấy mà Tòa án giao cho người mẹ thì người cha có nghĩa
vụ cấp dưỡng tiền nuôi con. Đây là quy định tiến bộ, phần nào đã chú ý đến việc
bảo đảm quyền lợi của con.
Những quy định pháp luật thời kỳ này chủ yếu dựa vào phong tục tập quán
lạc hậu và Bộ luật dân sự pháp năm 1804. Tuy có một số tiến bộ quan trọng về
nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với vợ hay vấn đề nuôi dưỡng con nhưng
vẫn duy trì sự bất bình đẳng giữa vợ, chồng, củng cố quyền của người gia trưởng
làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống gia đình và xã hội.
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời,
mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Nhà nước ra đời đồng


15


nghĩa với việc phải xây dựng một hệ thống pháp luật để làm công cụ quản lý kinh
tế, xã hội. Vì vậy ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có Luật Hôn nhân và gia đình.
Sự ra đời của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 150/SL ngày
17/11/1950 đánh dấu bước khởi điểm của Luật Hôn nhân và gia đình trong chế độ
xã hội mới. Sắc lệnh số 97/SL mới dừng lại ở việc ghi nhận sự bình đẳng trong
quan hệ vợ chồng mà chưa đề cập tới vấn đề ly hôn. Những hạn chế này đã từng
bước được khắc phục ở Sắc lệnh số 159/SL với những quy định cụ thể thừa nhận
nguyên tắc tự do hôn nhân. Trong đó có tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất
bình đẳng về duyên cớ ly hôn, bảo vệ người phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn,
cũng như quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn. Theo đó, để bảo vệ
quyền lợi của con chưa thành niên: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị
thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng” (Điều 6). Đây là
điểm tiến bộ khi nhà làm luật đã quan tâm, bảo đảm quyền lợi cho người phụ nữ và
con chưa thành niên khi ly hôn.
Có thể nói các quy định về ly hôn giai đoạn này đã góp phần xóa bỏ chế độ
hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự ràng buộc,
khắt khe, không tôn trọng cũng như bảo đảm quyền lợi chính đáng của họ; bước đầu
quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn được bảo vệ.
1.4.4. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước ta tạm thời bị
chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Do đó pháp luật về hôn
nhân và gia đình thời kỳ này có những quy định riêng của mỗi miền:
Miền Bắc: Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về
mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình, tạo cơ sở pháp lý cho việc
ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình. Trên cơ sở đó Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959 ban hành ngày 29/12/1959 dành một chương quy định về ly
hôn với những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia.
Về quan hệ nhân thân: Sau khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt trước pháp luật (Điều 25, Điều 26).



16

Về quan hệ tài sản: Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ,
trẻ em, Luật đã ghi nhận: “khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn cứ vào công sức đóng
góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình hình cụ thể của gia đình. Lao động
trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của
người vợ, của con và lợi ích của việc sản xuất” (Điều 29).
Về con cái: Ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con sau khi cha mẹ ly
hôn, như: vợ chồng khi ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con chung;
việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên phải
căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con hay việc đóng góp phí tổn nuôi con,.. (Điều
31, 32, 33).
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng: Pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng giữa
vợ và chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn, túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng
thì bên kia phải cấp dưỡng tùy theo khả năng của mình” (Điều 30).
Như vậy, so với Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL thì những quy định
về ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đầy đủ và cụ thể hơn, thể hiện
bước tiến bộ rõ rệt, đồng thời đã bảo đảm được quyền và lợi ích của vợ, chồng và
các con, đặc biệt là chú trọng đến việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Tuy nhiên, chưa có
quy định cụ thể về việc bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên không có khả năng
lao động, chưa có sự phân biệt tài sản chung, tài sản riêng của hai vợ chồng.
Miền nam: Sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp nhảy vào
xâm lược, tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ hôn nhân và gia đình
được áp dụng ở miền Nam giai đoạn này thể hiện qua ba văn bản: Luật Gia đình
(Luật số 1/59), Sắc luật số 15/64, Bộ Luật dân sự Sài Gòn năm 1972. Mặc dù ra đời
vào các thời điểm khác nhau, hình thức quy định cũng có nét riêng, song nhìn chung
các văn bản này đều quy định về vấn đề ly thân và vấn đề ly hôn. Trong đó việc giải
quyết ly hôn chủ yếu dựa trên yếu tố lỗi của các bên vợ chồng như: người có lỗi

phải cấp dưỡng cho người kia, hay người không có lỗi đương nhiên được nuôi con
dưới 16 tuổi,…


