B T PHP
B GIO DC V O TO
Trường đại học luật hà nội
Tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam
Những vấn đề lý luận và thực tiễn
đề tài khoa học cấp trường
Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Công Lạc
hà nội 2006
Tt
Chuyên đề
Người thực hiện
1
Khái niệm chung về tài sản và các cách phân loại tài T.S. Phạm Công Lạc
sản trong pháp luật dân sự
2
Ch phỏp lý i vi ti sn v hng hon thin Th.S. Nguyễn Minh Tuấn
cỏc quy nh chung v ti sn trong Lut Dõn s
3
Vật - Bản chất và chế độ pháp lý của vật với tư cách T.S Phạm Văn Tuyết
là một loại tài sản.
4
Tiền, ngoại tệ trong quan h phỏp lut dõn s
5
Giấy tờ có giá, các loại giấy tờ có giá- Bản chất và T.S Phạm Giang Thu
chế độ pháp lý của các giấy tờ có giá với tư cách là
một loại tài sản.
6
Những bất cập trong việc quản lý và xử lý tranh
T.S Phạm Giang Thu
chấp liên quan đến giấy tờ trị có giá và phương
hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về giấy tờ
có giá.
7
Quyền tài sản: c im v cỏc loi quyn ti sn
8
Quyền sử dụng đất, đặc điểm và ni dung pháp lý Th.S. Trần Quang Huy
của quyền sử dụng đất
9
Quyền yêu cầu đặc điểm và bản chất pháp lý của Th.S. Vũ Thị Hồng Yến
quyền yêu cầu
T.S. Bùi Đăng Hiếu
T.S. Phùng Trung Tập
10 Quyền sở hữu trí tuệ, đặc điểm và bản chất pháp lý Th.S. Lê Đình Nghị
của quyền sở hữu trí tuệ
11 Những bất cập và phương hướng hoàn thiện các quy Th.S. Ng. Như Quỳnh
định của pháp luật về Vit Nam v quyn s hu trớ
tu
1
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài;
Sở hữu là vấn đề trung tâm của các quan hệ xã hội nói chung, pháp luật nói
riêng. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn xác định sở hữu, quyền sở
hữu là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự, các quan hệ tài sản luôn
xuất phát từ quan hệ sở hữu và sau đó lại hướng tới quan hệ sở hữu, vì nó và
do nó để tạo thành các quan hệ pháp luật dân sự khác.
Tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, là khách thể của quan hệ pháp luật
về sở hữu, là mục đích của nhiều quan hệ pháp luật mà các chủ thể tham gia
các quan hệ đó.
Khái niệm và cách phân loại tài sản không phải là vấn đề mới đối với luật
pháp của các quốc gia trên thế giới. Các luật gia La Mã đã đề cập đến tài sản
và phân loại tài sản với nhiều cách phân loại khác nhau, theo các tiêu chí khác
nhau với các ý nghĩa khác nhau về phấp lý cũng như thực tiễn. Pháp luật của
các nước Pháp, Nhật Bản, Thái Lan...và nhiều nước khác trên thế giới cũng đề
cập đến khái niệm và phân loại tài sản.
Sở dĩ khái niệm và cách phân loại tài sản lại được giới luật gia quan tâm
nhiều bởi xuất phát từ ý nghĩa xã hội, thực tế và pháp lý của tài sản: việc xây
dựng khái niệm, cách phân loại sẽ tạo ra cơ chế pháp lý riêng để điều chỉnh
các loại tài sản; là cơ sở pháp lý cho việc ban hành các văn bản pháp lý
chuyên ngành đề cập đến tài sản trong từng lĩnh vực cụ thể(đăng ký giao dịch
bảo đảm, xây dựng...).
nước ta, khái niệm tài sản và phân loại tài sản được đề cập trong Bộ luật
Dân sự năm 1995. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 1995 khi đề cập đến khái
niệm tài sản cũng chỉ dừng lại ở dạng liệt kê mà không đưa ra khái niệm tài
sản ở dạng khái quát. Bộ luật Dân sự sửa đổi năm 2005 có một số sửa đổi, bổ
sung trong các qui định về tài sản, tuy nhiên những sửa đổi, bổ sung này cũng
chưa khắc phục được những khiếm khuyết trong các qui định về tài sản, phân
loại tài sản của Bộ luật Dân sự năm 1995.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định về tài sản trong
pháp luật dân sự là một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thông qua việc nghiên cứu tài sản sẽ có những luận giải cụ thể xung quanh
2
vấn đề này, đồng thời giúp cho các luật gia, các cán bộ nghiên cứu luật pháp
hiểu rõ hơn qui định về tài sản, từ đó có những định hướng tốt hơn trong công
tác của mình khi tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài;
Như trên đã phân tích: Tài sản là một trong những chủ đề được quan tâm
của nhiều nhà khoa học kinh tế và pháp lý. Tài sản là khách thể của quyền sở
hữu, sở hữu là vấn đề trung tâm của pháp luật dân sự. Có thể khẳng định rằng
tài sản là vấn đề vô cùng quan trọng khi chúng ta xem xét các vấn đề có liên
quan đến tài sản trong các giao dịch dân sự, kinh tế. Dù tài sản là vấn đề quan
trọng như vậy nhưng trong Bộ luật dân sự năm 1995 chúng ta chỉ đề cập đến
khái niệm tài sản dưới dạng liệt kê, phân loại tài sản theo một số tiêu chí nhất
định...
Đã có một số công tình nghiên cứu về tài sản như Tài sản trong Luật
dân sự của Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Điện (1999), một số khóa luận của sinh
viên tuy nhiên những công trình này vẫn chưa chỉ ra được những bất cập về
tài sản, phân loại tài sản, hướng hoàn thiện pháp luật. Nghiên cứu một cách cụ
thể, chi tiết, có hệ thống về tài sản dưới góc độ hình thành và phát triển của
khoa học pháp lý, phân loại theo các tiêu chí khác nhau, quan niệm mới về tài
sản trong giai đoạn hiện nay thì chưa có một công trình khoa học nào đề cập
cụ thể.
Trong thời gian vừa qua có một số công trình nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề tài sản và quyền sở hữu như:
- Sách tham khảo của tác giả PGS.TS. Nguyễn Văn Thạo và TS. Nguyễn
Hữu Đạt với tên gọi Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay (NXB
Chính trị quốc gia - 2004). Đây là cuốn sách thuộc ngành Kinh tế học, đề cập
đến vấn đề sở hữu chỉ dưới góc độ kinh tế. Trong nội dung cuốn sách cũng có
chứa một mục nhỏ phân tích về các hình thức sở hữu, nhưng không phân tích
góc độ pháp lý của tài sản, không hề nêu ra phương hướng hoàn thiện pháp
luật về tài sản.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước mang mã số KX 01-04 (thuộc Chương
trình KX-01 năm 2001 2005) của chủ nhiệm đề tài GS. TS. Nguyễn Thanh
Tuyền (Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh) với tiêu đề Sở hữu tư nhân,
3
kinh tế tư nhân và các loại hình kinh tế tư nhân: Bản chất, vị trí, vai trò của
nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề
tài này đang trong giai đoạn chuẩn bị nghiệm thu và đề cập đến khía cạnh
kinh tế của sở hữu. Đề tài này không có nội dung khảo sát hệ thống các quy
định pháp luật về tài sản, không nghiên cứu phương hướng hoàn thiện pháp
luật về tài sản.
