Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật Phá sản 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.09 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI LUẬT HÀ NỘI

HÀ THỊ KHÁNH HUYỀN

XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG
THANH TOÁN NỢ ĐẾN HẠN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
khoa học trong luận văn được trích đẫn theo đúng nguồn đã công bố. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào
trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Thị Khánh Huyền



LỜI CÁM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn khoa học – PGS.
TS Luật học Nguyễn Viết Tý, các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè đã động viên,
giúp đỡ trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn này.
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Thị Khánh Huyền


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH

6

NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ ĐẾN HẠN

1.1. Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn

6

1.1.1.

Khái niệm tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán 6
nợ đến hạn


1.1.2.

Các loại tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ 10
đến hạn

1.2. Khái quát về xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn – Thủ tục thanh toán nợ đặc biệt

15

1.2.1.

Xử lí tài sản của doanh nghiệp làm vào tình trạng mất khả năng 15
thanh toán nợ đến hạn - Thủ tục tư pháp đặc biệt

1.2.2.

Vai trò của xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh 18
toán nợ đến hạn

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN (2014) VỀ XỬ LÍ TÀI

23

SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
NỢ ĐẾN HẠN

2.1. Chủ thể tham gia xử lý nợ


23

2.1.1.

Toà án

23

2.1.2.

Các thiết chế quản lý tài sản

27

2.1.3.

Chủ nợ

30

2.1.4.

Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

32

2.2. Xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn
2.2.1.


35

Cách xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh 35
toán nợ đến hạn


2.2.2.

Các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mất khả năng 39
thanh toán nợ đến hạn

2.3. Xử lý nợ của doanh nghiệp và thứ tự phân chia tài sản

45

2.3.1.

Xác định các nghĩa vụ về tài sản

45

2.3.2.

Thứ tự phân chia tài sản

48

2.4. Thủ tục xử lý các loại tài sản của doanh nghiệp

51


2.4.1.

Kiểm kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp

51

2.4.2.

Thu hồi và quản lý tài sản

52

2.4.3.

Bán tài sản

53

2.4.4.

Thanh toán giá trị tài sản của doanh nghiệp

54

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC 55
XỬ LÍ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH
TOÁN NỢ ĐẾN HẠN

3.1. Tình trạng thực hiện pháp luật phá sản về xử lý tài sản của doanh

nghiệp mất khả năng thanh toán

55

3.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn Luật phá sản 2014, hoàn thiện 58
các quy định có liên quan đến xử lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán
3.3. Một số giải pháp khác

62

KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phá sản là hiện tượng ra đời, tồn tại trong nền kinh tế thị trường và là điều
tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Đây là hiện tượng kinh tế phát sinh khi các
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài và rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán.
Trong lịch sử lập pháp nước ta Luật Phá sản Doanh nghiệp 1993 là văn
bản pháp lý đầu tiên và có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh một cách toàn

diện, đầy đủ nhất về vấn đề này. Qua chín năm thi hành, đạo luật này đã phát huy
được vai trò điều chỉnh các hoạt động phát sinh trong quá trình phá sản, bảo vệ
quyền lợi của các bên liên quan cũng như thúc đẩy sự phát triển kinh tế, bảo vệ
trật tự xã hội nhưng mặt khác cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập, không phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất nước.
Luật Phá sản 2004 được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 là cố gắng
mới của các nhà lập pháp nước ta trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật đối với hiện tượng kinh tế khách quan có vai trò không nhỏ này trong
đời sống kinh tế. Luật Phá sản năm 2004 thay thế Luật Phá sản năm 1993, mặc
dù đã ra đời và có hiệu lực gần mười năm nhưng đã bộc lộ hàng loạt khiếm
khuyết và hạn chế, không phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Trong
điều kiện nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, mặt khác phá sản còn là vấn đề
mới mẻ nên đi các quy định của pháp luật chưa thật sự được thực thi một cách
hiệu quả. Không những thế, về mặt pháp lí, Luật Phá sản 2004 còn thiếu những
văn bản hướng dẫn thi hành hoặc có nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ, các quy
định chưa phù hợp với thực tiễn, dẫn đến việc áp dụng các quy định của pháp
luật còn hạn chế. Thực tiễn cho thấy, việc xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn hiện nay còn nhiều vướng mắc, chưa tạo được điều


