Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.49 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TÂM

THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ PHƢỢNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong
Luận văn là chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn chưa được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Tâm




LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo Trường Đại học
Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy các chuyên đề thuộc chương trình cao học và
cung cấp cho em những kiến thức quí báu, bổ ích.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
TS. Đỗ Thị Phượng - Người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
trong suốt quá trình viết luận văn.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, tạo điều
kiện thuận lợi cho em cũng như là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho em trong suốt
quá trình nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2015
HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Tâm


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI
BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................................................................................................5
1.1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành
niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .............................................................5
1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự...........................................................................5

1.1.2. Cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...............................................8
1.1.3. Khái quát một số chuẩn mực quốc tế liên quan đến thủ tục tố tụng đối với
bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..........12
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thủ tục tố tụng đối với bị
can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ....................16
1.2.1. Người tiến hành tố tụng ............................................................................16
1.2.2. Người tham gia tố tụng.............................................................................17
1.2.3. Các thủ tục tố tụng đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................33
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ..............34
2.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................................................................34
2.1.1. Nhận xét chung .........................................................................................34


2.1.2. Người tiến hành tố tụng ............................................................................37
2.1.3. Người tham gia tố tụng.............................................................................39
2.1.4. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và giám sát ................................41
2.1.5. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên ...............................................44
2.1.6. Kiểm sát việc tiến hành hoạt động điều tra đối với vụ án mà bị can là
người chưa thành niên ........................................................................................47
2.1.7. Một số hạn chế, tồn tại khác.....................................................................48
2.1.8. Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................49
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..................................................53
2.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ....................53
2.2.2. Một số giải pháp khác ..............................................................................64

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã và đang là vấn đề khiến toàn xã
hội quan tâm, lo lắng. Do người chưa thành niên (NCTN) nói chung và NCTN
phạm tội nói riêng có những đặc điểm tâm sinh lý khác biệt so với người thành niên
nên pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đã xây dựng những quy định riêng áp dụng
cho đối tượng này. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) dành một chương
riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với NCTN, trong đó có quy định về
thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Thực tiễn cho thấy, trong số các chủ thể là NCTN tham gia tố tụng hình sự
thì bị can chưa thành niên là đối tượng dễ bị xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp. Nhiều trường hợp bị bức cung, dùng nhục hình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe, tinh thần của bị can chưa thành niên. Thủ tục điều tra vụ án hình sự là
một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng, nếu việc điều tra không được
thực hiện một cách khách quan, thận trọng có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực
tiếp theo như truy tố của Viện kiểm sát (VKS) hoặc xét xử của Tòa án không khách
quan, trái pháp luật, làm oan những người vô tội và hậu quả càng nghiêm trọng hơn
khi đối tượng đó là những NCTN.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên đó là quy định của
BLTTHS 2003 về thủ tục điều tra đối với bị can là NCTN chưa chặt chẽ, còn nhiều
kẽ hở cho những vi phạm, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can là
NCTN. Mặt khác, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em nên
có nghĩa vụ tuân thủ và bảo đảm luật pháp của nước mình phù hợp với Công ước.

Tuy nhiên, quy định về thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự trong BLTTHS Việt Nam vẫn tồn tại những điểm chưa được phù
hợp với nội dung của Công ước. Cùng với đó, theo Nghị quyết số 20/2011/QH13
ngày 26/11/2011 của Quốc Hội về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của
Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII thì dự án BLTTHS (sửa đổi) đang được xây dựng.


2

Trước bối cảnh trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống thủ tục tố tụng
đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên cơ sở thực tiễn
áp dụng nhằm đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS
và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết loại án này là một việc
làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài
“Thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thủ tục tố tụng đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN cũng
đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả nghiên cứu và cán bộ làm công tác
thực tiễn. Đã có nhiều công trình chuyên sâu về vấn đề này, liên quan đến đề tài
luận văn, có thể kể đến các đề tài nghiên cứu khoa học như:
- Sách: Người chưa thành niên phạm tội- Đặc điểm tâm lý và chính sách xử
lý, của Đặng Thanh Nga và Trương Quang Vinh, Nxb Tư Pháp, Hà Hội; Tài liệu
tập huấn Tư pháp người chưa thành niên,...
- Các luận án tiến sĩ: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam của TS Đỗ Thị
Phượng, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008; Đảm bảo quyền của
NCTN trong tố tụng hình sự Việt Nam của TS Lê Minh Thắng, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội năm 2011; Quyền bào chữa của bị can,
bị cáo là NCTN trong tố tụng hình sự Việt Nam của TS Nguyễn Hữu Thế Trạch,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh…

- Các luận văn thạc sĩ: Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của tác giả Đỗ Thị Phượng; Nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của KSV trong hoạt động tố tụng đối với NCTN của tác giả Trần
Quỳnh Hoa...
- Các bài báo: Lê Huỳnh Tấn Duy (2013),“Đánh giá quy định của luật tố tụng
hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của NCTN trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên
hợp quốc”, Tạp chí Khoa học pháp lý (04); Phan Trung Hoài (2007), “Vấn đề bảo đảm
quyền bào chữa của người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Kiểm sát (6),…