- Đề tài độc lập cấp nhà nước của chủ nhiệm đề tài TS. Hà Huy Thành
(Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn) với đề
tài Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đề tài này đang
trong giai đoạn thực hiện và có nội dung không liên quan đến vấn đề tài sản.
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh với đề tài
Quyền sở hữu của cá nhân và phương thức bảo vệ (Bảo vệ tại Trường Đại
học Luật Hà Nội). Luận án chỉ đề cập đề một hình thức sở hữu duy nhất là sở
hữu tư nhân, chưa khảo sát vấn đề tài sản.
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Phạm Công Lạc với đề tài Quyền
sử dụng hạn chế bất động sản liền kề (Bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà
Nội). Đề tài này cũng thuộc chế định tài sản và quyền sở hữu, nhưng hoàn
toàn không đề cập đến vấn đề khái niệm tài sản và các loại tài sản.
- Một số nghiên cứu của sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam học tập
và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam có liên quan đến vấn đề tài
sản, nhưng mới chỉ được đăng tải và công bố dưới dạng bài báo hay luận văn.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này có nội dung chủ yếu mang tính chất thông tin
về từng văn bản pháp luật cụ thể hay thể hiện đánh giá của riêng tác giả về
từng vấn đề riêng biệt liên quan đến tài sản.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu đề tài trên đây, chúng ta nhận thấy
rằng đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tài sản trong pháp luật
dân sự Việt Nam là một đề tài mang tính mới và không trùng lặp với các đề
tài được thực hiện trong những năm gần đây.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài;
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu các qui định của Bộ
luật Dân sự Việt Nam về tài sản, qua đó đối chiếu, so sánh với pháp luật của
một số nước trên thế giới để có sự đánh giá khách quan, toàn diện trong qui
định của pháp luật về tài sản. Qua đó, có những khuyến nghị liên quan đến
4
việc hiểu, vận dụng pháp luật cũng như hướng sửa đổi, bổ sung các qui định
về tài sản trong Luật Dân sự.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài;
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu sự phát triển của pháp luật dân sự trong qui định về tài sản
từ năm 1945 đến nay;
- Phân tích, làm rõ các qui định về tài sản, phân loại tài sản trong Bộ luật
Dân sự;
- Tìm hiểu, phân tích các loại tài sản cụ thể, đặc thù của pháp luật dân sự;
- So sánh các qui định về tài sản, phân loại tài sản trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam với pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới;
- Đưa ra những giải pháp trong việc thực thi, hoàn thiện pháp luật trong
các qui định về tài sản.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài;
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lê Nin; các phương pháp phân tích, so sánh,
diễn giải, qui nạp cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
5
TổNG THUậT NộI DUNG CáC CHUYÊN Đề NGHIÊN CứU
1. Khái niệm chung về tài sản và cách phân loại tài sản trong pháp
luật dân sự
Tài sản hiểu theo nghĩa thông thường nhất là: Của cải vật chất hoặc
tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu. Với nghĩa này tài sản luôn gắn với
một chủ thể xác định trong một xã hội nhất định. Do đó, quan niệm về tài sản
cũng thay đổi theo xã hội do ý nghĩa và quan niệm của xã hội đối với của cải
trong xã hội đó tại những thời điểm lịch sử nhất định. Do các quan niệm về vật
nói riêng và tài sản nói chung, cũng như ý nghĩa, và giá trị của tài sản trong
mỗi một xã hội có thể khác nhau, thậm chí, ngay cả trong một xã hội nhưng
các quan niệm trên cũng có sự khác nhau trong từng giai đoạn điểm lịch sử
nhất định. Vì thế, các tiêu chí để phân định tài sảnểtong mỗi một thời kỳ luôn
khác nhau. Tuy nhiên, mỗi cách phân định tài sản đều có những ý nghĩa nhất
định để phục vụ cho những mục đích nhất định.
Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản được hình thành
trong quá trình lịch sử do giá trị đặc biệt của đất đai về kinh tế - xã hội với tư
cách là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, cùng với đặc tính tự nhiên của nó là
không di dời được. Pháp luật các nước và Việt Nam cũng tiếp nhận cách phân
loại này.
Điều 174 BLDS 2005 đưa ra khái niệm bất động sản theo dạng liệt kê
những tài sản nào được coi là bất động sản còn lại được coi là động sản. Việc
phân định tài sản thành động sản và bất động sản không chỉ có ý nghĩa về lý
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Bởi vì, gắn liền với sự phân biệt đó
là những quy chế pháp lý khác biệt về bất động sản so với quy chế pháp lý về
động sản. Đó là căn cứ, điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu quản lý thực hiện
quyền của chủ sở hữu, đồng thời làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các
tranh chấp. Ngoài ra, đây còn là truyền thống trong lập pháp dân sự được hình
thành từ thời La Mã cổ đại và tồn tại trong pháp luật của hầu hết các nước trên
thế giới.
Một trong cách phân loại tài sản khác phổ biến hiện nay là tài sản
được phân chia thành tài sản vô hình và tài sản hữu hình.
6
Tài sản vô hình (tài sản trí tuệ thuộc đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ) là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người được thể hiện dưới một
hình thức khách quan nhất định. Tài sản hữu hình là tài sản có thể nhận thấy
bằng các giác quan thông thường của con người. Việc phân loại này có một ý
nghĩa đặc biệt trong xã hội hiện đại. Khi mà sản phẩm trí tuệ với đặc điểm vô
hình không thể chiếm hữu theo nghĩa thông thường về quyền chiếm hữu và
việc sử dụng không nhất thiết gắn với quyền chiếm hữu thì việc bảo vệ quyền
sở hữu đối với loại tài sản này có những đặc điểm khác biệt so với tài sản được
coi là hữu hình. Việc thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu, phương
thức bảo vệ đối với tài sản vô hình và tài sản hữu hình có những điểm khác
biệt do đặc tính của chúng.
Trong BLDS 2005 đưa ra khái niệm tài sản với tư cách là đối tượng
trong giao lưu dân sự thì : Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản (Điều 163). Đây là khái niệm mang tính liệt kê mà không có
giải thích cụ thể về từng loại và dấu hiệu để để xác định các loại tài sản đó
trong các quy định sau trong Bộ luật Dân sự.
Căn cứ vào giá trị và giá trị sử dụng của vật đối với xã hội về kinh tế, an
ninh, quốc phòng, Pháp luật quy định cách thức phát sinh quyền sở hữu, trình
tự và các nguyên tắc dịch chuyển quyền sở hữu đối với các loại vật. Tổng hợp
các quy phạm pháp luật quy định trình tự, phương thức dịch chuyển vật, gọi là
chế độ pháp lý của vật đó. Căn cứ vào chế độ pháp lý của vật, người ta phân
chia vật theo các chế độ: Vật cấm lưu thông, vật hạn chế lưu thông, vật tự do
lưu thông. Vật cấm lưu thông là những vật không được phép chuyển giao
trong các giao dịch dân sự, không thể trở thành đối tượng trong các hợp đồng
dân sự. Vật hạn chế lưu thông là những vật mà khi chuyển dịch các vật đó
phải tuân theo các quy định của pháp luật về việc chuyển dịch các loại vật đó
(chủ thể, phạm vi, phương thức dịch chuyển). Vật tự do lưu thông là những
vật được lưu thông mà không phải tuân thủ bất cứ một quy định chuyên biệt
nào)
Tiền là một loại hàng hoá đặc biệt gắn liền với một quốc gia do nhà
nước ấn hành. Tiền được xác định bằng giá trị chỉ số được ghi nhân trên tờ
tiền mà không phải bằng số lượng tờ giấy đó. Tiền là hàng hoá có giá trị trao
đổi tương đương với các loại hàng hoá khác.