2

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phá sản, muốn rút lui khỏi thị trường. Một
số quy định chưa hợp lí, một số khác còn chưa cụ thể và thiếu một số quy định
cần thiết để xử lí đối với các loại tài sản của doanh nghiệp. Các quy định hạn chế
đó chưa bảo đảm được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp mắc nợ, chủ nợ và
những người có liên quan, đồng thời chưa phát huy được vai trò của nó trong
việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh.
Trước tình hình đó, Luật Phá sản (2014) đã được Quốc hội biểu quyết

thông qua ngày 19/6/2014, Luật Phá sản (2014) gồm 14 chương, 133 điều, quy
định về trình tự, thủ tục nộp đơn, thụ lý và mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ
về tài sản và biện pháp bảo toàn tài sản trong quá trình giải quyết phá sản; thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh; tuyên bố phá sản và thi hành quyết định
tuyên bố phá sản. Luật áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Luật Phá
sản (2014) được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc hiện nay,
nhất là những vướng mắc trong vấn đề xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ. Để làm được điều đó, cần phải có sự nghiên cứu kĩ lưỡng
những vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn, đặt nó trong mối quan hệ với những quy định khác của
pháp luật phá sản, từ đó thấy được ưu điểm, hạn chế và đưa ra các biện pháp cần
thiết để Luật Phá sản (2014) nói chung và các quy định về xử lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sớm được áp dụng hiệu quả
vào thực tiễn. Đây cũng là lí do tác giả chọn vấn đề: “ Xử lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật phá sản 2014” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu và phân tích các quy định
trong hệ thống pháp luật phá sản nói riêng và các quy đinh pháp luật về xử lý tài


3

sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ nói chung. Như: (i) Đề tài của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
Ương: “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
phá sản ở Việt Nam” do Thạc sỹ Nguyễn Kim Anh làm chủ đề tài; (ii) Luận án
Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội: “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt

Nam”; (iii) Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Kim Chi, trường Đại
học Luật Hà Nội: “Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn theo Luật Phá sản 2004”; (iv) Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê
Thị Ngọc Hoa, trường Đại học Luật Hà Nội: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản”.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung khai thác một cách
tổng thể các quy định của pháp luật để từ đó đánh giá và đưa ra được những kiến
nghị hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đều chưa mang
lại cái nhìn toàn diện, sâu sắc và quan trọng nhất là những công trình này đều
phân tích quy định của pháp luật phá sản cũ (Luật Phá sản doanh nghiệp 1993,
Luật Phá sản 2004). Vì vậy, với đề tài nghiên cứu của mình, trên cơ sở kế thừa
và phát triển các công trình nghiên cứu trước, tác giả mong muốn tìm ra các giải
pháp để sớm đưa các quy định Luật Phá sản (2014) vào cuộc sống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài này nghiên cứu, hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan tới
việc xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và làm
sáng tỏ những quy định của Luật Phá sản (2014). Bên cạnh đó, đề tài này cũng
kết hợp tìm hiểu thực tiễn việc xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán của các Toà án Việt Nam. Trên cơ sở đó, tìm ra những giải pháp để
sớm đưa Luật Phá sản (2014) vào cuộc sống.
Với mục đích đó, đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ:


4

- Tìm hiểu những vấn đề mang tính lý luận về xử lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
- Phân tích các quy định hiện hành về xử lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc xử

lý nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phép biện chứng của chủ nghĩa
Mac- Lênin. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học
pháp lý cũng được sử dụng như phương pháp phân tích tổng hợp các quy định
trong các văn bản pháp luật Việt Nam về thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, phương pháp tổng hợp,....Bên cạnh những
nghiên cứu về các quy định của pháp luật Việt Nam, các tài liệu về phá sản và xử
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của một số nước
trên thế giới cũng được nghiên cứu và tham khảo. Phương pháp so sánh giữa
pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước trên thế giới nhằm thấy được
những ưu điểm, hạn chế và những bất cập của pháp luật Việt Nam so với pháp
luật của các nước trên thế giới, từ đó có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
5. Các kết quả mới đạt được của Luận văn
Hiện nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu Luật phá sản với tư
cách là một đạo luật nhưng thường tập trung nghiên cứu một cách khái quát về
trình tự, thủ tục, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Luận văn:
“Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật
phá sản 2014” sẽ nghiên cứu vấn đề xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn một cách cụ thể theo các quy định của pháp luật phá sản
mới ở Việt Nam. Luật phá sản (2014) mới bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2015 nên


5

cần có những giải pháp nhằm sớm đưa các quy định của luật vào áp dụng trong
cuộc sống.
Những điểm mới của Luận văn:
- Hệ thống hoá và giải quyết được vấn đề lí luận về xử lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật phá sản (2014);