3

Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với NCTN của các
tác giả kể trên đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên các tác giả chưa
tập trung nghiên cứu đến thủ tục điều tra đối với NCTN. Điều này cho thấy sự cần
thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng bước hoàn thiện
quy định pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ án có bị can là NCTN
và đây là việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định về thủ tục tố tụng đối với bị
can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong các quy định pháp luật tố
tụng hình sự từ năm 2003 đến nay và thực tiễn thi hành từ năm 2009 đến năm 2014.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích đã đề ra của luận văn, tác giả sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp so sánh…
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của các quy định pháp luật về thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự nhằm đề xuất các kiến nghị lập pháp và các giải pháp
nâng cao hiệu quả của thủ tục này cũng như để BLTTHS Việt Nam phù hợp hơn
với các chuẩn mực quốc tế về vấn đề này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, như: khái niệm, cơ sở của việc quy định thủ
tục này, khái quát một số chuẩn mực quốc tế liên quan đến thủ tục tố tụng đối với bị
can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự;
+ Phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự;


4

+ Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành về thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện thủ tục này.
6. Đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp thạc sỹ nghiên cứu về thủ tục tố
tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong đó, tác
giả đã đề xuất một số kiến nghị để thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự “thân thiện” hơn, phù hợp hơn với quy định của Công
ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc gia thành viên.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm
khoa học về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có thể sử dụng làm tài liệu để các nhà
khoa học luật tố tụng hình sự tham khảo khi nghiên cứu những vấn đề có liên quan.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia thành 2 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
Chương 2. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện thủ tục tố tụng
đối với bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự


5

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI BỊ CAN LÀ NGƢỜI
CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng đối với bị can là ngƣời chƣa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một trong những giai đoạn của quá trình
giải quyết vụ án hình sự, giữ vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa chi phối cả quá
trình tố tụng. Tuy nhiên, về khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn, tác giả Lê Cảm cho rằng: Giai đoạn điều
tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai mà trong đó CQĐT căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp
điều tra cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết
của vụ án, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình
sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra
và trên cơ sở đó quyết định đình chỉ điều tra hoặc chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ
án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can [8, tr.27].
Ý kiến khác lại cho rằng “Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự, trong đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác

định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, VKS kiểm sát hoạt động điều tra,
quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án” [10]. Chúng tôi
không đồng tình với quan điểm này khi cho rằng giai đoạn điều tra bao gồm cả hoạt
động quyết định truy tố bị can của VKS. Theo phần Lời nói đầu trong BLTTHS, “Bộ
luật này quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự”, có nghĩa là quá trình tiến hành tố tụng hình sự được
trải qua 5 giai đoạn, trong đó điều tra và truy tố là hai giai đoạn khác nhau và có thể
thấy mỗi giai đoạn tố tụng này đều có những nhiệm vụ riêng mang đặc thù về phạm


6

vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Do đó, không thể coi việc VKS quyết
định truy tố bị can thuộc về giai đoạn điều tra được mà đây chính là hoạt động của
giai đoạn truy tố - giai đoạn tiếp theo của điều tra.
Khi xét về đặc điểm chủ thể tiến hành hoạt động điều tra, có thể thấy, hai
quan niệm như trên là phù hợp với công tác điều tra của CQĐT trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, CQĐT không phải là chủ thể duy nhất có thẩm quyền
thực hiện các hoạt động điều tra mà còn có các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, hoạt động điều tra của VKS. Chính vì vậy, mà
nhiều quan điểm thể hiện nội dung này. Có thể kể đến quan điểm của trường Đại
học Luật Hà Nội trong giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam: Điều tra là giai
đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án [32, tr.265].
Và quan điểm của tác giả Phùng Như Thịnh: Giai đoạn điều tra là một giai
đoạn tố tụng hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết
thúc khi có bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra
vụ án hình sự, trong đó, CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội

phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tính
chất và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra và những tình tiết khác làm cơ sở cho
việc truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án sau này [27]. Chúng tôi đồng ý
với quan điểm này khi cho rằng: “Giai đoạn điều tra là một giai đoạn tố tụng hình
sự bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi có bản kết luận
điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự”.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về giai đoạn điều tra
như sau: Giai đoạn điều tra là một giai đoạn tố tụng hình sự bắt đầu từ khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi có bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố
hoặc quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự do cơ quan có thẩm quyền điều tra
tiến hành áp dụng mọi biện pháp trong BLTTHS quy định để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.


7

Ở giai đoạn này, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành
vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp quyết định
khởi tố bị can được VKS có thẩm quyền phê chuẩn thì từ đó xuất hiện một chủ thể
tham gia vào giai đoạn điều tra với tư cách là bị can trong vụ án hình sự. Như vậy,
có thể đưa ra khái niệm về bị can như sau: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự”. Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, BLTTHS đã quy định cho các cơ quan tiến
hành tố tụng trong giai đoạn điều tra được áp dụng các biện pháp, tiến hành các hoạt
động có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con
người của bị can, như áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Chính vì vậy,
ngoài việc quy định một cách chặt chẽ điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền… áp
dụng các biện pháp này với bị can nói chung, BLTTHS còn có những quy định
riêng đối với những bị can thuộc nhóm yếu thế, trong đó có bị can là NCTN.
Mặc dù BLTTHS có một chương quy định thủ tục tố tụng đối với NCTN
nhưng không có quy định giải thích thế nào là NCTN. Nên khái niệm “người chưa