7
Giấy tờ trị giá được bằng tiền, đây là loại tài sản đặc biệt, về bản chất
nó là quyền tài sản. Người có giấy tờ trị giá bằng tiền có quyền yêu cầu những
chủ thể nhất định thực hiện những nghĩa vụ phù hợp với nội dung của tững
loại giấy tờ đó. Giấy tờ có giá có thể là: cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, sec
Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được
pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu
người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét
theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền
yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài
sản.. Trên cơ sở quan niệm như vậy, Luật La mã phân loại quyền tài sản
(quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không phân thành quyền tài
sản và quyền sở hữu.Vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài
sản.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phạm vi tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu là không
hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong
xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ một loại tài sản
nào, miễn là pháp luật không cấm lưu thông dân sự.
Để mở rộng giao lưu dân sự trong điều kiện nền kinh tế thị trường, riêng
đối với loại tài sản đặc biệt là đất đai, Luật Đất đai và Luật Dân sự cho phép
những người không phải là chủ sở hữu nhưng cũng có một số quyền năng nhất
định theo quy định tại Phần thứ năm BLDS. Đó là các quyền: quyền sử dụng,
quyền chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn và tặng
cho quyền sử dụng đất.
Như vậy: Pháp luật dân sự ghi nhận và phân loại tài sản theo các tiêu
chí khác nhau. Việc phân loại tài san theo các tiêu chí này có ý nghĩa rất lớn
trong các giao dịch dân sự cụ thể liên quan đến các loại tài sản này. Ngoài ra,
phân loại tài sản còn có ý nghĩa đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
trong việc thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan đến các loại tài sản
này.
8
2. Ti sn trong Lut Dõn s v hng hon thin phõn loi ti
sn trong Lut Dõn s
Tài sản không phải là vấn đề mới trong pháp luật dân sự. Trong các văn
bản pháp luật của chế độ cũ, các văn bản pháp luật được ban hành sau năm
1945 đã đề cập đến tài sản và một số cách phân loại tài sản.
Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự sửa đổi năm 2005 đề cập cụ
thể, chi tiết về tài sản, cách phân loại tài sản. Tuy nhiên, khái niệm, cách phân
loại tài sản theo qui định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 vẫn còn nhiều bất cập.
Hoàn thiện việc phân loại tài sản là một trong những yêu cầu hết sức cần thiết.
Phân loại tài sản cần phải dựa trên những tiêu chí nhất định:
- Phân biệt tài sản là bất động sản, trước hết căn cứ vào bản chất là
không di dời. Tài sản không tự nó di chuyển được từ chỗ này đến chỗ khác
hoặc do ngoại lực tác động cũng thể dịch chuyển được như đất đai.
- Cn c th hai phõn loi ti sn l bt ng sn l sa vo cụng
dng ca ti sn.
- Bt ng sn l quyn ti sn cú i tng gn lin vi bt ng
sn.
Ngoài các tiêu chí trên, để tạo điều kiện cho chủ sở hữu khai thác tài
sản của mình có hiệu quả, pháp luật có thể qui định một số bất động sản là
động sản và ngược lại nhưng cần qui định cụ thể trong Bộ luật Dân sự, làm cơ
sở pháp lý cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản.
Việc phân loại tài sản theo quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 không
đưa ra các tiêu chi để phân loại do vậy dễ dẫn đến lẫn lộn trong cách nhân biết
và áp dụng pháp luật.
3. Vật - bản chất và chế độ pháp lý đối với vật với tư cách là một
loại tài sản
Vật được coi là tài sản là một bộ phận của thế giới vật chất mà tự bản
chất của chúng mặc nhiên hàm chứa một giá trị sử dụng nhất định và con
người có thể chiếm hữu và kiểm soát, chi phối được.
Xét về phương diện triết học, vật là một bộ phận của thế giới vật chất, là
một phạm trù tương phản nhưng luôn có liên hệ mật thiết với phạm trù ý thức.
Theo phương diện này, vật được hiểu là vật chất tồn tại cả ở dạng hữu hình
và cả ở dạng vô hình. Vật tồn tại ở dạng hữu hình là những vật thể mà con
9
người có thể cầm nắm được và ai cũng có thể chiếm hữu nó một cách thực tế
trong cuộc sống. ở dạng này, vật có thể là những thứ vô tri, vô giác như chiếc
bàn, chiếc ghế, v.v. mà luật La mã đã từng dùng thuật ngữ công cụ câm để
chỉ về nó, vật còn có thể là những con vật đã được luật La mã gọi là công cụ
biết kêu. Vật tồn tại ở dạng vô hình là một bộ phận của thế giới vật chất
nhưng con người không thể sờ nắm và nhận biết được chúng thông qua sờ
nắm. Chẳng hạn như không khí.
Vật trong đời sống xã hội tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, mỗi một vật
có đặc tính riêng và vì vậy, công dụng, tính năng của mỗi vật luôn khác nhau.
Dựa vào tính chất di dời hay không di dời được của vật thì vật được chia thành
hai loại như bất động sản, động sản. Dựa vào nguồn gốc hình thành của các
vật thì vật được phân thành hai loại: các hoa lợi, lợi tức. căn cứ vào sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các vật trong quá trình khai thác sử dụng thì vật được
phân thành hai loại: vật chính, vật phụ. Dựa vào kết cấu tự nhiên hoặc vật lý
của vật thì vật được phân thành hai loại: vật không chia được, vật chia được.
căn cứ vào mức độ hao mòn của vật qua một lần sử dụng thì vật được phân
thành hai loại sau đây: Vật tiêu hao, vật không tiêu hao. dựa vào đặc điểm
riêng biệt của vật thì vật được phân thành hai loại sau đây: vật đặc định, vật
cùng loại. Nếu dựa vào tính chỉnh thể, ăn khớp giữa các bộ phận của một vật
thì vật còn được xác định là vật đồng bộ. Mỗi cách phân loại vật đều có ý
nghĩa pháp ký và thực tế trong việc áp dụng pháp luật.
4. Tiền và ngoại tệ trong quan hệ pháp luật dân sự
Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 có qui định về tiền là một loại tài
sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự Việt Nam lại chưa hề có quy định nào về
tiền. Lịch sử hình thành tiền có những sự thay đổi nhất định theo thời gian.