- Phân tích làm rõ những quy định của Luật Phá sản (2014) về xử lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm nhằm sớm áp dụng các quy định của Luật
phá sản (2014) về xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn;
Ngoài ra, với những ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn, Luận văn còn là tài
liệu cần thiết cho những người nghiên cứu, học tập và những người làm công tác
thực tiễn liên quan tới vấn đề này.
6. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được cơ cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận về xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn;
Chương 2: Các quy định của Luật phá sản (2014) về xử lí tài sản doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả việc xử lí tài sản
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ ĐẾN HẠN
1.1. Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
1.1.1. Khái niệm tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn
Việc xác định phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán có ý nghĩa quan trọng vì không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ mà
còn là cơ sở để Toà án quyết định phương hướng giải quyết cụ thể. Trên thế giới,

pháp luật phá sản một số nước cũng có những quy định khác nhau về tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, dựa trên các tiêu chí khác
nhau như thời điểm tiến hành các thủ tục giải quyết phá sản, phạm vi không gian
tài sản hiện hữu hay nguồn tài sản,…
Theo Luật Phá sản của Hoa Kỳ năm 1978, tài sản phá sản bao gồm: (i)
Tất cả số tài sản của con nợ (bao gồm quyền và nghĩa vụ tài sản) mà không được
miễn trừ tại thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó; (ii) Tài sản phá sản cũng bao gồm
những tài sản mà con nợ có được trong vòng 180 ngày sau khi vụ án bắt đầu
bằng việc thừa kế hoặc những lợi ích từ chính sách bảo hiểm và bất kỳ một lợi
ích nào đối với tài sản có được sau khi vụ án bắt đầu.
Tài sản phá sản cũng bao gồm những tài sản mà Tín thác viên thu hồi
được theo thẩm quyền do luật định trong các trường hợp: (i) Quyền xiết nợ (đại
diện cho chủ nợ): Tín thác viên có quyền xiết nợ đối với các con nợ của doanh
nghiệp mà không cần sự đồng ý của con nợ (khoản 544 a); (ii) Các tài sản có
được từ những giao dịch ưu tiên trả nợ bị vô hiệu: Tín thác viên có quyền thu hồi
bất kỳ một sự chuyển nhượng, thanh toán bằng bất kỳ tài sản nào của con nợ
trước ngày phá sản nhằm để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp và đảm bảo sự
phân chia công bằng khối tài sản này (trừ những giao dịch mà pháp luật thừa


7

nhận theo khoản 574); (iii) Các tài sản có được do Tín thác viên đã thực hiện
việc xiết nợ người khác đối với tài sản của doanh nghiệp mà người tín thác này
đang quản lý [29].
Trong Luật Phá sản của Nhật Bản những tài sản có được sau khi tuyên bố
phá sản thì không được tính vào khối tài sản của doanh nghiệp mà được xếp vào
loại tài sản mở rộng với lý do là: nếu đưa vào loại tài sản phát sinh này sẽ tạo ra sự
phức tạp cũng như khó khăn trong tính toán và đồng thời cũng tạo ra tính không
công bằng trong việc xác định quyền và trách nhiệm của các bên có liên quan đến

khối tài sản đó. Luật Phá sản của Nhật Bản còn quy định: tài sản nào ở ngoài
phạm vi lãnh thổ của Nhật Bản không được coi là một bộ phận của khối tài sản
phá sản do khả năng giám sát, đánh giá, thu hồi là khó có thể tiến hành được [24].
Cũng trong pháp luật phá sản của Nhật Bản, khối tài sản phá sản bao gồm
tài sản của con nợ tại thời điểm tuyên bố phá sản là đối tượng của thủ tục tư
pháp. Những tài sản mà người được uỷ thác thu hồi được thông qua quyền phủ
nhận cũng thuộc về khối tài sản phá sản. Quyền chủ sở hữu cũng là một loại tài
sản thuộc khối tài sản phá sản. Tài sản này không nhất thiết phải nhìn thấy được
và không nhất thiết phải được thể hiện trên sổ sách hoặc tài sản của con nợ. Tài
sản cầm cố cũng là một tài sản trong khối tài sản phá sản [16].
Luật Phá sản của Liên bang Nga ban hành ngày 26/10/2002 đã đưa ra
cách xác định tài sản phá sản bao gồm: (i) Tất cả tài sản của người mắc nợ thể
hiện trong bảng cân đối kế toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác
định tài sản phá sản; (ii) Trong tài sản phá sản còn bao gồm các đối tượng thuộc
lĩnh vực công cộng nằm trong bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các
trường mẫu giáo và các công trình sản xuất hạ tầng quan trọng đối với đời sống
khu vực, cần được đưa vào bảng cân đối của các cơ quan tự quản địa phương
hoặc cơ quan quyền lực nhà nước hữu quan, nếu pháp luật của Liên bang quy
định khác... (iii) Tài sản phá sản không bao gồm tài sản là vật bảo đảm. Tài sản