thành niên” phải được dẫn chiếu từ quy định của Bộ luật hình sự. Bởi, để có thể khởi
tố về hình sự đối với một người cần phải có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện
hành vi phạm tội. Theo khái niệm tội phạm tại Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm
phải do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Người có năng lực trách
nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự) [31, tr.123]. Như
vậy, độ tuổi là một trong những yếu tố bắt buộc để xác định tội phạm.
Theo Điều 68 Bộ luật hình sự thì “người chưa thành niên phạm tội” bao gồm
những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Từ đó, có thể định lượng về độ tuổi của
NCTN tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bị buộc tội: là từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm bị can là NCTN như
sau:“Bị can là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị
khởi tố về hình sự”.


8

Cần lưu ý, một người được coi là NCTN phạm tội có nghĩa là người đó thực
hiện hành vi phạm tội khi đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và chắc
chắn sẽ được áp dụng những quy định trong pháp luật hình sự đối với NCTN phạm
tội. Tuy nhiên, họ có được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN hay không
lại phụ thuộc vào tuổi của họ tại thời điểm người đó tham gia tố tụng. Chính vì vậy
khái niệm về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội đã phản ánh nội dung này, cụ thể: “Thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình
sự là thủ tục đặc biệt được áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo từ 14 tuổi tròn cho đến dưới 18 tuổi”[32, tr.483].
Và trong luận văn thạc sĩ của mình, tác giả Đỗ Thị Phượng cũng nêu: “Thủ

tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN là những thủ tục đặc biệt cần thực
hiện khi tiến hành giải quyết vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của họ trong các hoạt động tố tụng hình sự” [22, tr.8].
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến thủ tục tố tụng đối với
bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Theo đó, khái niệm “Thủ tục
tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” được xác
định như sau: “Thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự là thủ tục đặc biệt mà cơ quan có thẩm quyền điều tra áp dụng đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố về hình sự nhằm giải quyết đúng
đắn, khách quan vụ án hình sự”.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm lý của NCTN
Về trạng thái cảm xúc, NCTN là người đang trong quá trình phát triển cả về
sinh lý và tâm lý. Sự phát triển cơ thể mất cân bằng dẫn đến tình trạng mất cân bằng
tạm thời trong cảm xúc của NCTN. Ở NCTN, diễn ra sự phát triển không cân bằng
giữa hệ tim và mạch, tim phát triển nhanh hơn các mạch máu, làm cho thiếu máu
trong từng bộ phận trên vỏ não và đôi khi còn làm rối loạn chức năng trong hoạt


9

động của hệ tim mạch. Do đó, NCTN có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu,
sức làm việc suy giảm, dễ bị kích động, dễ nổi nóng…Đồng thời, tuyến nội tiết ở
NCTN hoạt động mạnh (đặc biệt tuyến sinh dục và tuyến giáp trạng) gây ra sự mất
cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dễ đưa họ đến những cơn
xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy vô cớ, những hành vi bất thường. Trên
thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây
nên các hành vi lệch chuẩn của NCTN. Có không ít trường hợp chỉ xuất phát từ

những mâu thuẫn nhỏ nhưng do dễ bị kích động, quá nóng giận mà NCTN đã thực
hiện hành vi phạm tội [20, tr.41-43].
Về nhu cầu độc lập, đây là đặc điểm tâm lý nổi bật của lứa tuổi này. Nhu
cầu độc lập là mong muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo cách thức phù
hợp với nhận thức của bản thân hơn là để thỏa mãn đòi hỏi của môi trường, của
người khác. Và sự hình thành, phát triển nhu cầu độc lập ở NCTN là sự phát
triển tâm lý có tính chất tất yếu, hơn nữa còn rất cần thiết, là cơ sở quan trọng để
giúp các em trở thành người lớn sau này. Tuy vậy, đối với các em có nhu cầu
độc lập quá mức kèm theo tính tự chủ kém sẽ trở thành một trong những nguyên
nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Nhu cầu độc lập quá mức thể hiện ở chỗ, luôn
muốn mọi người đối xử với mình như người lớn; cảm thất khó chịu khi cha mẹ
can thiệp quá sâu vào việc riêng của mình; thích phiêu lưu, thích thử sức mình
làm một việc mà người khác không làm được, muốn hành động để chứng tỏ
mình đã lớn; luôn cảm thấy mình đã lớn, không còn là trẻ con nữa, có thể tự giải
quyết mọi việc mà không cần đến cha mẹ; trong tranh luận với mọi người, luôn
cho rằng ý kiến của mình là đúng [20, tr.46-51].
Về thái độ đối với học tập, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng, một
trong những đặc điểm nổi bật của NCTN có hành vi phạm tội là trình độ học vấn rất
thấp. Thái độ học tập có tầm quan trọng đặc biệt đối với các em. Khi có thái độ học
tập tốt thì các em dành hầu hết tâm huyết, sức lực cho hoạt động này còn ngược lại,
khi không có thái độ học tập tốt thì thường dành thời gian cho việc chơi bời, lêu
lổng, bị lôi cuốn vào các hoạt động tiêu cực. Và đây là một trong những nhân tố dẫn
tới các hành vi phạm tội [20, tr. 52].