Thời xa xưa, khi xã hội loài người còn chưa biết đến tiền tệ thì các quan hệ
giao lưu hàng hoá được thực hiện thông qua phương thức trao đổi, vật đổi lấy
vật. Vật để đổi lấy vật được gọi là công cụ đa năng. Công cụ trao đổi đa
năng đó phải đáp ứng được ba điều kiện là: Phải có giá trị, mang lại lợi ích
nào đó cho con người; Phải mang tính thông dụng; dễ dàng tích trữ. Tuy
nhiên, công cụ đa năng này lúc đầu chưa được coi là tiền. Nói cách khác, các
công cụ trao đổi đa năng chỉ được coi là tiền từ khi có sự can thiệp của Nhà
nước lên chúng. Tiền kim loại được hình thành trước, tiền giấy được hình
10
thành muộn hơn và có nguồn gốc xuất xứ khác so với tiền kim loại. Có thể nói
rằng việc sử dụng tiền được coi là phát minh vĩ đại của loài người. Một trong
những chức năng cơ bản nhất của tiền tệ chính là nhằm vào mục đích sử dụng
trong giao dịch mua bán. Hợp đồng mua bán là hệ quả trực tiếp nhất của việc
sử dụng tiền.
Pháp luật Việt Nam coi tiền là một loại tài sản riêng biệt. Loại tài sản này
có những đặc điểm pháp lý khác với vật. Khái niệm quyền sử dụng chỉ được
áp dụng một cách trọn vẹn cho vật chứ không áp dụng được cho tiền. Trong
pháp luật dân sự, tiền có tính năng đặc biệt (khác với vật) là khi chuyển giao
tiền thì bao giờ cũng kèm theo chuyển giao quyền sở hữu, trừ trường hợp khi
chuyển giao ta đặc định hóa gói tiền thông qua việc niêm phong gói tiền lại.
Đối với vật thì chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật
đó (dùng nhà để ở, dùng xe máy để đi lại, dùng bút để viết,...). Còn đối với
tiền thì không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ tiền hay đồng tiền
xu đó. Tiền thực hiện ba chức năng chính là: công cụ thanh toán đa năng,
công cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác.
Các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo ra, còn
tiền do Nhà nước độc quyền phát hành. Việc phát hành tiền được coi là một
trong những biểu hiện của chủ quyền của mỗi quốc gia.
Vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông dụng, còn
tiền lại được xác định số lượng đơn vị tiền tệ cơ bản thông qua mệnh giá của
nó.
Chủ sở hữu vật được toàn quyền tiêu hủy vật thuộc sở hữu của mình, còn
chủ sở hữu tiền lại không được tiêu hủy tiền (không được xé, đốt, sửa chữa,
thay đổi hình dạng, kích thước, làm giả,...).
Chúng ta cũng nên phân biệt giữa nội tệ và ngoại tệ. Dưới góc độ kinh tế
thì nội tệ hay ngoại tệ cũng đều là tiền cả. Cách phân loại tiền thành nội tệ và
ngoại tệ hoàn toàn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của từng quốc gia: một
loại tiền được coi là nội tệ của quốc gia phát hành và là ngoại tệ đối với các
quốc gia khác.
Dưới góc độ kinh tế thì việc sử dụng tiền được hiểu thông qua hành vi
đầu tư tiền vào các hoạt động kinh doanh (mua bán thiết bị, cho vay lấy lãi,
góp vốn,...) hay tiêu dùng. Nhưng dưới góc độ luật dân sự thì các hành vi đầu
11
tư hay tiêu dùng đó lại phải được hiểu là hành vi thực hiện quyền định đoạt
tiền (chuyển giao quyền sở hữu tiền cho chủ thể khác), chứ không phải là thực
hiện quyền sử dụng.
Trong pháp luật dân sự thì ngoại tệ không được coi là tiền, bởi lẽ ngoại tệ
không bao giờ được coi là công cụ thanh toán đa năng một tính năng quan
trọng nhất của tiền. Hơn thế nữa, ngoại tệ cũng không đáp ứng được một chức
năng quan trọng nữa của ngoại tệ công cụ tích luỹ tài sản. Vấn đề khó giải
quyết nhất là: nếu ngoại tệ không phải là tiền thì liệu ta sẽ nên xếp ngoại tệ
vào loại tài sản nào trong số các loại tài sản được quy định tại Điều 163 Bộ
luật Dân sự 2005 (vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản)? Ngoại tệ cũng
không nên coi là vật, bởi lẽ ta cũng không thể khai thác công dụng hữu ích từ
chính tờ ngoại tệ được. Ngoại tệ cũng không nên coi là giấy tờ trị giá được
bằng tiền hay quyền tài sản, bởi lẽ ta sẽ không xác định được ai là chủ thể
nghĩa vụ trong đó. Phải chăng khó khăn đó xuất phát từ chính nguyên nhân
rằng khái niệm tài sản (theo cách liệt kê khép kín được quy định tại Điều 172
Bộ luật Dân sự) còn quá hạn hẹp. Qua đó ta cũng nhận thấy nhu cầu bắt đầu
phải xây dựng cách hiểu rộng hơn nữa cho khái niệm tài sản (sao cho trong đó
có thể bao quát được cả ngoại tệ và cả một số các đối tượng phức tạp khác của
giao dịch dân sự như nhà máy xí nghiệp, hệ thống mô hình dịch vụ,...).
5. Giấy tờ có giá, các loại giấy tờ có giá, bản chất và chế độ pháp lý
của giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản;
Các giao dịch thương mại, dân sự, các hoạt động tài chính của Nhà
nước làm phát sinh nhiều loại phương tiện xác nhận quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể có liên quan đến hoạt động, giao dịch đó. Điểm đặc biệt của các
phương tiện này là chúng thể hiện trách nhiệm, quyền năng về một khối tài
sản nhất định đối với chủ thể có liên quan; nói khác đi, bản thân các phương
tiện đó thể hiện một giá trị tài sản nhất định. Giấy tờ có giá là cách gọi cho
các phương tiện nêu trên
Mặc dù thuật ngữ "giấy tờ có giá" đã được sử dụng khá quen thuộc, đi
vào các qui định tại các bộ luật gốc (như Bộ luật Dân sự) nhưng lại chưa có
một định nghĩa chính thống cho đối tượng này. Nếu chỉ xác định đơn thuần
giấy tờ có giá thể hiện quyền năng về tài sản của đối tượng đang sở hữu
12
chúng, sẽ là cách nhìn nhận chưa rõ ràng. Bởi lẽ, có nhiều loại giấy tờ xác
định quyền năng tài sản nhưng không được coi là giấy tờ có giá. Chẳng hạn,
giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với ôtô, xe máy; giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất... đều thể hiện quyền của chủ sở hữu đối với những tài sản đó, nhưng
các phương tiện chứng nhận này không thể được coi là giấy tờ có giá.
Tuỳ theo mục đích của quan hệ được thiết lập, đối tượng tạo ra giấy tờ
có giá hoặc phạm vi điều chỉnh của vấn đề nghiên cứu, một văn bản pháp luật
mà giấy tờ có giá có thể được xác định khác nhau.
Đặc điểm của giấy tờ có giá cho thấy đây là một đối tượng xác định
được bằng tiền (chúng là tài sản) nhưng các quyền năng của người sở hữu đối
với tài sản ấy có điểm khác tương đối so với các loại tài sản thông thường
khác.