8

phá sản không bao gồm tài sản không thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ,
trong đó, có tài sản do mắc nợ thuê; tài sản mà người mắc nợ có trách nhiệm bảo
quản; tài sản riêng của công nhân viên doanh nghiệp mắc nợ, trừ tài sản mà theo
quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp có thể được thu hồi để
thực hiện các nghĩa vụ của người mắc nợ (theo quy định tại Điều 26, Luật Phá
sản Nga) [9].
Luật Phá sản doanh nghiệp của Trung Quốc năm 1986 (chỉ áp dụng đối

với các doanh nghiệp nhà nước) đã quy định: Tài sản phá sản là những tài sản
sau đây: (i) Tài sản mà doanh nghiệp phá sản điều hành quản lý tại thời điểm
tuyên bố phá sản; (ii) Tài sản mà doanh nghiệp phá sản có được trong thời gian
kể từ khi tuyên bố phá sản cho đến khi hoàn tất phá sản; (iii) Các quyền tài sản
khác mà doanh nghiệp phá sản phải thực hiện; (iv) Tài sản thuộc vật bảo đảm thì
không phải là tài sản phá sản; phần giá trị của vật bảo đảm vượt quá giá ngạnh
của khoản nợ mà nó đảm bảo thì thuộc tài sản phá sản (Điều 28). Như vậy, cách
quy định đối với trường hợp này trong pháp luật Trung Quốc cho thấy có sự
tương đồng với pháp luật của Nga [31].
Với cách xác định khối tài sản phá sản trong Luật Phá sản của một số
nước được đề cập trên cho thấy có một số khía cạnh đáng quan tâm là:
Thứ nhất, việc xác định khối tài sản căn cứ vào thời điểm trong thủ tục
giải quyết phá sản. Ở đây có hai khuynh hướng là: Một là, khối tài sản phá sản
chỉ được thừa nhận đến thời điểm mở thủ tục giải quyết việc phá sản doanh
nghiệp (như trong Luật Phá sản của Nhật Bản); hai là, khối tài sản phá sản không
chỉ tính đến thời điểm mở thủ tục mà còn bao gồm cả những tài sản phát sinh
trong quá trình giải quyết phá sản (như trong Luật Phá sản của Hoa Kỳ, Nga,
Trung Quốc).
Thứ hai, việc xác định khối tài sản phá sản có tính đến phạm vi không
gian mà những tài sản của doanh nghiệp đang hiện hữu. Trong Luật Phá sản của


9

một số quốc gia chỉ coi là thuộc khối tài sản phá sản những tài sản nào hiện đang
nằm trong phạm vi lãnh thổ của nước đó (như trong Luật Phá sản của Nhật Bản).
Còn đa số quốc gia thì hoặc là không giới hạn hoặc không có quy định rõ về
nguyên tắc đối với trường hợp này.
Thứ ba, việc xác định khối tài sản phá sản căn cứ vào loại hình tài sản hay
nguồn tài sản. Trong Luật Phá sản của một số nước thực hiện phân loại dựa trên

sự quan tâm đến đặc điểm của nguồn hình thành của tài sản. Ví dụ như tài sản
hiện có của bản thân doanh nghiệp phản ánh trong sổ sách kế toán tại thời điểm
mở thủ tục, những tài sản thu hồi từ việc xiết nợ…(ví dụ Luật Phá sản Hoa Kỳ).
Đồng thời, bên cạnh các quy định nguồn hình thành hoặc việc thu hồi tài sản của
doanh nghiệp, còn bao gồm cả những quy định về đặc điểm loại hình tài sản (tài
sản là bất động sản hay động sản; tài sản hữu hình hay tài sản vô hình,…), hay
thuộc tính sở hữu của tài sản trong cấu trúc tài sản của doanh nghiệp (như trong
Luật Phá sản của Liên bang Nga).
Thứ tư, việc xác định khối tài sản phá sản trong Luật Phá sản của các
nước phần lớn đều có sự xác định rõ về nhóm các loại tài sản loại trừ (không
thuộc khối tài sản phá sản). Cơ sở của sự loại trừ cũng có sự khác nhau. Có các
dạng loại trừ chính trong Luật Phá sản của các nước là:
- Thời điểm phát sinh tài sản: Nhật Bản
- Phạm vi không gian tài sản tồn tại: Nhật Bản.
- Tính chất sở hữu của tài sản: Trung Quốc, Nga.
- Giá trị tài sản và mục đích, công dụng của tài sản: Hoa Kỳ.
Trong pháp luật phá sản Việt Nam, Điều 64 Luật Phá sản (2014) đã quy
định về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán như sau:
- Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán gồm: (a)
Tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm Tòa án