10

Về nhận thức pháp luật, ở lứa tuổi chưa thành niên, kinh nghiệm trong cuộc
sống còn chưa có hoặc quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật. Thực
tế cho thấy, nhiều NCTN thực hiện hành vi phạm tội, thậm chí hành vi phạm tội đặc

biệt nghiêm trọng nhưng hoàn toàn không biết rằng đó là hành vi phạm tội, không
thấy được hết tính nguy hiểm đối với xã hội của hành vi đó. Nhiều trường hợp thực
hiện hành vi cướp giật tài sản “để cho vui”, không biết đó là hành vi vi phạm pháp
luật [20, tr.57-59].
Về nhu cầu khám phá cái mới, đây là một nhu cầu cơ bản của lứa tuổi này.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là các em không chỉ có nhu cầu khám phá cái mới mà
còn rất tò mò, thử nghiệm cái mới lạ, trong khi đó ở lứa tuổi này, các em lại chưa có
định hình về tính cách nên dễ có hành động bột phát, hay bắt chước, rất dễ bị lôi
cuốn vào những hoạt động tiêu cực. Nhiều trường hợp NCTN nghiện ma túy là do
tò mò, “thử” ma túy rồi thành “nghiện” [20, tr.64].
Qua những phân tích trên, có thể thấy NCTN là người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất cũng như về tâm – sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ
còn bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa
cao. Họ có xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng, dễ tự ái, tự
ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, nhiều hoài bão, thiếu tính thực tế, dễ bị kích động, bị
lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thương nhưng lại dễ thay
đổi thích nghi, dễ uốn nắn…Trong các đặc điểm tâm lý của NCTN nói trên, ta thấy
hai khuynh hướng nổi bật liên quan đến tội phạm và khả năng giáo dục, cải tạo của
họ. Đó là họ dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc thực hiện tội phạm
nhưng do ý thức phạm tội của họ chưa cao và chưa chắc chắn nên cũng dễ uốn nắn,
cải tạo, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội [31, tr.318]. Chính với những đặc
điểm tâm lý nêu trên đòi hỏi BLTTHS phải có quy định riêng về thủ tục tố tụng đối
với NCTN nói chung và thủ tục điều tra đối với bị can là NCTN nói riêng để giải
quyết vụ án một cách nhanh chóng, hiệu quả, khách quan, toàn diện.
Thứ hai, xuất phát từ nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình hoạt động, Đảng và Nhà nước
luôn luôn coi trọng công tác đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là coi trọng việc


11


chăm sóc bảo vệ thiếu niên, nhi đồng và không ngoại trừ những NCTN phạm tội.
NCTN là những người chưa phát triển một cách đầy đủ về thể chất và tinh thần,
chưa có khả năng tự lập hoàn toàn trong xã hội. Vì vậy, đối với NCTN phạm tội,
chính sách hình sự của Nhà nước ta nhấn mạnh yếu tố giáo dục, cải tạo, giúp đỡ họ
sửa chữa lỗi lầm, tạo điều kiện cần thiết giúp đỡ họ phát triển một cách lành mạnh
để họ trở thành công dân tốt cho xã hội. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự
năm 1999 quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, theo đó: “Việc xử lý
NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của NCTN,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây
ra tội phạm”.
Tương ứng với chính sách hình sự nhân đạo đối với NCTN phạm tội cũng như
để đạt được mục đích mà Bộ luật hình sự đặt ra khi xử lý NCTN phạm tội, các thủ tục
tố tụng cũng phải có tính chất phù hợp với đặc điểm lứa tuổi này, chính điều này cũng
đòi hỏi BLTTHS phải có quy định riêng về thủ tục dành cho đối tượng đặc biệt này.
Thứ ba, xuất phát từ việc đảm bảo tính tương thích với Công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em là văn kiện pháp lý quốc tế
quy định các quyền cơ bản của trẻ em nói chung và của NCTN vi phạm pháp luật
nói riêng. Tại Điều 40 quy định: Các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi
trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi phạm pháp luật hình sự, được
đối xử theo cách thức phù hợp với việc cổ vũ ý thức của trẻ về phẩm cách và phẩm
giá nhằm làm tăng cường lòng tôn trọng của trẻ em đối với những quyền con người
và tự do cơ bản của người khác và cũng phải tính đến lứa tuổi của trẻ em và hướng
tới thúc đẩy sự tái hòa nhập và việc đảm đương một vai trò xây dựng của trẻ em
trong xã hội. Điều 40 Công ước cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải thúc đẩy
việc thành lập một hệ thống tư pháp NCTN riêng và đặc biệt là ban hành các đạo

luật quy định trình tự, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho NCTN vi