* Giấy tờ có giá có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào khả năng chuyển nhượng, có giấy tờ có giá có khả năng
chuyển nhượng và giấy tờ có giá không chuyển nhượng.
- Căn cứ vào khả năng sinh lời, có giấy tờ có giá có khả năng sinh lời và
giấy tờ có giá không có khả năng sinh lời.
- Căn cứ vào quyền của người sở hữu đối với người phát hành, có giấy
tờ có giá xác nhận quyền góp vốn và giấy tờ có giá xác nhận quyền đòi nợ.
* Chế độ pháp lý của giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản: Việc
nghiên cứu chế độ phát hành giấy tờ có giá xét dưới góc độ tài sản có thể coi
như nghiên cứu quá trình hình thành một loại tài sản đặc biệt - giấy tờ có giá.
- Chủ thể phát hành và các loại giấy tờ có giá được phép phát hành: Với những
dấu hiệu riêng, giấy tờ có giá có thể được phát hành bởi các chủ thể có điều
kiện và mục đích khác nhau.
- Việc xác định thời điểm có giá trị của các giấy tờ có giá với tư cách là thời
điểm xác định đó là một loại tài sản: Giấy tờ có giá chỉ thực sự là tài sản khi
chúng đã được phát hành hợp pháp và ở vào thời điểm có hiệu lực. Cho dù
giấy tờ có giá được phát hành với mục đích nào, chúng chỉ phát sinh hiệu lực
vào một trong hai thời điểm sau đây:
Thứ nhất, thời điểm do hai bên thoả thuận.
13
Thứ hai, thời điểm ký phát giấy tờ có giá.
Việc xác định thời điểm có hiệu lực có ý nghĩa rõ ràng trong việc phân
biệt loại tài sản này với các loại tài sản khác đồng thời cũng có ý nghĩa khi
xác định quyền, trách nhiệm của các bên có liên quan đối với loại tài sản là
giấy tờ có giá. Thời điểm có hiệu lực của giấy tờ có giá không đồng nghĩa với
thời điểm có giá trị thanh toán của giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá có thể được chuyển nhượng hoặc không được phép
chuyển nhượng. Tuỳ thuộc vào loại giấy tờ có giá, mỗi loại xác định không
được chuyển nhượng là khác nhau. Đối với cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, Điều
81 khoản 3 Luật Doanh nghiệp qui định không được phép chuyển nhượng cổ
phần đó cho người khác. Đối với cổ phiếu phổ thông, pháp luật không qui
định cấm chuyển nhượng, kể cả trường hợp cổ phiếu của cổ đông sáng lập.
Theo Điều 84 khoản 5 Luật Doanh nghiệp, nếu là cổ phiếu phổ thông của cổ
đông sáng lập, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được đăng ký kinh
doanh, cổ đông sáng lập được phép chuyển nhượng cho các cổ đông sáng lập
khác.
Giấy tờ có giá được chuyển nhượng: Một trong những điểm đặc thù của
giấy tờ có giá so với các loại tài sản khác là khả năng luân chuyển của chúng.
Nói khác đi, trừ trường hợp pháp luật cấm (rất hạn chế) hoặc theo quyết định
của chủ thể phát hành hoặc chủ thể có liên quan, các giấy tờ có giá có khả
năng chuyển nhượng dễ dàng. Pháp luật qui định về các loại giấy tờ có giá đều
ghi nhận điều đó.
Từ việc tiếp cận về giấy tờ có giá theo các phương diện trên, đề
tài đi đến kết luận sau: Giấy tờ có giá chỉ được coi là tài sản theo qui định của
Bộ luật dân sự khi có đủ các điều kiện sau:
- Giấy tờ có giá bao giờ cũng có thể xác định được thành một khoản
tiền cụ thể
- Bản thân chúng là đối tượng của các hợp đồng chuyển giao tài sản và
quyền sở hữu tài sản. (Khi chuyển nhượng (bán) trái phiếu, chính là việc bán
tài sản mà không kèm theo việc chuyển giao bất kỳ đối tượng được coi là tài
sản nào khác).
14
- Giấy tờ có giá được tạo ra bởi những chủ thể có đủ điều kiện do luật
định mà không phải bất kỳ đối tượng nào cũng có thể thực hiện hành vi này.
- Giấy tờ có giá xác nhận một quan hệ về tài sản với một đối tượng nhất
định.
6. Những bất cập trong việc quản lý và xử lý tranh chấp liên quan
đến giấy tờ có giá và phương hướng hoàn thiện các qui định pháp luật về
giấy tờ có giá:
Trong thời gian qua, pháp luật đã mở rộng cơ hội cho các chủ thể sử
dụng tối đa cơ hội có vốn và có mức sinh lời tốt nhất từ đồng vốn của mình
thông qua những qui định về các loại giấy tờ có giá và đa dạng hoá các loại
giấy tờ có giá có thể phát hành. Bên cạnh đó, quá trình áp dụng pháp luật
trong quản lý hoạt động phát hành giấy tờ có giá đã bắt đầu bộc lộ những vấn
đề pháp lý, theo đó, cần phải tính toán, xem xét để đưa ra phương án lựa chọn
tốt nhất. Những hạn chế đó có thể được biểu hiện: về bản chất của giấy tờ có
giá; về chủ thể phát hành các giấy tờ có giá thể hiện quyền gọi vốn; về chủ thể
phát hành giấy tờ có giá là trái phiếu...
Tranh chấp liên quan đến giấy tờ có giá cũng là một loại tranh chấp liên
quan đến tài sản, vì vậy cơ sở pháp lý, trình tự thủ tục áp dụng đối với tranh
chấp liên quan đến giấy tờ có giá cũng áp dụng trên cơ sở giải quyết các tranh
chấp liên quan đến tài sản nói chung.
Khi giải quyết tranh chấp liên quan đến giấy tờ có giá, ngoài những nội
dung thường gặp, có một số vấn đề chưa được các bên quan tâm và hiện cũng
chưa được giải quyết thỏa đáng. Đó là các vấn đề về việc xác định giá trị của
giấy tờ có giá; việc thực hiện cam kết của tổ chức phát hành...