10

nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản; (b) Tài sản và quyền tài sản có được
sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản; (c) Giá trị của tài
sản bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm mà doanh nghiệp, hợp tác xã phải
thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm; (d) Giá trị quyền sử dụng đất của doanh
nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai; (đ) Tài
sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; (e)

Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô hiệu; (g) Các tài sản
khác theo quy định của pháp luật.
- Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh mất khả năng thanh
toán gồm: (a) Tài sản quy định tại khoản 1 Điều này; (b) Tài sản của chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh
doanh; trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài sản
thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên
hợp danh đó được chia theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định của
pháp luật có liên quan.
- Trường hợp hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì việc xử lý tài sản không
chia được thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp tác xã.
Luật Phá sản (2014) không có điều luật quy định riêng về khái niệm tài
sản phá sản mà chỉ quy định theo hướng liệt kê các loại tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Như vậy, tài sản phá sản theo pháp
luật phá sản Việt Nam bị giới hạn về thời gian (khối tài sản phá sản tính đến thời
điểm mở thủ tục và những tài sản phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản);
không bị giới hạn bởi không gian, loại, nguồn tài sản và các danh mục loại trừ.
1.1.2. Các loại tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn
Các loại tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn bao
gồm: tài sản có và tài sản nợ.


11

● Tài sản có
Tài sản có là những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử
dụng của doanh nghiệp. Tài sản có thể được phân loại thành tài sản hữu hình và
tài sản vô hình; động sản và bất động sản. Cách phân loại tài sản dựa trên các
căn cứ khác nhau: thứ nhất, căn cứ vào việc có hay không có đặc tính vật lý, tài

sản được chia thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình; thứ hai, căn cứ vào đặc
tính di dời hay không di dời được của tài sản hữu hình và các quyền được thiết
lập trên đó hay không được thiết lập trên đó, tài sản được chia thành động sản và
bất động sản.
- Bất động sản là các tài sản không di dời được. Bất động sản có đặc điểm
là gắn cố định với một không gian, vị trí nhất định, không di dời được, bao gồm:
đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền
với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản
khác do pháp luật quy định. Các bất động sản là nhà cửa, vật kiến trúc như trụ sở
làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà
cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, đường băng sân bay, cầu tầu, cầu cảng.
Các xác định tài sản là bất động sản hợp pháp là căn cứ vào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, hoặc một trong các giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật về đất đai, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyết
định cấp nhà cấp đất, quyết định giao đất, cho thuê đất, thanh lý, hóa giá, tặng
của cơ quan có thẩm quyền theo quy định hiện hành của pháp luật, giấy tờ thừa
kế Nhà ở được pháp luật công nhận, bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan
có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật về sở hữu nhà ở.
- Động sản là những tài sản không phải là bất động sản (máy, thiết bị,
phương tiện vận tải, dây chuyền công nghệ…). Động sản là máy móc, thiết bị: là
toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, giàn khoan trong lĩnh vực


12

dầu khí, cần cẩu, dây truyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ. Thiết bị, dụng cụ
quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ quản lý, thiết bị điện tử, thiết bị,
dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi, chống mối mọt.

Các xác định và nhận diện tài sản là động sản là căn cứ vào hồ sơ, tài liệu,
chứng từ, hóa đơn mua bán, nhập khẩu… của tài sản. Trường hợp hồ sơ, tài liệu
về tài sản bị thất lạc hoặc bị tiêu hủy do nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai,
hỏa hoạn….) thì dựa trên khai báo, cam kết, xác nhận của khách hàng hoặc dựa
trên danh mục tài sản trong Bảng cân đối kế toán gần nhất của doanh nghiệp để
xác minh.
- Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất do chủ tài sản
nắm giữ để sử dụng phục vụ các mục đích của mình; nó bao gồm tài sản ngắn
hạn và tài sản dài hạn.
+ Tài sản ngắn hạn là tài sản: Được dự tính để bán hoặc sử dụng trong
khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp; được nắm giữ
chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích ngắn hạn; là tiền hoặc tài
sản tương đương mà việc sử dụng không gặp một hạn chế nào.
+ Tài sản dài hạn là các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn, bao gồm: tài
sản cố định, tài sản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác.
- Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định
được giá trị do chủ tài sản nắm giữ để sử dụng phục vụ mục đích của mình; nó
bao gồm: kỹ năng quản lý, bí quyết marketing, danh tiếng, uy tín, tên hiệu, biểu
tượng doanh nghiệp và việc sở hữu các quyền và công cụ hợp pháp (quyền sử
dụng đất, quyền sáng chế, bản quyền, quyền kinh doanh hay các hợp đồng).
Các quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.Quyền tài sản là tài sản vô
hình. Quyền tài sản là một khái niệm pháp lý bao hàm tất cả quyền, quyền lợi và


