Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.27 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO HẢI LÂM

QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ THEO
PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ DUNG

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng nội dung của bài luận văn là kết quả của sự
nghiên cứu nghiêm túc, trung thực, mọi sự trích dẫn đều được ghi rõ nguồn
gốc. Bài luận văn là kết quả làm việc của cá nhân tôi dưới sự giúp đỡ của giáo
viên hướng dẫn, nếu có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn

Đào Hải Lâm



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, các
cô giáo khoa Pháp luật Kinh tế Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giảng
dạy tôi suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS.
Nguyễn Thị Dung – cô đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH
NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ....................................................................................................................... 8
1.1.1. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán............................................ 8
1.1.2. Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ....................... 14
1.1.3. Khái niệm quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ............................................................................................................ 15
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán .................................................................................. 17
1.2.1. Khái quát quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán........................................ 17
1.2.2. Nội dung pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả

năng thanh toán ......................................................................................... 20
1.2.3. Vai trò của pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán ......................................................................................... 24
1.2.4. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán..................................................... 27
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH VỀ QUẢN LÝ TÀI
SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
2.1. Chủ thể tham gia quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán theo Luật phá sản hiện hành ................................................................... 33


2.1.1. Tòa án .............................................................................................. 33
2.1.2. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản .................... 34
2.1.3. Chủ nợ ............................................................................................. 41
2.1.4. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.......................................... 42
2.2. Phƣơng thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán theo Luật phá sản hiện hành ................................................................... 43
2.2.1. Xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ......... 43
2.2.2. Thu hồi tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ........... 47
2.2.3. Các biện pháp bảo toàn tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ............................................................................................................ 48
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI
SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán .................................................................................. 61
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ......................................................... 62
3.2.1. Về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ................... 62

3.2.2. Về xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán .... 64
3.2.3. Về Quản tài viên ............................................................................. 65
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ........................................... 66


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên thế
giới đã cho thấy rằng, phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ
biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này,
cùng với các quyền cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất
được Nhà nước tôn trọng, đề cao và bảo vệ. Quyền tự do kinh doanh có nội hàm
rất rộng, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành mà trong đó, quyền tự do cạnh tranh
như một bộ phận cấu thành rất quan trọng của quyền tự do kinh doanh đã tạo
tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến với nhau nhằm
giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc chiến khác,
cuộc chiến giữa các nhà kinh doanh cũng mang lại những hậu quả nhất định mà
thường là, bên cạnh những doanh nghiệp do kinh doanh có hiệu quả nên đã tồn
tại và phát triển thì luôn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do làm
ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài
chính đến hạn nên buộc phải chấm dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị
trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải
quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để doanh nghiệp con nợ này rút
khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít gây ra hậu quả xấu cho
các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung. Muốn thực hiện
được các mục tiêu này, Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc mà phải can thiệp
bằng cách ban hành pháp luật để xử lý một loạt các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp mắc nợ thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Tổng hợp những

văn bản pháp luật này tạo thành một lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về
phá sản mà xương sống của nó là Luật Phá sản. Tóm lại, vì có phá sản nên phải
có pháp luật về phá sản và pháp luật về phá sản là tổng thể các văn bản do Nhà
nước ban hành, trong đó quy định về tình trạng phá sản; điều kiện áp dụng các


2
thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý); địa vị pháp lý của các chủ
thể tham gia tố tụng phá sản; trình tự tiến hành việc giải quyết phá sản; thứ tự ưu
tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải
quyết một vụ phá sản cụ thể.
Như vậy phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị
trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào hiện
tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt
tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước và Tòa án có thể can
thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp với một cách
nhìn hiện đại, năng động và mềm dẻo. Các quy định của pháp luật phá sản đa số
đều xoay quanh vấn đề tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, bao
gồm hai nội dung chính là quản lý tài sản và thanh lý tài sản. Trong đó, quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một vấn đề phức tạp, đòi
hỏi sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và cần có sự điều chỉnh của nhiều quy định
pháp luật.
Nhờ tiếp thu có chọn lọc hệ thống pháp luật về phá sản của một số nước
trên thế giới, hệ thống pháp luật về phá sản tại Việt Nam dần ra đời. Từ Luật
Phá sản doanh nghiệp năm 1993, được thay thế bởi Luật Phá sản năm 2004 cho
đến Luật Phá sản năm 2014. Pháp luật phá sản, đặc biệt là các quy định về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đã có những sửa đổi, bổ
sung cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế và dần hoàn thiện hơn, tạo điều
kiện cho việc giải quyết phá sản được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, công
bằng, đạt hiệu quả. Do đó, cần có những nghiên cứu cụ thể và chuyên sâu về các