12

phạm pháp luật. Ngoài ra, tại Quy tắc 12 của Bộ quy tắc tối thiểu chuẩn của Liên
hợp quốc về quản lý tư pháp NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) năm 1985 cũng nêu rõ “cần
nỗ lực thiết lập trên vũng lãnh thổ thuộc quyền tài phán quốc gia một hệ thống luật
pháp, quy tắc và điều khoản áp dụng riêng cho NCTN, cũng như các thiết chế và cơ
quan được giao đảm trách nhiệm vụ quản lý tư pháp NCTN”.
Năm 1990, Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới và là quốc gia đầu tiên
ở Châu Á ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Với
việc phê chuẩn này, Việt Nam có nghĩa vụ và trách nhiệm tuân thủ và bảo đảm luật
pháp của nước mình phù hợp với Công ước. Tuy Việt Nam không có một đạo luật
riêng về tư pháp NCTN nhưng BLTTHS Việt Nam cũng đã dành một chương riêng
– Chương XXXII với 10 điều để quy định về thủ tục đặc biệt đối với NCTN, trong
đó có thủ tục điều tra đối với bị can là NCTN.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của NCTN, dựa trên nguyên tắc
nhân đạo của Nhà nước ta đối với chủ thể đặc biệt này cũng như để phù hợp với các
quy định của Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, BLTTHS đã có những quy
định đặc biệt về thủ tục điều tra đối với vụ án có bị can là NCTN nói riêng và thủ
tục tố tụng đối với NCTN nói chung. Những quy định này không những bảo đảm
được quyền và lợi ích hợp pháp của bị can là NCTN mà còn thể hiện được sự quan
tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội ta đối với chủ thể này.
1.1.3. Khái quát một số chuẩn mực quốc tế liên quan đến thủ tục tố tụng
đối với bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Vấn đề bảo vệ quyền của trẻ em rất được các nước quan tâm, chú trọng.
Chính vì thế, có nhiều văn kiện quốc tế được ra đời để bảo vệ đối tượng yếu thế
này. Trong đó đối tượng đặc biệt hơn, dễ bị xâm phạm hơn đó là NCTN vi phạm
pháp luật. Liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự để xử lý đối với NCTN có thể kể

đến các văn kiện quốc tế quan trọng với nhiều quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn
(trong đó có Việt Nam) như: Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em; Quy tắc
Bắc Kinh; Hướng dẫn của Hội đồng kinh tế xã hội Liên hợp quốc về quản lý tư
pháp NCTN (Hướng dẫn Vienna) và bản Bình luận chung số 10 của Ủy ban Công
ước quyền trẻ em và tư pháp người chưa thành niên... Và các văn kiện quốc tế này


13

cũng đã có những quy định cụ thể để bảo vệ và thúc đẩy đảm bảo quyền lợi tốt nhất
cho trẻ em bị bắt giữ và trong giai đoạn điều tra [5, tr.142]. Trong đó, Công ước của
Liên hợp quốc về quyền trẻ em được coi là “luật cứng” vì Việt Nam đã phê chuẩn
và chấp thuận các công ước này có nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện các điều khoản
của công ước. Còn các văn kiện khác được coi là “luật mềm” vì chúng không trực
tiếp ràng buộc các quốc gia mà chỉ góp phần tạo nên một khuôn khổ về tư pháp
NCTN mà mỗi quốc gia thành viên có thể tham khảo khi đánh giá và xây dựng hệ
thống pháp luật quốc gia về NCTN vi phạm pháp luật [37, tr.21-22].
Và từ đây, khái niệm điều tra thân thiện được hình thành và có thể tiếp cận ở
các góc độ cơ bản sau: thứ nhất, điều tra thân thiện được tiếp cận như một thiết chế
tố tụng tiền xét xử với yếu tố bộ máy, nhân lực, cơ sở vật chất và phương thức làm
việc với NCTN trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ; thứ hai, điều tra thân
thiện được tiếp cận như một phương thức tiến hành tố tụng bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của NCTN tham gia tố tụng với sự ghi nhận quyền của NCTN và trách
nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng [26, tr.36].
Như vậy, mô hình điều tra thân thiện qua những phác thảo này nhấn mạnh
đến phương thức đối xử của các cơ quan tiến hành tố tụng với NCTN theo hướng
tôn trọng danh dự, nhân phẩm cho đối tượng đặc biệt này. Trong mô hình điều tra
thân thiện, việc đặt ra trách nhiệm, nghĩa vụ đối xử của các cơ quan tiến hành tố
tụng chính là phương thức bảo đảm cho các quyền của NCTN. Những tiêu chí nêu
trên của mô hình điều tra thân thiện xuất phát từ nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em:

“Mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền
được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ.
Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và
quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và
mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng” (Điều 40 Công ước của Liên
hiệp quốc về quyền trẻ em).
Mặc dù không quy định cụ thể về điều tra thân thiện nhưng các văn bản pháp
lý quốc tế đòi hỏi (Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em) hay khuyến nghị
(với các Quy tắc, Hướng dẫn khác của Liên hiệp quốc):