Với những phân tích về đặc điểm, bản chất của giấy tờ có giá, sự tương
đồng giữa giấy tờ có giá với các giấy tờ xác nhận quyền tài sản, chúng tôi cho
rằng cần có cách nhìn thống nhất về loại tài sản này. Cụ thể, Điều 163 Bộ luật
Dân sự nên qui định "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá". Theo đó, giấy
tờ có giá bao gồm
- Giấy tờ có giá xác nhận góp vốn
- Giấy tờ có giá xác nhận quyền đòi nợ
- Giấy tờ có giá xác nhận các quyền tài sản khác
15
Do một số loại giấy tờ có giá mới được xuất hiện trong điều kiện hình
thành những loại thị trường riêng có của nền kinh tế thị trường. Đó là các loại
giấy tờ có giá như chứng chỉ quĩ đầu tư, các loại chứng quyền, các hợp đồng
giao sau, hợp đồng lựa chọn... Luật chứng khoán đã qui định về chứng chỉ quĩ
đầu tư, chứng quyền nhưng cơ hội phát hành giấy tờ có giá này chỉ có thể là
thực hiện theo phương thức phát hành đại chúng. Bên cạnh đó, Luật Chứng
khoán cũng qui định mô hình "quĩ thành viên" nhưng do lượng thành viên hạn
chế, lại chỉ là các pháp nhân, việc hình thành các quĩ này để đầu tư chứng
khoán là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay nhưng do chưa định hình được
đây có phải là một tổ chức kinh tế hay không vì Luật Doanh nghiệp hoàn toàn
không đề cập tới mô hình này, Luật Chứng khoán lại không ghi nhận quĩ đầu
tư là doanh nghiệp nên cơ hội cho các nhà đầu tư là tổ chức có một cơ sở pháp
lý để đầu tư bị hạn chế. Hình thành nên loại giấy tờ có giá có thể phát hành
theo phương thức riêng lẻ là hoàn toàn khả thi nếu có qui định chính thức tại
một văn bản. Đối với các giấy tờ có giá là hợp đồng lựa chọn, hợp đồng giao
sau thực tế đã tồn tại tại các sàn giao dịch hàng hoá ở Việt Nam hoặc được các
tổ chức kinh tế Việt Nam thực hiện thông qua các sàn giao dịch quốc tế nhưng
dường như nó vẫn còn xa lạ và ít được đề cập tới trong các văn bản luật gốc
hoặc các văn bản liên quan đến tố tụng. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần phải
chính thức thừa nhận các loại giấy tờ có giá này trong Bộ luật dân sự và tạo cơ
hội phát hành của các tổ chức kinh tế đủ điều kiện. Với cách đặt vấn đề này,
Điều 321 Bộ luật Dân sự cần tiếp tục sửa đổi, Luật Doanh nghiệp cần có
những bổ sung nhằm tạo cơ hội huy động và tìm kiếm thu nhập của các chủ
thể kinh doanh đối với các loại giấy tờ có giá./.
7. Quyền tài sản: Đặc điểm và các loại quyền tài sản
Theo qui định tại Điều 163 BLDS thì ngoài vật và giấy tờ có giá, tài sản
còn bao gồm cả quyền tài sản. Tuy nhiên, khái niệm về quyền tài sản có một
nội hàm tương đối rộng và theo đó cần hiểu rằng không phải mọi quyền tài
sản đều được coi là tài sản. Vì vậy, cần xác định rằng một quyền tài sản chỉ
được coi là tài sản theo qui định của BLDS khi có đủ các yếu tố sau:
- Phải là quyền tài sản có thể trị giá thành một khoản tiền cụ thể
- Có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự
- Bản thân quyền tài sản là đối tượng chuyển giao trong các hợp đồng
dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản (Khi chuyển giao quyền tài sản
16
chính là việc bán quyền tài sản mà không kèm theo việc chuyển giao bất kỳ
đối tượng được coi là tài sản nào khác).
8. Quyền sử dụng đất - một loại quyền dân sự đặc thù và là tài sản
đặc biệt trong Luật Dân sự.
Trong Hiến pháp và trong Bộ luật Dân sự, đất đai được xếp vào phần tài
sản nhưng lại đánh đồng với tài nguyên (đặt trong mục tài nguyên ). Tại
Luật đất đai năm 1993 và những lần sửa đổi vào năm 1998 và 2001 đều khẳng
định ở phần lời nói đầu đất đai là tài nguyên. Do được góp ý cho nên trong
Luật đất đai năm 2003 không có lời nói đầu và cũng không nói đất đai là tài
nguyên hay tài sản nữa, nhưng thực chất đất đai vẫn được cư xử như một thứ
tài nguyên.
Đất đai là một bộ phận của lãnh thổ thuộc chủ quyền của Nhà nước
Việt Nam là tài sản quốc gia vô giá, thiêng liêng thuộc quyền sở hữu tuyệt đối
của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trên thế giới, nhiều nước tuyên bố đất đai là
tài sản, ví dụ như Australya, Thụy Điển, hoặc tuy không tuyên bố đất đai là tài
sản nhưng trong thực tiễn pháp luật, họ điều chỉnh quan hệ đất đai trong lĩnh
vực luật tư. Đất đai - tài sản được điều chỉnh theo các nguyên tắc cốt tử của
dân luật và không tuân thủ quy tắc về đất đai là một dạng tài nguyên.
Quan niệm đất đai là tài nguyên thời hiện đại không chỉ là sai lầm và
sai lầm này dẫn đến hàng loạt sai lầm nghiêm trọng tiếp theo có tính bao trùm
như đã coi nhẹ, bỏ qua hoặc làm trái hàng loạt những tư tưởng chỉ đạo quan
trọng trong quản lý tài sản ở một thực thể kinh tế do nhiều chủ thể tham gia
vận hành trong nền kinh tế thị trường.
Quyền sử dụng đất có các đặc trưng sau đây:
- ở nước ta có sự phân biệt giữa chế định quyền sở hữu đất đai với chế
định quyền sử dụng đất đai.
- Tuy quyền sử dụng đất là một quyền phái sinh dựa trên cái gốc của
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nhưng lại là một quyền năng độc lập, tính
độc lập của nó thể hiện từ việc hình thành, thay đổi đến chấm dứt quyền sử
dụng đất đều là những trình tự pháp luật.
- Việc nhận quyền sử dụng đất đó phải thể hiện bằng một lượng giá trị
nhất định.
17
- Trong quá trình thực thi quyền sử dụng đất của các chủ thể sử dụng,
nhà nước có quyền đặt ra các điều kiện và yêu cầu người sử dụng đất phải tuân
thủ nó khác hẳn với việc khai thác sử dụng các tài sản thông thường như trong
quan hệ dân sự.
Như trên chúng tôi đã hướng sự nhận thức cho đúng về bản chất đất đai,
nó không phải là tài nguyên thuần tuý mà là một tài sản và cần nhìn nhận nó
dưới góc độ tài sản. Đất đai được coi là hàng hoá khi thoả mãn hai điều kiện
sau:
Thứ nhất, như đã nói quyền sử dụng đất là thứ tài sản được hình thành
từ quy định và quá trình thực thi pháp luật, do đó, đời sống riêng của tài sản
này luôn bị chi phối bởi pháp luật.
Thứ hai, người có quyền kiểm soát tài sản là quyền sử dụng đất phải sẵn
sàng mang quyền sử dụng đất làm đối tượng giao dịch trên thị trường, nghĩa
là, họ sẵn sàng cung quyền sử dụng đất cho thị trường bất động sản và thị
trường đó sẵn sàng đón nhận loại hàng hoá đó.
Tiếp tục kế thừa các tư tưởng pháp lý về việc mở rộng các quyền cho
người sử dụng đất, Luật Đất đai năm 2003 đã cho thấy sự đối xử công bằng
đối với mọi thành phần kinh tế tham gia vào nền kinh tế thị trường, mở ra cho
mọi đối tượng sử dụng đất những quyền năng cần thiết trong giao lưu dân sự
về đất đai.
Từ việc nhận dạng bản chất đất đai, các đặc điểm pháp lý của quyền sử
dụng đất và nội dung pháp lý của nó theo quy định của các văn bản pháp luật
hiện hành có thể đúc rút một vài kết luận sau:
- Đất đai không nên quan niệm thuần tuý là một tài nguyên, phải xác định
nó là một tài sản và quản lý tài sản quý giá này bằng các cơ chế chính sách
chặt chẽ để không mắc những sai lầm trong quan niệm và trong quản lý đất
đai suốt vài chục thập niên qua.
- Quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt, nó phải được đối xử với đúng
tính cách đặc biệt đó.
- Coi thị trường quyền sử dụng đất là bộ phận hợp thành bất di bất dịch của
thị trường bất động sản ở Việt Nam.
- Mở rộng các quyền cho người sử dụng đất, dù đó là người sử dụng đất ở
trong nước hay người Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
18
đầu tư kinh doanh phát triển kinh tế hay bất cứ một mục đích nào khác có lợi
cho hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước.
9. Quyền yêu cầu: đặc điểm và bản chất pháp lý
Khái niệm tài sản đã được quy định tại điều 163 của Bộ luật Dân sự
2005 dưới dạng liệt kê các đối tượng được coi là tài sản, bao gồm các loại sau:
Vật, tiền, giấy có giá và các quyền tài sản. Quyền yêu cầu là một loại quyền
tài sản, nó thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của loại tài sản này. Quyền yêu
cầu là một quan hệ trong đó chủ thể nắm giữ quyền sẽ được hưởng một lợi ích
vật chất trong tương lai khi chủ thể mang nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ
nghĩa vụ của họ theo như nội dung của quyền yêu cầu. Quyền yêu cầu có đặc
điểm và bản chất pháp lý thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Quyền yêu cầu được phát sinh từ một quan hệ nghĩa vụ đã tồn tại
trước đó.
- Quyền yêu cầu mang lại cho người nắm giữ quyền một lợi ích vật chất
trong tương lai.
- Quyền yêu cầu được nhận biết thông qua các hình thức vật chất nhất
định.
- Quyền yêu cầu mang đặc tính của trái quyền.
- Quyền yêu cầu có thể tồn tại độc lập nhưng cũng có thể kèm theo các
biện pháp bảo đảm.
- Khi chuyển giao quyền yêu cầu có gắn với các biện pháp bảo đảm thì
các biện pháp bảo đảm cũng được chuyển giao kèm theo.
- Trong quyền yêu cầu thì người có quyền không thể đơn phương từ bỏ
quyền của mình, mà cần phải có sự đồng ý của người có nghĩa vụ, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong quan hệ pháp lý đó.
- Quyền yêu cầu cũng được pháp luật bảo vệ thông qua phương thức
nhất định.
- Quyền yêu cầu bị hạn chế về thời gian hay nói cách khác quyền yêu
cầu chỉ có hiệu lực trong một quãng thời gian nhất định.
- Quyền yêu cầu phải trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao được và
là đối tượng của các giao dịch dân sự.
Thông qua việc xác định khái niệm, bản chất pháp lý của quyền yêu
cầu, chúng ta có thể kết luận rằng: Quyền yêu cầu với tư cách là một loại tài
sản phải mang đủ các yếu tố sau:
19
- Việc khai thác (hưởng) quyền đó phải đem lại cho chủ thể một lợi ích
vật chất nhất định.
- Quyền yêu cầu phải có thể trị giá thành một khoản tiền nhất định
- Phải là các quyền yêu cầu có thể chuyển giao được. Hay nói cách
khác, các quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân của một chủ thể nhất định
không thể chuyển giao thì không được xác định là tài sản.
10. Quyền sở hữu trí tuệ: đặc điểm và bản chất pháp lý
Hoạt động lao động của con người tạo ra sản phẩm trí tuệ thể hiện ở hai
loại: tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Hai loại tài sản này là đối tượng của
quyền sở hữu tài sản thông thường (sở hữu tài sản vật chất) và quyền sở hữu trí
tuệ (sở hữu tài sản trí tuệ). Quyền sở hữu tài sản thông thường và quyền sở
hữu tài sản trí tuệ có những khác biệt cơ bản - điều này được thể hiện ở đặc
điểm và bản chất pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ. Làm rõ đặc điểm, bản chất
pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác
định đối tượng, nội dung quyền, phương thức bảo vệ cũng như các yếu tố khác
có liên quan.
Thuật ngữ Quyền sở hữu trí tuệ chính thức được sử dụng trong Bộ luật
Dân sự năm 1995. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 1995 của nước ta cũng
không đưa ra khái niệm quyền sở hữu trí tuệ. Theo Công ước Stockholm
Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì Quyền sở hữu
trí tuệ bao gồm các quyền liên quan tới: 1) Các tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học; 2) Việc thực hiện biểu diễn nghệ thuật, phát thanh, ghi âm,
truyền hình; 3) Các sáng chế trong mọi lĩnh vực đời sống con người; 4) Các
phát minh khoa học; 5) Kiểu dáng công nghiệp; 6) Nhãn hiệu hàng hoá, nhãn
hiệu dịch vụ, tên thương mại và chỉ dẫn thương mại; 7) Bảo hộ chống cạnh
tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác bắt nguồn từ hoạt động trí
tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hay nghệ thuật.
Như vậy, khái niệm Quyền sở hữu trí tuệ theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ
Thế giới được hiểu theo nghĩa rộng. Phù hợp với qui định này, Luật Sở hữu trí
tuệ của nước CHXHCN Việt Nam (được QH thông qua ngày 29/11/2005, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2006) đưa ra khái niệm sở hữu trí tuệ như sau:
20
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí
tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Như vậy, theo Luật Sở hữu trí tuệ thì thuật ngữ Quyền sở hữu trí tuệ
bao gồm: Quyền tác giả; Quyền liên quan đến quyền tác; Quyền sở hữu công
nghiệp; Quyền đối với giống cây trồng.
Quyền sở hữu trí tuệ có các đặc điểm sau:
- Về đối tượng: Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mang tính vô hình. Bên
cạnh đó, pháp luật sở hữu trí tuệ đưa ra những điều kiện bảo hộ đối với các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Nhìn chung, những điều kiện này không có ở
đối tượng của quyền sở hữu tài sản thông thường.
- Về chủ thể: Chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ là tác giả, chủ sở hữu các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ hoặc chủ thể khác do pháp luật qui định. Như
vậy, một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng có thể có nhiều chủ thể có
những quyền khác nhau đối với đối tượng này.
- Về quyền của chủ thể: Chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ có thê là tác giả, chủ
sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc chủ thể có quyền liên quan. Do đó, quyền
của chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ luôn chịu sự hạn chế bởi quyền của chủ
thể khác.
- Về căn cứ phát sinh, chấm dứt: Quyền sở hữu trí tuệ có thể được phát sinh
theo nguyên tắc tự động (nguyên tắc bảo hộ tự động được áp dụng đối với các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học) hoặc nguyên tắc đăng ký bảo hộ
(một số đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, giống cây trồng mới). -- Về
phương thức bảo hộ: Đối với đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, nếu có hành
vi xâm phạm các đối tượng này thì có thể có sự phối kết hợp của rất nhiều cơ
quan chức năng khác nhau để bảo vệ quyền của chủ thể như cơ quan Toà án,
Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Uỷ ban nhân dân các cấp.