quy định của pháp luật, phát hiện những hạn chế nhằm kịp thời khắc phục các
quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán để bảo
đảm pháp luật phá sản về vấn đề này được thực hiện một cách hiệu quả trong
thực tiễn. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: “Quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản hiện hành” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phá sản là một vấn đề không mới trong nghiên cứu khoa học pháp lý.
Những năm gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản
với các vấn đề như: thủ tục phá sản, tài sản phá sản, chủ thể trong luật phá sản,
phục hồi doanh nghiệp phá sản… Do đó, với đề tài về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, luận văn xin đưa ra một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu có liên quan, bao gồm:
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nói chung:
- Nguyễn Kim Chi (2004), Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản theo Luật Phá sản (2004), luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội
- Phan Thị Diệu Linh (2007), Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Nguyễn Văn Nam (2010), Hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam theo
khuyến nghị của hướng dẫn xây dựng luật phá sản của UNCITRAL năm 2005,
luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Hoàng Lan Anh (2010), Tìm hiểu vấn đề hoàn thiện pháp luật phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam, khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Trần Thị Tuyết Mai (2012), Một số vướng mắc và định hướng hoàn

thiện Luật Phá sản năm 2004, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà
Nội
- Hoàng Thị Kim Anh (2014), Luật phá sản 2004 - Những hạn chế, bất
cập và giải pháp hoàn thiện, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội
Ngoài ra, một số bài báo, tạp chí như:
- Nguyễn Quý Trọng (2006), Một số bất cập trong Luật phá sản năm
2004, Tạp chí Luật học, Số 12/2006, tr. 57 – 63


4
- Khuất Thị Thu Hiền (2010), phá sản và pháp luật phá sản ở Việt Nam,
chuyên đề khoa học xét xử, Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, Hà
Nội, 4/2010.
- Nguyễn Thị Bích Tuyền (2015), So sánh những điểm mới của Luật phá
sản năm 2014 với Luật phá sản trước đó, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp,
Số 1/2015, tr. 16 – 20
Những công trình trên nghiên cứu về pháp luật phá sản, trong đó có đề
cập sơ lược về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tuy
nhiên không đi sâu vào vấn đề này mà nghiên cứu toàn diện về pháp luật phá
sản. Một số công trình có đề cập sâu hơn về xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Chi, khóa luận tốt
nghiệp của Phan Thị Diệu Linh), nhưng bao gồm thanh lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản mà không chuyên về quản lý tài sản.
Những công trình nghiên cứu có liên quan cụ thể đến chủ thể tham gia
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán:
- Nguyễn Đăng Hải (2006), Vai trò chủ đạo của toà án trong việc giải
quyết phá sản ở Việt Nam, khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Trịnh Thị Thuý Hằng (2008), Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ
trong thủ tục phá sản, khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội

- Nguyễn Thái Trường (2014), Vai trò của chủ nợ trong quá trình giải
quyết phá sản doanh nghiệp, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội
- Dương Kim Thế Nguyên (2014), Quản tài viên trong Luật phá sản các
nước - kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao, Số 6/2014, tr. 8 - 10
Vấn đề chủ thể trong những công trình nghiên cứu trên đa số được phân
tích dưới góc độ toàn diện là chủ thể tham gia trong việc giải quyết phá sản,
trong đó, có đề cập tới nhưng rất ít về chủ thể với tư cách tham gia quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Thực tế, đây cũng là vấn đề có