14

Thứ nhất, về yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng trong vụ án NCTN:
Theo khuôn khổ pháp luật quốc tế về NCTN vi phạm pháp luật, tất cả cán bộ
chuyên môn trong hệ thống tư pháp NCTN, trong đó có ĐTV thực hiện điều tra vụ
án có bị can là NCTN cần được đào tạo bài bản và thường xuyên (Bình luận chung
số 10, đoạn 97) về cả các quy định tư pháp NCTN trong nước và quốc tế, đặc biệt
về các điều khoản của Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (Điều 24,
Hướng dẫn Vienna). Đào tạo rất quan trọng vì nó giúp cho các cán bộ chuyên môn
biết cách áp dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và chuẩn mực của khung tư pháp cho
NCTN trên thực tế, là cơ hội để các cán bộ chuyên môn thảo luận và tìm hiểu đầy
đủ hơn sự khác nhau giữa NCTN và người đã thành niên và thúc đẩy việc xử lý tốt
hơn những NCTN vi phạm pháp luật. Phù hợp với điều này, trong Quy tắc 22.1 Quy
tắc Bắc Kinh cũng khuyến nghị các cán bộ làm việc với NCTN vi phạm pháp luật
hình sự cần được đào tạo thường xuyên dưới nhiều hình thức.
Thứ hai, về các biện pháp ngăn chặn: Điều 37b Công ước của Liên hợp quốc
về quyền trẻ em và Quy tắc 13.1 Quy tắc Bắc Kinh đều quy định rằng NCTN sẽ
không bị tạm giam trừ khi việc tạm giam là biện pháp cuối cùng và trong thời hạn
ngắn nhất có thể. Tạm giam là biện pháp cuối cùng được hiểu là việc tạm giam chỉ

được áp dụng nếu không còn biện pháp nào khác để thay thế những sự bảo vệ cần
thiết. Cho dù tội phạm bị truy tố nghiêm trọng đến mức nào thì NCTN cũng sẽ chỉ
bị đưa vào trại tạm giam nếu cơ quan chức năng đã cân nhắc tất cả các biện pháp
thay thế khác và đi đến kết luận rằng không còn cách nào khác để ngăn ngừa NCTN
bỏ trốn và bảo đảm rằng người đó sẽ không tự làm hại mình hoặc làm hại người
khác [5, tr.148]. Quy tắc Bắc Kinh quy định rằng, sau khi bắt giữ NCTN, Thẩm
phán hoặc người hay cơ qan có thẩm quyền khác phải cân nhắc ngay, không được
chậm trễ, việc trả tự do cho NCTN. Biện pháp tạm giam có thể bị thay bằng các
biện pháp thay thế khác bất cứ khi nào có thể, chẳng hạn như bằng biện pháp giám
sát chặt chẽ, trông nom cẩn thận hoặc giao cho gia đình hay đưa vào một cơ sở giáo
dục tập trung. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em cũng quy định rằng
mọi NCTN bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng phẩm giá vốn có
của mình; được đối xử theo cách thức có cân nhắc đến nhu cầu của con người ở vào


15

lứa tuổi của em; được cách ly khỏi người lớn; có quyền duy trì liên hệ với gia đình
bằng thư từ, điện thoại hoặc thăm nom trừ trường hợp đặc biệt.
Thứ ba, về hỏi cung bị can: Như trên đã đề cập, đối với ĐTV và tất cả những
người làm việc trong hệ thống xử lý NCTN vi phạm pháp luật cần được đào tạo về
kỹ năng làm việc với NCTN. Một trong những nguyên nhân chính của yêu cầu này
là nhằm bảo đảm quá trình lấy lời khai, hỏi cung bị can là NCTN mang tính thân
thiện để họ không bị quá trình này làm tổn thương. Kỹ thuật hỏi cung thân thiện với
trẻ em cũng rất quan trọng vì nó giúp NCTN cho lời khai chính xác. Và để công tác
điều tra, hỏi cung trở nên thân thiện với NCTN, thông thường cần có những nhân tố
sau: phòng hoặc khu vực lấy lời khai, hỏi cung thân thiện với trẻ em; giới hạn thời
gian lấy lời khai, hỏi cung phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của NCTN; đơn giản
hóa ngôn ngữ và các thuật ngữ chuyên môn sử dụng.
Thứ tư, về quyền bào chữa: ngoài quyền được trợ giúp pháp lý khi bị tước tự

do, NCTN còn có quyền trợ giúp pháp lý và các trợ giúp phù hợp khác để chuẩn bị và
trình bày các luận điểm bào chữa của mình (Điều 37b Công ước của Liên hợp quốc
về quyền trẻ em), cũng như có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị việc bào chữa.
Theo Bình luận chung số 10, đoạn 27 thì hỗ trợ phù hợp ở đây bao gồm sự hỗ trợ của
những nhân viên tư vấn pháp luật hoặc cán bộ xã hội có đủ kiến thức và hiểu biết về
thủ tục tố tụng hình sự NCTN. Và tại Điều 40 Công ước của Liên hợp quốc về quyền
trẻ em cũng quy định rõ: Nhà nước cần đảm bảo cung cấp người bào chữa miễn phí
cho NCTN nếu người đó không hoặc không thể tự mời người bào chữa cho mình.
Thứ năm, về thời hạn điều tra: Quá trình tư pháp NCTN có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sự phát triển của trẻ. Do đó, Điều 40(2)(b)(iii) Công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em quy định rằng trẻ em bị tố cáo hoặc buộc tội vi phạm
pháp luật hình sự có quyền: “vấn đề có phạm tội hay không phải được xác định
không trì hoãn”. Ủy ban Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em cũng đã
khuyến nghị các quốc gia thiết lập và thực hiện các quy định về thời hạn từ khi hành
vi phạm pháp được thực hiện cho tới khi phải hoàn thành công tác điều tra và thời
hạn này phải ngắn hơn so với thời hạn tương ứng trong các vụ án mà người phạm
tội là người đã thành niên (Bình luận chung số 10, đoạn 23).