13

lợi tức liên quan đến quyền sở hữu, nghĩa là người chủ sở hữu được hưởng một
hay những quyền lợi khi làm chủ tài sản đó. Quyền sở hữu tài sản là một nhóm
những quyền năng mà mỗi quyền năng có thể tách rời với quyền sở hữu và

chuyển giao trong giao dịch dân sự, bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng,quyền định đoạt. Quyền tài sản gắn với lợi ích thu được từ quyền tài sản
được gọi là tài sản thực.
● Tài sản nợ
Tài sản nợ là các loại nợ của doanh nghiệp, căn cứ vào sự an toàn đối với
các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, có thể phân loại nợ
thành: nợ có đảm bảo, nợ có đảm bảo một phần, nợ không có đảm bảo.
- Nợ có đảm bảo: là các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh
nghiệp hoặc của người thứ ba. Căn cứ vào thời hạn thanh toán nợ trước thời
điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có nợ đến hạn và nợ chưa
đến hạn. Những tài sản này được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh hoặc các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Nợ có bảo đảm một phần: là các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà gía trị tài sản bảo đảm ít
hơn khoản nợ đó.
Việc xác định rõ chủ nợ có bảo đảm hay bảo đảm một phần đến nay còn
gặp rất nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do sự biến động của giá trị tài
sản bảo đảm. Thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp những năm qua cho
thấy tòa án thường lúng túng khi xác định nghĩa vụ tài sản có bảo đảm bởi giá trị
tài sản thường xuyên biến động tang lên hoặc hạ xuống. Việc xác định chủ nợ có
bảo đảm hay có bảo đảm một phần phải căn cứ vào ý chí của hai bên tại thời
điểm xác lập giao dịch bảo đảm, căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm từ thời điểm
xác lập giao dịch bảo đảm và căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm từ thời điểm chủ
nợ yêu cầu doanh nghiệp thanh toán nợ. Nếu tại thời điểm chủ nợ yêu cầu thanh


14

toán nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán nợ thì khoản nợ đó
được coi là nợ có bảo đảm một phần, phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong

quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
- Nợ không có bảo đảm: Nợ không có bảo đảm là các khoản nợ không
được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba. Các
khoản nợ không có bảo đảm sẽ được thanh toán theo trình tự và thủ tục được quy
định trong luật Phá sản.
Việc phân biệt như trên một mặt giúp tòa án sớm xác định được dấu hiệu
phá sản của doanh nghiệp mắc nợ (khi doanh nghiệp có số nợ không bảo đảm
lớn và không có khả năng thanh toán số nợ đến hạn), mặt khác tòa án sẽ sớm xác
định được quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ, cũng như cách thức xử lý các
khoản nợ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và của doanh
nghiệp mắc nợ.
Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, có thể chia thành: Nợ
đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán.
- Nợ đến hạn thanh toán là khoản nợ theo đó doanh nghiệp mắc nợ phải có
nghĩa vụ thanh toán ngay cho chủ nợ khi họ có yêu cầu.
- Nợ chưa đến hạn thanh toán là khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp chưa
phát sinh nghĩa vụ thanh toán. Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các
khoản nợ được tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi.
Đối với khoản nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác định
theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật. Kể từ ngày ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì khoản nợ không được
tiếp tục tính lãi.
Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán giúp
tòa án có thể xác định chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả


15

năng thanh toán nợ hay chưa. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tính

trạng phá sản khi mà doanh nghiệp có các khoản nợ đến hạn, các khoản nợ này
là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đã được các bên
xác nhận, có đầy đủ chứng cứ chứng minh các khoản nợ này là có thật và không
có tranh chấp. Đồng thời với đó là chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh
nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán. Yêu cầu của chủ nợ thanh toán
các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu nhưng
không được doanh nghiệp thanh toán.
1.2. Khái quát về xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn – Thủ tục thanh toán nợ đặc biệt
1.2.1. Xử lí tài sản của doanh nghiệp làm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn - Thủ tục tư pháp đặc biệt
● Việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể và thông qua cơ quan có
thẩm quyền
Bản chất của thủ tục xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn là thủ tục thanh toán nợ tập thể. Nếu như trong thủ tục đòi nợ
thông thường, các chủ nợ thực hiện việc quyền đòi nợ của mình một cách độc
lập, riêng rẽ thì việc thanh toán nợ trong thủ tục phá sản được tiến hành một cách
tập thể. Tính tập thể của thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán thể hiện ở những nội dung:
- Tất các các chủ nợ đều có quyền tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh
toán nợ. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở
thủ tục phá sản, chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết hạn gửi giấy
đòi nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải lập danh sách
chủ nợ, thu thập tài liệu liên quan đến khoản nợ và niêm yết công khai danh
sách chủ nợ.