5
phạm vi nghiên cứu khá hẹp nên ít có công trình nghiên cứu riêng biệt, trừ chủ
thể là Quản tài viên - một cơ chế quản lý tài sản mới trong pháp luật phá sản.
Những công trình nghiên cứu có liên quan cụ thể đến phương thức quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán:
- Nguyễn Mai Liên (2009), Một số vấn đề pháp lý về bảo toàn tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội
- Vũ Thị Hồng Vân (2007), Bàn về nguyên tắc và cách thức xác định tài
sản phá sản theo pháp luật phá sản Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Số 3/2007, tr. 39 – 44
- Cao Đăng Vinh (2014), Bảo toàn tài sản doanh nghiệp trong quá trình
giải quyết thủ tục phá sản một số tồn tại cần khắc phục, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 2/2014, tr. 30 – 35
Những công trình trên đã nghiên cứu khá sâu sắc về xác định tài sản phá
sản, bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên, Luật
Phá sản năm 2014 đã có một số sửa đổi, bổ sung trong các quy định về phương
thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Do đó, những

công trình nghiên cứu trên cần được kế thừa và bổ sung để phù hợp với pháp
luật phá sản hiện hành.
Như vậy, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan
đến pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, có
thể thấy, những công trình này đa số nghiên cứu trên phạm vi toàn diện về pháp
luật phá sản, về chủ thể trong quan hệ phá sản, hoặc chuyên nghiên cứu về bảo
toàn tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, mà ít có nghiên cứu về
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Do đó, với đề tài nghiên cứu này, luận văn đã có một số điểm mới như:
phân tích cụ thể về những chủ thể trong quan hệ phá sản dưới góc độ tham gia
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đặc biệt là về Quản
tài viên - chế định hoàn toàn mới trong Luật Phá sản năm 2014; xác định tài sản


6
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cũng như các biện pháp bảo toàn tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo quy định mới của Luật Phá
sản năm 2014.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bao gồm nhiều
vấn đề như: khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán, các phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán… Đây đều là những vấn đề mà luận văn nghiên cứu. Trong đó,
luận văn đặc biệt tập trung nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật phá
sản về xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; cơ chế Quản
tài viên – cơ chế mới trong Luật Phá sản năm 2014; và các biện pháp bảo toàn
tài sản.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác –

Lênin, lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, vận dụng những quan điểm cơ
bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp không thể thiếu trong
nghiên cứu khoa học pháp lý như: phương pháp logic; phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh…
Các phương pháp này được sử dụng đan xen để có thể xem xét một cách
toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là phân tích, nghiên cứu các quy định về quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán để tìm ra những vướng mắc,
bất cập của các quy định nhằm kiến nghị, hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Qua đó, bảo vệ một cách tốt nhất


7
quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, người lao động và những chủ thể khác có
liên quan đến quá trình phá sản doanh nghiệp.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ như: nghiên
cứu khái niệm về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; chỉ
ra vai trò của pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán; nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khi quy định về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; phân tích các quy định của pháp luật về
chủ thể quản lý và phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán; xác định định hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; từ đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
6. Cơ cấu của luận văn

Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Nội dung của luận văn được chia thành ba chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật phá sản hiện hành về quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán


8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH
NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán
1.1.1. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ Châu Âu du nhập vào Việt Nam vào
thời kỳ Pháp thuộc. Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng người mắc nợ
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tuyên bố phá sản và sử dụng các tài sản còn lại của
người mắc nợ để phân chia cho các chủ nợ theo quy định của pháp luật. Mặc dù
dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ phá sản được hiểu như vậy nhưng thực tế, trước
khi ra đời Luật Phá sản năm 2014, tại các văn bản của nước ta, chưa có một văn
bản pháp luật chính thức nào quy định về định nghĩa của phá sản. Thay vào đó,
thuật ngữ “tình trạng phá sản” được sử dụng trong các văn bản này, bắt đầu từ
Luật Công ty 1990, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 cho đến Luật Phá sản
năm 2004, theo các quy định đó, phá sản là khái niệm dùng để chỉ doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng nhất là mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn [6;tr.340].

Khi Luật Phá sản năm 2014 được ban hành, khái niệm doanh nghiệp “lâm
vào tình trạng phá sản” đã không còn được sử dụng, thay vào đó là khái niệm
doanh nghiệp “mất khả năng thanh toán”. Khoản 1 Điều 4 về giải thích từ ngữ
Luật phá sản (sửa đổi) năm 2014 quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời
hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
Như vậy, Luật phá sản (sửa đổi) năm 2014 không còn dùng khái niệm
“lâm vào tình trạng phá sản” như Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 hay
Luật Phá sản năm 2004, mà dùng khái niệm “mất khả năng thanh toán”, và nội
hàm của khái niệm mất khả năng thanh toán được xác định cụ thể, rõ ràng hơn:


9
Thứ nhất, tiêu chí xác định mất khả năng thanh toán là “không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán”.
Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn cần xem xét một số khía cạnh cụ thể sau:
Một là, mất khả năng thanh toán tức là doanh nghiệp “không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán” mà không phải là “không có khả năng thanh toán”. Đây là
điểm khác biệt cơ bản nhất về khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
trong Luật Phá sản năm 2014 và cách hiểu về doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán trong Luật Phá sản năm 2004. Theo Luật Phá sản năm 2004, mất khả năng
thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp không thanh toán được nợ mà
nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng, có
nghĩa là không thể trả được nợ, không có lối thoát, trừ khi có sự can thiệp của
Tòa án hoặc sự giúp đỡ của các chủ nợ. Nhưng việc quy định doanh nghiệp
“không có khả năng thanh toán” là không chính xác, bởi doanh nghiệp có khả
năng thanh toán nợ hay không, chỉ có thể căn cứ vào sổ sách, chứng từ của
doanh nghiệp. Chủ nợ chỉ có thể xác nhận rằng doanh nghiệp không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán nợ, từ đó yêu cầu mở thủ tục phá sản, mà không thể kết luận

rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ. Do đó, quy định như Luật
Phá sản năm 2014 đã xác định chính xác và khách quan về doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán bằng hành vi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của
doanh nghiệp.
Hai là, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp hoàn
toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể còn rất nhiều tài sản mà vẫn mất khả
năng thanh toán, chỉ vì tài sản đó không thể bán được, cho nên doanh nghiệp
không có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Cũng xuất phát từ những dấu hiệu xác định doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, trong khoa học pháp lý, trong luật pháp các nước có đưa ra khái niệm
mất khả năng thanh toán tạm thời (hay còn gọi là mất khả năng thanh toán tương


10
đối) và mất khả năng thanh toán vĩnh viễn (hay mất khả năng thanh toán tuyệt
đối).
Mất khả năng thanh toán nợ tạm thời là tình trạng tổng toàn bộ tài sản có
của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ lớn hơn tổng số nợ phải trả của doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ nhưng tại một thời điểm xác định doanh nghiệp, hợp
tác xã mắc nợ không có ngay các khoản tiền để trả cho các chủ nợ khi họ yêu cầu.
Mất khả năng thanh toán vĩnh viễn là tổng toàn bộ tài sản có của doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ không đủ để thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ [10].
Tuy nhiên, dù có phân biệt như thế nào đi chăng nữa thì tình trạng thực tế
của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ trước khi mở thủ tục phá sản chỉ có chính
doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết. Do vậy, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của chủ nợ phát sinh khi có khoản nợ đến hạn đã yêu cầu nhưng doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ không thanh toán như một biện pháp dự phòng, bảo
đảm tối đa quyền lợi của chủ nợ.
Ba là, khi xây dựng Luật Phá sản năm 2014, nhiều ý kiến cho rằng nên có

quy định về số nợ đến hạn tối thiểu nhằm hạn chế tình trạng các chủ nợ lợi dụng
quy định này để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tràn lan. Kinh nghiệm của
một số nước khi xây dựng khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì
thường có quy định về số nợ cụ thể, về thời hạn trễ hạn thanh toán nợ từ phía
con nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Ví dụ như Luật Phá sản của Liên bang
Nga quy định số nợ không thấp hơn 100.000 rúp với chủ nợ là pháp nhân và
10.000 rúp với chủ nợ là cá nhân. Theo Luật Công ty của Úc chủ nợ có thể yêu
cầu Tòa án ra quyết định bắt đầu thủ tục thanh toán tài sản của một công ty vì lý
do vỡ nợ nếu công ty đó có một khoản nợ đến hạn ít nhất là AUD $2000 và công
ty không chứng minh được khả năng trả khoản nợ đến hạn đó. Trong dự thảo lần
3, Luật Phá sản năm 2014, con số này được xác định là 200 triệu đồng [19]. Mặc
dù vậy, Luật Phá sản năm 2014 chính thức ban hành cũng không đưa ra số nợ tối
thiểu để xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, theo quan điểm cho