16

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thủ tục tố tụng
đối với bị can là ngƣời chƣa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Ngoài những quy định chung, thủ tục tố tụng đối với bị can là NCTN trong
giai đoạn điều tra còn được quy định tại Chương XXXII BLTTHS. Đặc biệt, ngày
12/7/2011, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/07/2011 để hướng dẫn thi hành một số
quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN (sau đây gọi tắt là
Thông tư liên tịch số 01/2011). Thông tư này đã đưa ra nhiều hướng dẫn cụ thể
nhằm thúc đẩy hoạt động điều tra theo hướng thân thiện với NCTN.

1.2.1. Người tiến hành tố tụng
Đối với bị can là NCTN, do chưa đủ trưởng thành và thiếu kinh nghiệm sống, nên
khi tiếp xúc với những người tiến hành tố tụng, bị can là NCTN thường có sức ép tâm
lý lớn hơn nhiều so với bị can là người thành niên. Vì thế thái độ đúng mực, tâm lý,
cảm thông của những người người tiến hành tố tụng đối với bị can là NCTN có thể
khiến bị can có suy nghĩ tích cực, thái độ hợp tác, thành khẩn khai báo và mong muốn
cải tạo, sửa chữa những sai lầm, sớm cải tạo trở thành người lương thiện, có ích cho xã
hội và ngược lại. Chính vì vậy, BLTTHS đã đặt ra yêu cầu cho người người tiến hành
tố tụng được phân công trực tiếp giải quyết vụ án hình sự như sau: “ĐTV, KSV, Thẩm
phán tiến hành tố tụng đối với NCTN phạm tội phải là người có những hiểu biết cần
thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống
tội phạm của NCTN” (khoản 1 Điều 302 BLTTHS). Để áp dụng thống nhất, tại Điều 4
Thông tư liên tịch số 01/2011 có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề phân công người
người tiến hành tố tụng, cụ thể như sau: “Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án liên quan đến NCTN, cơ quan tiến hành tố tụng cần phân công ĐTV, KSV, Thẩm
phán đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử đối với NCTN
hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt
động đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến NCTN”.
Theo đó, khi tiến hành điều tra, CQĐT cần phân công ĐTV là người có những
hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm của NCTN. Và có thể thấy, quy định này của


17

BLTTHS Việt Nam đã có phần phù hợp với hướng dẫn tại Quy tắc 12.1 Quy tắc
Bắc Kinh đã nêu ở trên. Những yêu cầu này nhằm đảm bảo rằng, ĐTV khi tiếp xúc
với bị can là NCTN sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý, cảm thông với các em,
tìm được phương thức hợp lý để khơi gợi, thúc đẩy sự hợp tác của các em trong quá
trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh

lý của lứa tuổi chưa thành niên trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như
trong quá trình tham gia tố tụng, tìm ra được giải pháp thích hợp nhất để giúp các
em nhận thức lỗi lầm, cải tạo và phục hồi.
Những hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục, hoạt động đấu tranh phòng,
chống tội phạm của NCTN có thể có được do kinh nghiệm hoặc được đào tạo. Để
có thể hiểu biết thấu đáo về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN,
người tiến hành tố tụng nói chung và ĐTV trong các vụ án có bị can là NCTN nói
riêng không những cần hiểu biết về thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của
NCTN mà còn cần có đủ kiến thức về các chuẩn mực quốc tế về tư pháp NCTN,
các quy định pháp luật về quyền trẻ em của Việt Nam, các quy định về bảo vệ đặc
biệt đối với NCTN trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
1.2.2. Người tham gia tố tụng
Thứ nhất, người bào chữa:
Bên cạnh việc tuân theo các quy định tại chương khác của BLTTHS năm 2003
về bảo đảm quyền bào chữa của bị can nói chung, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý
của lứa tuổi chưa thành niên, khả năng nhận thức pháp luật của họ còn hạn chế nên
BLTTHS năm 2003 còn có những quy định riêng về quyền bào chữa của NCTN.
Việc tham gia tố tụng của người bào chữa trong những vụ án có bị can chưa thành
niên là bắt buộc theo quy định tại khoản 2 Điều 57, Điều 58 và Điều 305 BLTTHS
năm 2003. Mọi trường hợp không có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ
án có bị can là NCTN là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trừ trường hợp cả họ
và người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa. Để bảo đảm quyền bào
chữa của bị can là NCTN, Thông tư liên tịch số 01/2011 cũng hướng dẫn cụ thể: khi
giao quyết định khởi tố bị can, cơ quan ra quyết định phải thông báo cho bị can là
NCTN và người đại diện hợp pháp của họ về quyền có người bào chữa (khoản 2