16


- Kể từ thời điểm Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp
mắc nợ không được thanh toán bất kì khoản nợ riêng cho bất kì chủ nợ nào. Các
chủ nợ cũng không thể đòi thanh toán riêng khoản nợ của mình mà phải thông
qua thủ tục gửi giấy đòi nợ.
- Trong quá trình giải quyết phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi
nợ riêng mà phải cùng với đại diện người lao động tập hợp lại thành một chủ thể
pháp lý duy nhất, gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có số
chủ nợ tham gia đại diện cho ít nhất 51% tổng số nợ không có bảo đảm. Hội nghị
chủ nợ có quyền đề nghị áp dụng biện pháp phục hồi kinh doanh; có quyền đề
nghị tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
- Thủ tục xử lý tài sản không được áp dụng riêng rẽ đối với từng chủ nợ
mà được áp dụng đối với tập thể chủ nợ, toàn bộ tài sản của con nợ được đưa vào
một quỹ chung dùng để trả nợ cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định
được pháp luật phá sản quy định trước.
Sở dĩ thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản được quy định là một
thủ tục thanh toán tập thể, vì khi Toà án ra quyết định mở thủ tục tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, không phải tất cả các chủ nợ đều được thanh toán đầy đủ các
khoản nợ của mình. Do đó, thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản phải
được tiến hành tập thể để đảm bảo quyền lợi công bằng cho tất các các chủ nợ.
Các chủ nợ sẽ được thanh toán theo một thứ tự trên cơ sở tính chất các khoản nợ,
đảm bảo vị trí của các chủ nợ trong quá trình tố tụng. Hơn nữa, việc từng chủ nợ
đi đòi nợ sẽ dẫn tới hiện tượng ai nhanh chân thì có lợi hơn và người đến sau
không được giải quyết quyền lợi. Vì vậy cần phải có một thủ tục mang tính tập
thể thay cho quyền đòi nợ riêng lẻ của từng cá nhân.
Việc đòi nợ và thanh toán các khoản nợ tiến hành thông qua một cơ
quan đại diện có thẩm quyền. Toá án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung Ương hoặc Toà án nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn giải


17


quyết việc phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Chủ nợ có
quyền đòi nợ và việc đòi nợ phải thông qua Toà án thể hiện ở thủ tục gửi giấy
đòi nợ. Việc thanh toán nợ của doanh nghiệp cũng không diễn ra trực tiếp mà
phải thông qua đại diện là quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản. Chủ nợ nhận được số nợ của mình từ đây chứ không phải trực tiếp từ
doanh nghiệp mắc nợ. Đây cũng là điểm khác biệt của thủ tục phá sản so với
thủ tục thanh toán nợ thông thường.
● Thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại
của doanh nghiệp
Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở tài sản còn lại của
doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là nợ bao nhiêu thì trả bấy nhiêu như
trong dân sự mà nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng
toàn bộ tài sản của mình để trả nợ, mặc dù có thể chưa thanh toán đủ cho các chủ
nợ. Đối với pháp nhân, khi hoàn thành nghĩa vụ này cũng đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của pháp nhân đó nên việc xóa nợ đối với doanh nghiệp bị phá sản là
đương nhiên [30]. Đối với doanh nghiệp tư nhân, thành viên của công ty hợp
danh, quyết định tuyên bố doanh nghiệp quy định tại các điều 105, 106 và 107
của Luật Phá sản (2014) không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa
được thanh toán nợ, trừ trường hợp người tham gia thủ tục phá sản có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Tính chất đặc biệt của thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn còn thể hiện ở chỗ, không có con nợ nào được quyền
thanh toán riêng rẽ mà không được sự cho phép của Thẩm phán. Kể từ khi có
quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản, mọi giao dịch liên quan đến tài sản của
doanh nghiệp phải được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của Thẩm phán và Tổ
quản lý, thanh lý tài sản. Tài sản của doanh nghiệp được kiểm kê và quản lý theo