11
rằng pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một
khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình hình tài
chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau, có thể có những doanh nghiệp nợ
vài ba chục triệu nhưng không có cách gì để trả, trong lúc cũng có những doanh
nghiệp nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh toán bình thường.
Thứ hai, thời điểm doanh nghiệp được xác định mất khả năng thanh toán
là trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Việc quy định một khoảng thời gian để xác định doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán không phải là điểm mới trong pháp luật về phá sản. Ngay từ
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, đã có hướng dẫn về vấn đề này. Tuy
nhiên, Luật Phá sản năm 2004 đã không kế thừa điểm tiến bộ này cho đến Luật
Phá sản năm 2014, quy định này mới được khôi phục lại. Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 đã quy định: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi

áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn.” (Điều 2).
Điều 3 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 hướng dẫn thi hành Luật phá
sản doanh nghiệp năm 1993 đã cụ thể hóa việc mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn, theo đó: Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản
nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả được các
khoản nợ đến hạn, trong 3 tháng liên tiếp không trả đủ lương cho người lao động
theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động.
Có thể nhận thấy rằng Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Nghị định
số 189/CP (1994) đã có những quy định khá chặt chẽ về điều kiện để xác định
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, thể hiện ở quy định về việc chủ nợ có
quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời hạn
30 ngày kể từ ngày đòi nợ, quy định về thời hạn 3 tháng nợ lương liên tiếp với
người lao động. Khái niệm phá sản còn phải gắn với lý do khó khăn, thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh hoặc lý do bất khả kháng. Với quy định như vậy,


12
trên thực tế các chủ nợ sẽ không bao giờ thực hiện được quyền nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản đối với con nợ của mình bởi lẽ chủ nợ chỉ có thể chứng minh
là con nợ đã trễ hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, còn vì sao con nợ trễ hạn
thanh toán – không trả nợ thì chủ nợ có thể không biết mà cũng không cần biết.
Những thông tin này thuộc phạm vi bí mật kinh doanh của con nợ và chỉ có thể
xác định trên cơ sở sổ sách kế toán của con nợ. Điều này hoàn toàn ngoài khả
năng của chủ nợ.
Khắc phục hạn chế đó, Luật Phá sản năm 2004 đã xác định khái niệm
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo hướng đơn giản và hợp lý hơn.
LPS 2004 (Điều 3) khi đưa ra khái niệm phá sản đã đoạn tuyệt với nguyên nhân
khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và thời hạn thua lỗ. Theo quy định
tại Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 thì: ”Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả

năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là
lâm vào tình trạng phá sản”.
Tuy nhiên, quy định theo Luật Phá sản năm 2004 vẫn chỉ là định tính,
không phản ánh đúng tình trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp bị lâm vào
tình trạng phá sản. Trên thực tế Luật Phá sản năm 2004 đồng nhất khái niệm
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn với khái niệm doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản. Hai khái niệm này vốn đã được bóc tách khá rõ trong
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và nghị định 189/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 23/12/1994 Hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp.
Kế thừa và khắc phục những hạn chế trong Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004, Khoản 1 Điều 4 về giải thích từ ngữ Luật
phá sản (sửa đổi) năm 2014 quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03
tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Như vậy, Luật Phá sản năm 2014 không
chỉ đưa ra thời hạn 3 tháng, đồng thời, thời điểm để tính 3 tháng đó là “kể từ ngày
đến hạn thanh toán” mà không phải là kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu.


13
Luật Phá sản năm 2014 đã để một khoảng thời gian 03 tháng kể từ ngày
đến hạn thanh toán là hợp lý. Vì đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp thay đổi lại
yêu cầu của mình như có thể chuyển việc tuyên bố phá sản sang mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp. Việc sửa lại mốc tính thời hạn là khi chủ nợ có yêu cầu (Luật
Phá sản năm 2004) thành “kể từ ngày đến hạn thanh toán” thể hiện tính khách
quan khi xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Việc doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán hoàn toàn không phụ thuộc vào việc chủ nợ có yêu cầu thanh
toán hay không, tức là không phụ thuộc vào hành vi đơn phương của chủ nợ; mà
phụ thuộc vào chính thời hạn thanh toán của khoản nợ. Nói cách khác, ngay cả
khi chủ nợ không có yêu cầu, mà doanh nghiệp không thanh toán khoản nợ sau 3
tháng kể từ ngày đến hạn, thì doanh nghiệp vẫn bị xác định là mất khả năng thanh