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền dân sự của chủ thể mang quyền
đây là một loại quyền tuyệt đối. Giống như bất cứ một loại quyền dân sự nào
khác, quyền sở hữu trí tuệ cũng mang những đặc điểm, bản chất của quyền
dân sự. Tuy nhiên, với sự đặc thù là quyền đối với tài sản vô hình tài sản trí
tuệ nên quyền sở hữu trí tuệ cũng có những yếu tố đặc thù nhất định, những
yếu tố này phản ánh được bản chất của quyền sở hữu trí tuệ.
21
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền pháp lý nên chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi bản chất giai cấp, bản chất Nhà nước. Mỗi Nhà nước khác nhau có kế
hoạch, định hướng và chiến lược khác nhau liên quan đến việc khuyến khích
hoạt động sáng tạo cũng như bảo vẹ quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, có thể hiều rằng Sở hữu trí tuệ là một chế định về sở hữu tài sản,
tuy nhiên chỉ là sự sở hữu về các tài sản tri thức, các sản phẩm trí tuệ tồn tại ở
dạng vô hình. Quyền của các chủ thể liên quan đến các sản phẩm trí tuệ bao
hàm cả quyền về tài sẩn cả quyền về nhân thân. Trong khi nói đến quyền tài
sản với tư cách là tài sản phải là những quyền mà thông qua đó chủ thể của nó
sẽ được hưởng một lợi ích vất chất trong tương lai. Vì vậy, có thể nói rằng
quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm rất rộng, trong đó được coi là tài sản chỉ
bao gồm các quyền về tài sản của các chủ thể đối với các đối tượng sở hữu trí
tuệ. Ngoài ra, có một số quyền nhân thân của tác giả cũng được coi là tài sản
nếu quyền đó có thể chuyển giao được và khi quyền đó được thực hiện, chủ
thể được hưởng một lợi ích vật chất nhất định, Chẳng hạn như quyền công bố
và cho người khác công bố tác phẩm của tác giả.
11. Những bất cập và phương hướng hoàn thiện các qui định của
pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ.
Nhận thức được tầm quan trọng của tài sản vô hình cũng như quyền sở
hữu trí tuệ và yêu cầu hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, từ nhiều thế kỷ trước, các quốc gia đã có chính sách, chiến lược
thích hợp cho việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ chế thực thi
quyền sở hữu trí tụê. Hiện nay, đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là các quốc gia phát triển, cơ sở pháp lý cho sở hữu trí tuệ đã ở mức độ
hoàn thiện. Tuy vậy, ở Việt nam, văn bản pháp luật sở hữu trí tuệ được ban
hành rất muộn và những quy định pháp luật hiện hành về quyền sở hữu trí tuệ
bộc lộ quá nhiều hạn chế.
Trước hết, phải khẳng định rằng ở nước ta, các quy định pháp luật sở
hữu trí tuệ được ban hành trước đây và những quy định hiện hành đã tạo được
cơ sở pháp lý cho hoạt động sáng tạo trí tuệ, khuyến khích sự sáng tạo của cá
nhân, tổ chức; đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể. Tuy nhiên, pháp luật về sở hữu trí tuệ còn nhiều hạn
chế, điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau đây: Chưa xác định đúng vị trí
22
của pháp luật sở hữu trí tuệ trong hệ thống pháp luật; Các quy định rất tản
mạn, chưa có tính hệ thống và tính thống nhất; Còn nhiều quy định chưa rõ
ràng; Còn nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh; Nhiều quy định chưa tương
thích với các Công ước quốc tế...
Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời, thay thế cho Bộ luật Dân sự 1995, tiếp
đó Luật Sở hữu trí tuệ ra đời và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2006. Tuy
nhiên, trong các quy định về quyền sở hữu trí tuệ của Bộ luật dân sự năm
2005 và Luật sở hữu trí tuệ năm 2005còn tồn tại những bất cập:
- Theo điểm a khoản 1 Đ25 Luật sở hữu trí tuệ, nếu sao chép 01 bản của
tác phẩm đã công bố nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy cá nhân
thì không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Vậy trong một
nhóm nhà nghiên cứu, họ sao chép tác phẩm thành nhiều bản cũng chỉ để
nghiên cứu khoa học thì có phải xin phép và trả thù lao, nhuận bút cho tác giả
không?
-Khoản 2 Đ46 Luật sở hữu trí tuệ quy định việc thực hiện, sửa đổi,
chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được áp
dụng theo quy định của BLDS. Tuy nhiên, trong BLDS năm 2005 không quy
định về hợp đồng này.
- Đ. 213 Luật sở hữu trí tuệ quy định hàng hoá giả mạo về sở hữu trí
tuệ, theo đó, hàng hoá giả mạo nhãn hiệu hàng hoá là hàng hoá, bao bì của
hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được
phép của chủ nhãn hiệu hoặc của cơ quan quản lý chỉ dẫn địa lý. Khó phân
biệt có phải là tương tự hay không? Hơn nữa, mặc dù điều 213 có tên gọi là
hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ nhưng khoản 1 của điều luật lại quy định
rằng hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm
hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý. Vậy nếu hàng hoá
được sản xuất theo quy trình đã được bảo hộ là sáng chế có phải là hàng hoá
giả mạo về sở hữu trí tuệ hay không ?
Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ cần được chú trọng, trong đó tập
trung những vấn đề cụ thể sau:
- Rà soát lại tất cả các văn bản pháp luật hiện hành về sở hữu trí tuệ, các quy
định pháp luật cụ thể về sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở đó, xem xét để loại bỏ, sửa
đổi, bổ sung quy định nào, văn bản nào.
23
- Xây dựng và ban hành ngay hai Nghị định: Nghị định hướng dẫn các quy
định về quyền tác giả trong BLDS và Luật sở hữu trí tuệ; Nghị định hướng dẫn
các quy định về quyền sở hữu công nghiệp trong BLDS và Luật sở hữu trí tuệ.
- Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh những vần đề cơ bản
nhưng lại chỉ được quy định chung chung trong BLDS, Luật sở hữu trí tuệ và
đang phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.
- Quy định về các đối tượng sở hữu công nghiệp cho phù hợp với các Công
ước Paris và Hiệp định TRIPs.
- Hoàn thiện các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật
hành chính.
- Hoàn thiện các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hình
sự.
- Bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ thông qua thương
lượng, hoà giải./.
11. Kết luận
- Tài sản với tư cách là của cải tồn tại gắn liền với xã hội loài người và
để đáp các nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân, tổ chức và của cả xã hội;
- Tài sản là khách thể của quyền sở hữu, là đối tượng trong các giao lưu
dân sự, kinh tế, là đối tượng đặc biệt được điều chỉnh bởi các quy định của cả
hệ thống pháp luật;
- Có rất nhiều cách phân loại tài sản khác nhau và mỗi cách phân loại
đều có ý nghĩa về chính trị - xã hội; kinh tế - pháp lý và thực tiễn nhất định
trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản tại những thời điểm lịch sử khác
nhau;
- Việc phân loại tài sản chỉ mang tính tương đối, vì vậy một tài sản có
thể thuộc nhiều loại khác nhau. Trong các điều kiện khác nhau có thể một tài
sản được chuyển hoá từ loại hình này sang loại hình khác.