18

một thủ tục nhất định, đảm bảo bảo toàn tài sản và gia tăng tài sản một cách hợp
pháp để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và con nợ. Các khoản nợ của doanh nghiệp
được phân chia theo một thứ tự và tỉ lệ nhất định. Việc thanh toán các khoản nợ
được thực hiện lần lượt theo thứ tự.
● Thanh toán nợ các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của
Toà án
Trong thủ tục thanh toán nợ thông thường, thời điểm thanh toán khoản
nợ có thể diễn ra bất kì lúc nào, theo phương thức do hai bên lựa chọn, Toà án
hạn chế tối đa sự can thiệp vào quá trình giải quyết của các bên đương sự. Toà
án là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định việc phục hồi, thanh lý tài sản hoặc
tuyên bố phá sản nhưng Toà án không trực tiếp thanh toán nợ của doanh
nghiệp mà thông qua quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản.Việc thanh toán các khoản nợ chỉ được tiến hành sau khi có quyết định
của Toà án, chỉ khi Toà án cho phép, doanh nghiệp mắc nợ mới được thanh
toán cho các chủ nợ. Quy định việc thanh toán các khoản nợ chỉ được tiến
hành khi có quyết định của Toà án nhằm đảm bảo sự phân chia công bằng tài
sản cho tất cả chủ nợ cũng như tạo điều kiện cho doanh nghiệp mắc nợ phục
hồi hoạt động kinh doanh.
Thủ tục xử lý tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là một thủ
tục thanh toán nợ đặc biệt, khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường.
1.2.2. Vai trò của xử lí tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn
Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là một vấn đề
kinh tế - xã hội phức tạp, có vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Vai
trò đó thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
● Đối với các chủ nợ



19

Đối với chủ nợ, xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
nợ bảo vệ một cách hiệu quả nhất quyền lợi của họ, cung cấp cho các chủ nợ một
công cụ để thực hiện việc đòi nợ. Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán, chủ nợ là những người đầu tiên có nguy cơ mất trắng những
khoản tín dụng mà trước đây họ đã cung cấp cho con nợ. Tính ưu việt của cơ chế
đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi nợ được bảo đảm bằng việc
toà án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ và thông qua đó mà bán
toàn bộ tài sản để trả cho các chủ nợ. Mặc dù ngày nay, tố tụng phá sản còn phải
thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong đó có mục tiêu giúp doanh nghiệp
mắc nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng về cơ bản, tố tụng
phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt ra nhằm trước
hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Trong quá trình giải quyết,
pháp luật phá sản đưa ra các cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ tối
đa lợi ích của mình như: kiểm tra, giám sát các hoạt động, hành vi của con nợ,
tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp tời quyền lợi của mình,
khiếu nại các quyết định của tòa án… tất cả nhằm mục đích tối đa hóa khả năng
thu hồi nợ.
Bên cạnh đó, thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán còn là công cụ đảm bảo sự công bằng trong thanh toán giữa các chủ nợ. Tất
các các chủ nợ đều có quyền tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán nợ,
doanh nghiệp mắc nợ không được thanh toán bất kì khoản nợ riêng cho bất kì
chủ nợ nào. Toàn bộ tài sản của con nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả
nợ cho các chủ nợ, các chủ nợ sẽ được thanh toán theo một thứ tự trên cơ sở tính
chất các khoản nợ, đảm bảo vị trí của các chủ nợ trong quá trình tố tụng.
● Đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ.
Lúc đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là



20

một phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt
bằng nhiều hình thức, kể cả việc tử hình. Ngày nay, quan niệm về việc kinh
doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của nhà nước và pháp luật đối với
con nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cũng đã được thiết kế theo
hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro, do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách
quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có
thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Mặt khác, một
doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà
trước hết là đối với người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi
các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì vấn đề đầu tiên mà nhà nước quan
tâm giải quyết không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân
chia tài sản của nó cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ
doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp
luật của đa số các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để
doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán lựa chọn, áp dụng [8].
Pháp luật phá sản hiện đại, bên cạnh việc bảo vệ chủ nợ còn hướng tới bảo vệ lợi
ích của con nợ như: giảm bớt gánh nặng tài chính (bằng việc ấn định thời điểm
ngừng trả nợ, tại điều kiện cho con nợ thương lượng với chủ nợ để xóa nợ, giảm
nợ, mua nợ…), hạn chế những hành vi pháp lí chống lại con nợ từ phía chủ nợ,
buộc các chủ nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ, tránh được
những áp lực về mặt nhân thân cũng như về mặt tinh thần cho các con nợ (chủ
nợ có thể thuê người đi đòi nợ, đánh đập, chủi bới hoặc doạ nạt con nợ). Con nợ
được tạo cơ chế, điều kiện để khôi phục lại tình hình tài chính và sản xuất kinh
doanh của mình. Khi con nợ có những dấu hiệu không thể khắc phục được, pháp
luật phá sản còn đưa ra cơ chế giúp cho việc thanh lí tài sản của con nợ được
nhanh nhất và giải phóng còn nợ khỏi trách nhiệm thanh toán đối với các chủ nợ.

Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, đem lại cho các doanh nghiệp mất


×