toán. Quy định như vậy sẽ tạo căn cứ pháp lý không chỉ cho chủ nợ có thể yêu
cầu tiến hành thủ tục phá sản, mà bản thân doanh nghiệp cũng có thể tự yêu cầu
tiến hành thủ tục phá sản.
Như vậy, tương tự như pháp luật Phá sản các nước trên thế giới, Luật phá
sản coi việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là căn cứ cơ bản và duy nhất để
xem xét mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã mà không cần phải xem
xét đến các dấu hiệu khác như Luật phá sản doanh nghiệp quy định. Tuy nhiên,
cách xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ở các nước trên thế giới
không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ: Theo pháp luật của Singapore, con nợ có
thể bị tuyên bố phá sản khi không trả được khoản nợ từ 2000 đô la Singapore trở
lên; theo luật phá sản của Nhật bản, khi một người mắc nợ ngừng trả tiền thì
người đó được coi là không trả được nợ; còn theo pháp luật phá sản của cộng
hòa Pháp, mọi thương nhân và pháp nhân, kể cả pháp nhân không có quy chế
thương nhân, khi lâm vào tình trạng ngừng thanh toán thì đều phải khai báo
trong thời hạn 15 ngày để mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thanh lý
doanh nghiệp…[7; tr.338]
Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu sâu sắc và toàn diện của các luật gia,
khái niệm về “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” đã được hiểu một cách


14
thống nhất và quy định cụ thể trong Luật Phá sản năm 2014: “Doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán” (Khoản 1
Điều 4).
1.1.2. Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Khái niệm về “tài sản” là một trong những vấn đề trung tâm của quan hệ
xã hội thuộc hệ thống pháp luật dân sự, thương mại. Định nghĩa về “tài sản” từ
lâu đã được đề cập trong khoa học pháp lý. Trên thực tế, tài sản được lưu trữ
dưới nhiều dạng khác nhau vô cùng phong phú và đa dạng. Theo quy định tại

Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản”.
“Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” là thuật ngữ pháp lý
quan trọng của pháp luật phá sản. Thuật ngữ “tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán” thường được gọi tắt là tài sản có của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thuật ngữ “nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” là tài
sản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Hai thuật ngữ này thường
được gọi chung là tài sản phá sản (hay sản nghiệp) của doanh nghiệp. Như vậy,
tài sản phá sản bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ, thông thường đối với doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán thì tài sản có của doanh nghiệp thường ít hơn
tổng số tài sản nợ.
Các văn bản pháp luật tuy không có điều luật quy định riêng về khái niệm
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, nhưng các loại tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thường được quy định cụ thể trong các
văn bản pháp luật về phá sản bao gồm:
- Tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm
Tòa án nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản;
- Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết
định mở thủ tục phá sản;


15
- Giá trị của tài sản bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm mà doanh
nghiệp, hợp tác xã phải thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm;
- Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định
theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã;
- Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô hiệu;
Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh mất khả năng thanh

toán còn bao gồm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh
không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp
tư nhân, thành viên hợp danh có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của
chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh đó được chia theo quy định của
Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy định này
xuất phát từ việc chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh phải chịu trách
nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ của công ty.
1.1.3. Khái niệm quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán
Các văn bản pháp luật hiện hành không quy định về định nghĩa quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán mà chỉ quy định những hành vi,
chủ thể, và đối tượng của hoạt động quản lý tài sản. Dựa trên những quy định tại
các văn bản này, quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có
thể được hiểu như sau:
“Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là hoạt động
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan nhằm kiểm kê, giám
sát và kiểm tra toàn bộ tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.”
Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một hoạt
động quản lý tài sản đặc biệt, thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán không chỉ là chính doanh nghiệp đó mà còn bao gồm Tòa


16
án hay một thiết chế quản lý tài sản (Tổ quản lý, thanh lý tài sản tài sản, Quản
tài viên…). Trong quan hệ thương mại thông thường chỉ có nói đến các chủ thể
chính trong hoạt động thương mại như bên mua, bên bán trong hợp đồng mua
bán, bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ trong hợp đồng cung ứng
dịch vụ. Tuy nhiên, trong vụ việc phá sản, các chủ thể con nợ và chủ nợ đều
trong tình trạng dễ bị xâm phạm về quyền và lợi ích do tính chất nhạy cảm của