17

Nhìn chung, pháp luật hôn nhân và gia đình ở miền Nam thời kỳ này ra đời
trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn
tồn tại và nó là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản động tay sai. Vì vậy, các
quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình do chính quyền Ngụy
Sài Gòn ban hành thời kỳ này đều bảo vệ quyền lợi của người gia trưởng, thực hiện
nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, có sự phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ
Nhà nước phản động mị dân, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân ta.
1.4.5 Thời kỳ 1975 đến nay
Năm 1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn cả
nước giành độc lập, thống nhất và tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1980
được ban hành ghi nhận các nguyên tắc về chế độ hôn nhân và gia đình (Điều
38,47,63 và Điều 64), trên cơ sở đó, Nhà nước ta ban hành Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986.
Các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 về cơ bản vẫn
dựa trên những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 như bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ và con chưa thành niên, cấp dưỡng giữa vợ chồng…nhưng có bổ
sung thêm nhiều quy định mới về việc chia tài sản khi ly hôn (Điều 42), về cấp dưỡng
giữa vợ, chồng (Điều 43) và lần đầu tiên đưa ra quy định bảo vệ quyền lợi của con đã
thành niên nhưng không có khả năng lao động (Điều 20),…
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã góp phần xây dựng và củng cố quan
hệ gia đình, có những quy định mới, tiến bộ đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn, đặc biệt là vợ và các con. Tuy nhiên, sau
hơn 10 năm thực hiện, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội mới

phát sinh, vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly
hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đã bộc lộ những điểm không phù
hợp với thực tiễn.
Trước những quy định còn thiếu, bất cập, đòi hỏi Nhà nước ta phải ban hành
luật mới nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia


18

đình năm 1986. Tại kỳ họp thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa các quy định, nguyên tắc dân chủ, tiến bộ về
hôn nhân và gia đình trong lịch sử. Các quy định về ly hôn trong luật này đã thể
hiện một bước phát triển cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung tư tưởng, góp phần
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn.
Sau hơn mười hai năm thi hành, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã góp
phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Bảo đảm ổn định cuộc sống gia đình trong xã hội phát huy truyền
thống phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nâng cao vai trò trách nhiệm
của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tôn trọng và chấp hành các quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, qua quá trình giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của
ngành Tòa án cho thấy, một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
không phù hợp với thực tiễn. Các quy định về ly hôn cũng có những quy định chưa
phù hợp (hoặc không còn phù hợp), có những quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng
và còn có những cách hiểu khác nhau, có những quy định chưa bảo đảm được
quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn.
Vì vậy, một lần nữa, việc ban hành Luật mới nhằm sửa đổi, bổ sung các quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho phù hợp với tình hình kinh tế xã
hội hiện nay lại được đặt ra. Đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, ngày 19/6/2014, Luật

Hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời, thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000. Các quy định về ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 theo đó
mà cũng có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm bảo
đảm tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các con khi ly hôn.


19

Chương 2
THỰC TRẠNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ,
CHỒNG VÀ CÁC CON KHI LY HÔN
2.1. Thực trạng quy định Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng khi ly hôn
a. Về quyền yêu cầu ly hôn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì
“Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn”.
Điều này được kế thừa theo khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Tuy nhiên Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có thêm quy định mới so với Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tại khoản 2 Điều 51: "Cha, mẹ, người thân thích
khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ". Như vậy, quy
định mới này của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bảo đảm tốt hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, chồng trong một số trường hợp đặc biệt mà họ không thể
tự mình thực hiện quyền yêu cầu ly hôn.
Tại khoản 3, Điều 51 quy định về việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của
người chồng “Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai
tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn”. Điều này cũng được kế

thừa tại khoản 2 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo quy định này
thì người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Luật chỉ quy định "vợ đang có thai hoặc đang nuôi con
dưới 12 tháng tuổi". Do đó, khi người vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi, không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12
tháng tuổi là ai thì chồng đều không có quyền yêu cầu ly hôn.


20

Có thể thấy quy định này của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện sâu sắc tính nhân văn và tiến bộ
trong tư tưởng cũng như bản chất nội dung pháp luật nước ta nói chung và pháp luật
về hôn nhân gia đình nói riêng. Quyền lợi của trẻ em và phụ nữ - những người yếu
thế - được pháp luật tôn trọng, đề cao và bảo vệ chặt chẽ. Quy định này được đặt ra
nhằm bảo vệ bà mẹ và trẻ em, cũng như bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi. Quy định
hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đã thể hiện và làm cụ thể chi tiết một trong những
nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình đó là nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em,
bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi – một nguyên tắc mang tính toàn cầu.
b. Về quan hệ nhân thân
Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân phi tài
sản (không mang nội dung kinh tế). Đó là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về mọi
mặt trong gia đình. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng mang yếu tố tình cảm, là nét
đặc trưng gắn liền với bản thân họ mà không thể chuyển giao cho người khác được.
Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp
luật, quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật. Kể từ thời điểm này, người vợ,
người chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác mà không chịu bất kỳ sự
ràng buộc nào từ phía bên kia. Và sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ về nhân
thân giữa vợ và chồng sẽ đương nhiên chấm dứt mà không phụ thuộc và sự thỏa
thuận của các bên. Nghĩa là các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát

sinh từ khi kết hôn và gắn bó trong suốt thời kỳ hôn nhân sẽ đương nhiên mất đi.
Như vậy, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chỉ tồn tại và được pháp luật bảo vệ
khi họ là vợ chồng hợp pháp của nhau. Nên sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ
nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt. Họ không còn bị ràng buộc với nhau về quan
hệ nhân thân của vợ chồng.
c. Về chia tài sản của vợ, chồng
-

Các nguyên tắc và căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn

+

Nguyên tắc: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 59) ghi nhận

nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt của vợ chồng; bảo vệ lợi ích chính


×