18

Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2011). Và cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng phải tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền tiếp xúc, gặp
gỡ với bị can là NCTN theo quy định của pháp luật.
Theo hướng dẫn tại điểm a mục 2 Phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS
năm 2003 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP) thì bị can chưa
thành niên và cả người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào
chữa. Người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của bị can; bào chữa
viên nhân dân. Trường hợp bị can là NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không lựa chọn được người bào chữa thì CQĐT phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công
Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình, trừ trường hợp NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối.
Và vì bào chữa là quyền, cho nên NCTN bị buộc tội có thể sử dụng hoặc từ bỏ
quyền này. Bị can là NCTN và đại diện hợp pháp của họ có quyền từ chối người
bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn
giữa bị can chưa thành niên và đại diện hợp pháp về vấn đề có từ chối người bào
chữa chỉ định hay không, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP đã hướng dẫn cụ thể
cách thức giải quyết tại điểm d.2 mục 3 Phần II. Về nguyên tắc, chỉ cần bị can chưa
thành niên hoặc đại diện hợp pháp của họ không từ chối thì tiến hành giải quyết vụ
án có sự tham gia của người bào chữa đã được cử [11, tr.13-14].
Cũng theo hướng dẫn tại khoản 4 Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2011 thì
CQĐT phải đề nghị Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý
cho bị can là trẻ em không nơi nương tựa và có thể đề nghị trợ giúp pháp lý cho bị
can là NCTN khác.
Thứ hai, đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức
Hơn ai hết, chính gia đình, thầy cô giáo là những người hiểu tâm lý, nhân
thân bị can nhất nên để góp phần giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đầy
đủ, cũng như để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can là NCTN, theo quy



19

định tại khoản 1 Điều 306 BLTTHS thì đại diện của gia đình bị can; thầy giáo, cô
giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức
khác nơi bị can học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố
tụng theo quyết định của CQĐT, VKS.
Trong giai đoạn điều tra, việc tham gia tố tụng của các chủ thể nói trên vừa là
quyền, vừa là nghĩa vụ. Tuy nhiên, quyền, nghĩa vụ này phải xuất phát từ quyết
định của CQĐT, VKS. Như vậy, trong quá trình điều tra vụ án có bị can là NCTN,
CQĐT, VKS có thể ra quyết định mời đại diện của gia đình bị can; thầy giáo, cô
giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức
khác nơi bị can học tập, lao động và sinh sống tham gia tố tụng để tìm hiểu về nhân
thân, về điều kiện sống và giáo dục; thái độ học tập, lao động, tư cách đạo đức của
bị can là NCTN; quan hệ và ảnh hưởng tốt xấu của bạn bè và của những người khác
đối với bị can là NCTN; khả năng giám sát, giáo dục của gia đình, nhà trường, tổ
chức đối với NCTN...
1.2.3. Các thủ tục tố tụng đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.3.1. Những vấn đề cần chứng minh
Căn cứ vào phạm vi áp dụng của thủ tục tố tụng đối với NCTN được quy
định tại Điều 301 BLTTHS năm 2003, “Thủ tục tố tụng đối với …bị can…là NCTN
được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác
của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này” thì khi tiến hành
điều tra vụ án hình sự đối với bị can chưa thành niên, CQĐT phải xác định rõ:
- Những vấn đề có tính chất bắt buộc chung đối với các vụ án hình sự: theo
quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003, khi điều tra vụ án hình sự, CQĐT phải
chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay
không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích,
động cơ phạm tội; Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

của bị can và những đặc điểm về nhân thân của bị can; Tính chất và mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra.


20

- Những tình tiết được quy định tại khoản 2 Điều 302 BLTTHS năm 2003,
gồm: tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của bị can là NCTN; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có
người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Thứ nhất, tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức
về hành vi phạm tội của NCTN
* Xác định tuổi của bị can là NCTN
Trong bất kỳ vụ án nào cũng phải xác định tuổi của bị can, nhưng đối
với vụ án có bị can là NCTN, việc xác định tuổi có vai trò rất quan trọng vì nó
liên quan đến việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của họ. CQĐT chỉ
tiến hành ra quyết định khởi tố bị can đối với những người đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm (Điều 12 Bộ luật hình sự). Nếu đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì
khi phạm tội họ bao nhiêu tuổi và khi tiến hành điều tra đã đủ 18 tuổi hay chưa
để xác định chính xác đường lối xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự cũng
như thủ tục tố tụng đối với họ theo BLTTHS. Chỉ khi bị can là NCTN mới
được áp dụng các thủ tục điều tra tại Chương XXXII BLTTHS. Ngay cả trong
trường hợp khi phạm tội là NCTN, nhưng đến khi khởi tố đã là người thành
niên rồi thì cần phải áp dụng thủ tục điều tra chung, không được áp dụng thủ
tục điều tra dành cho NCTN tại Chương XXXII BLTTHS.
Trong quá trình điều tra, CQĐT cần nghiên cứu, kiểm tra xem đã đủ căn
cứ để xác định tuổi của bị can chưa thành niên hay chưa. Việc xác định độ tuổi

của bị can chưa thành niên thông thường dựa trên một số giấy tờ pháp lý như:
Giấy khai sinh, Giấy chứng sinh, Sổ hộ khẩu, hộ tịch của họ. Trường hợp
không có giấy tờ nào có thể khẳng định được tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về
tính xác thực của những tài liệu đó thì bắt buộc phải trưng cầu giám định (Điểm
d khoản 3 Điều 155 BLTTHS). Và kết quả giám định đó được dùng làm căn cứ
để xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự của bị can cũng như việc áp dụng
loại hình phạt, mức hình phạt đối với họ.


×