hoạt động phá sản. Do đó, cần có sự can thiệp của quyền lực nhà nước vào quan
hệ phá sản nhằm kiểm soát toàn bộ quy trình phá sản, điều hòa mâu thuẫn giữa
con nợ và chủ nợ. Trong quy trình phá sản, vấn đề quản lý tài sản có của doanh
nghiệp là một vấn đề cấp thiết bởi nó liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích
của các chủ thể liên quan. Như một lẽ dĩ nhiên, việc Tòa án sử dụng quyền lực
của mình để quản lý khối tài sản này, hoặc giao quyền quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán cho một bên thứ ba là hoàn toàn công bằng và
hợp lý. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không còn toàn quyền về tài sản
như trước nữa mà thay vào đó là sự quản lý của cơ quan tòa án hay Quản tài
viên… bao trùm lên hoạt động về tài sản.
Thứ hai, khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán sẽ phải
chịu hai cấp quản lý, của chủ sở hữu khối tài sản – doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán; và chủ thể tiến hành thủ tục phá sản – Tòa án, Quản tài viên… Thực
tế thì tài sản vẫn chịu sự quản lý trực tiếp của doanh nghiệp, tài sản của doanh
nghiệp vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đó, tài sản doanh nghiệp
không hề bị tịch thu, bị chuyển giao sang của một cơ quan hay cá nhân nào
khác. Tòa án hay Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đóng vai
trò quản lý gián tiếp thông qua hoạt động kiểm kê, kê khai tài sản thuộc sở hữu
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Các hoạt động liên quan đến quyền
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đều chịu sự quản lý của chủ
thể này.
Thứ ba, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, thông thường, doanh
nghiệp sẽ có rất nhiều hoạt động đầu tư, kinh doanh. Chính vì vậy, tài sản của


17
doanh nghiệp có thể tồn tại đa dạng loại hình tài sản. Đó có thể là tài sản doanh
nghiệp đang sở hữu, có thể là nguồn lợi đến từ các hợp đồng đầu tư đem lại
nguồn lợi cho doanh nghiệp trong tương lai. Trong trường hợp đặc biệt, đối với
loại hình doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp tư nhân

thì tài sản của doanh nghiệp còn bao gồm cả tài sản của cá nhân chủ sở hữu công
ty. Vì vậy, các chủ thể quản lý tài sản sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức để
xác định khối tài sản này bởi có những khối tài sản trong tương lai nhiều khi
không xác định chính xác giá trị hợp đồng. Đây là những khó khăn trong quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Thứ tư, quản lý tài sản nhằm mục đích bảo toàn tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán. Khác với quản lý tài sản thông thường nhằm mục đích
bảo vệ khối tài sản của doanh nghiệp vì lợi ích của riêng của chủ sở hữu, quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán lại có xu hướng quản lý nhằm
bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác ngoài chủ sở hữu tài sản. Chủ nợ, người
thứ ba liên quan đến tài sản vốn là những chủ thể chịu thiệt khi doanh nghiệp
phá sản. Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thường cũng không
đủ để trang trải cho những tổn thất do hoạt động kinh doanh thua lỗ của doanh
nghiệp gây ra. Đối với chủ sở hữu tài sản, vào thời điểm doanh nghiệp có dấu
hiệu mất khả năng thanh toán, chủ sở hữu thường có những hành vi tiêu cực
nhằm tẩu tán tài sản, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể còn
lại. Vì vậy, mục tiêu chính của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán là bảo vệ quyền và lợi ích của nhiều chủ thể.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán
1.2.1. Khái quát quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Luật Phá sản doanh nghiệp (PSDN) được ban hành ngày 30/12/1993, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/1994 đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống pháp
luật phá sản với tư cách là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật kinh


18
doanh trong bối cảnh nước ta thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần định hướng
XHCN. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 cũng đặt nền móng cho những

quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đặc biệt
là các quy định về Tổ quản lý tài sản và quy chế làm việc của Tổ quản lý tài sản
(Ban hành kèm quyết định số 528 QĐ/BT ngày 13 tháng 6 năm 1995 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp). Tuy nhiên, do được xây dựng trong điều kiện mới chuyển
sang cơ chế quản lý kinh tế mới nên Luật Phá sản doanh nghiệp cũng bộc lộ
những hạn chế, bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung.
Chính vì vậy, Luật Phá sản năm 2004 với nhiều điểm tiến bộ, đã thay thế
Luật PSDN năm 1993 như một bước phát triển mới của pháp luật phá sản Việt
Nam.
Luật Phá sản năm 2004 đã đơn giản hoá khái niệm tình trạng phá sản
nhằm tạo thuận lợi cho việc mở thủ tục phá sản.
Xuất phát từ hoạt động không có hiệu quả của Tổ quản lý tài sản và tổ
thanh lý tài sản theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm
2004 đã gộp Tổ quản lý tài sản và tổ thanh lý tài sản thành Tổ quản lý, thanh lý
tài sản.
Luật Phá sản năm 2004 cũng đã tăng cường các biện pháp bảo toàn tài sản
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo khả năng phục hồi cho
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể:
- Quy định các biện pháp nhằm ngăn chặn doanh nghiệp mắc nợ làm thất
thoát tài sản sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Toà án (Điều 31). Các
giao dịch do doanh nghiệp cố tình thực hiện có thể bị Toà án tuyên bố vô hiệu
và tài sản của doanh nghiệp chuyển giao trong các giao dịch này sẽ bị thu hồi.
- Bổ sung quy định xử lý tài sản trong các hợp đồng đang có hiệu lực của
doanh nghiệp (Điều 45, 46 và 47).
- Quy định trách nhiệm của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong
việc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các giao dịch của doanh
nghiệp(Điều 54).


19

- Quy định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài
sản của doanh nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều điểm tiến bộ như vừa nêu trên nhưng thực tế, việc thi
hành Luật Phá sản trong những năm qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc. Những khó khăn, vướng mắc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó, đáng lưu ý nhất là những hạn chế, khiếm khuyết trong bản thân
Luật Phá sản năm 2004 và các văn bản có liên quan.
Theo tổng kết thi hành Luật phá sản cho thấy, qua 9 năm thực hiện, với
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý 151 đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp
bị phá sản. Với Luật Phá sản năm 2004, Tòa án thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản, ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và cũng chỉ
quyết định tuyên bố phá sản được 83 trường hợp. Năm 2012, có 69.874 doanh
nghiệp đăng ký, trong khi đó có 44.906 doanh nghiệp dừng hoạt động và 9.355
doanh nghiệp giải thể (theo trang thông tin hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp). Như
vậy, tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo
Luật Phá sản năm 2004 đã được cải thiện nhưng không đáng kể. Điều này có thể
do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có nguyên nhân quy định pháp
luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo điều kiện
cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.
Thực tiễn áp dụng Luật Phá sản năm 2004 còn tồn tại một số vướng mắc;
có những quy định của Luật Phá sản năm 2004 còn mâu thuẫn, chưa tương thích
với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp
(hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách
hiểu khác nhau nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời; có những quy định chưa
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu mở thủ tục phá sản
cũng như doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản; có những quy
định chưa tương thích với pháp luật quốc tế... dẫn đến hiệu quả áp dụng quy
định Luật Phá sản năm 2004 vào thực tiễn không cao.



20
Nhận thức được những hạn chế, bất cập của Luật Phá sản năm 2004, Tòa
án nhân dân tối cao đã đề nghị và được Quốc hội quyết định đưa Dự án Luật phá
sản (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội
khoá XIII (2011-2016).
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13.
So với Luật Phá sản năm 2004, Luật phá sản (sửa đổi) năm 2014 được
đánh giá là có những sửa đổi khá căn bản và toàn diện. Liên quan đến vấn đề
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, một số nội dung của
pháp luật phá sản đã sửa đổi, bổ sung như: Tiêu chí xác định doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán, chế định Quản tài viên…
Đặc biệt với chế định Quản tài viên, Chính phủ đã ban hành Nghị định
22/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý,
thanh lý tài sản. Những quy định này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều
kiện cho hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
1.2.2. Nội dung pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
Các quy định của pháp luật phá sản phải bảo đảm đưa ra những cơ hội
thực tiễn cho việc duy trì hoặc tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp có khả
năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh; trong trường hợp doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán không có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh
doanh thì các quy định của Luật Phá sản phải bảo đảm trình tự và thủ tục giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản dân chủ, công khai, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp
dụng, nhanh gọn, công bằng; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan,
tổ chức trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Như vậy, mục tiêu của pháp luật phá sản là nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia quan hệ kinh tế trước những rủi ro trong kinh doanh và thông qua

đó góp phần ổn định trật tự đời sống xã hội. Do đó, những quy định của pháp


×