Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

--------------

PHAN TRUNG THỦY

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Thị Trang Vân

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu, các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.

Người cam đoan

Phan Trung Thủy




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 .......................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị bắt và giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..... 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị bắt ........................................................... 8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự .................. 14
1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền con người, bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự và bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự ...................................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con người .................................................. 17
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự 20
1.2.3. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự............................................................ 20
1.3. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
hình sự trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước ............................. 35
1.3.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự trong pháp luật quốc tế ............................................................ 35
1.3.2. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự trong pháp luật một số nước .................................................... 37



Chương 2 ........................................................................................................ 46
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH............................. 46
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người đối với
người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................ 46
2.1.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự qua các quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự ...................... 46
2.1.2. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự qua các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người ............... 52
2.1.3. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự qua các quy định về địa vị pháp lý của người bị bắt ............... 64
2.2. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015 về bảo đảm quyền con người đối
với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
2.2.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự qua các quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự
2.2.2. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự qua các quy định địa vị pháp lý
2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền
con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........... 69
2.3.1. Kết quả đạt được: .................................................................................. 69
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................... 75
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ............................................. 81
Chương 3 ........................................................................................................ 85
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ
BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ...................... 85


3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con
người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................. 85

3.1.1. Hoàn thiện quy định về các nguyên tắc tố tụng hình sự bảo đảm quyền
con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ......... 85
3.1.2. Hoàn thiện các quy định của biện pháp bắt người bảo đảm quyền con
người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................ 86
3.1.3. Hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của người bị bắt trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự...................................................................................... 92
3.2. Các giải pháp khác ................................................................................... 96
3.2.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra .............................................. 96
3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong
đảm bảo quyền con người của người bị bắt.................................................... 96
3.2.3. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với đối cơ quan tiến hành tố tụng 97
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
TAND: Tòa án nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
CQĐT: Cơ quan điều tra
BPNC: Biện pháp ngăn chặn


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu và cao cả nhất của nền văn
minh nhân loại trong thời đại hiện nay. Ở Việt Nam, bảo đảm quyền con người
đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, chú trọng. Điều này
được thể hiện

thành quả về xây dựng lý luận về bảo vệ quyền con người cũng

như thực tiễn bảo đảm quyền con người.
Trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, biện pháp ngăn
chặn bắt là biện pháp mang tính cưỡng chế tố tụng tương đối nghiêm khắc, có
nguy cơ xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do thân
thể và cá nhân của người bị áp dụng. Do đó, trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn bắt thì quyền của người bị bắt có nguy cơ bị đe dọa rất cao. Chính
vì vậy, bảo đảm quyền con người của người bị bắt là vấn đề rất quan trọng
trong cả quá trình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung
và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên
quan rất chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động tố tụng hình sự là nơi các
biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất; và vì vậy là nơi
quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, có nguy cơ
dễ bị xâm hại nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua
cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá
trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân,
trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của
người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, cơ

1



quan, người tiến hành tố tụng đối với công dân... Vì vậy, có thể nói nghiên
cứu việc bảo đảm quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt
của người bị bắt trong giai đoạn điều hình sự nói riêng từ góc độ lập pháp
cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong
công cuộc cải cách tư pháp nói riêng

nước ta.

Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có những thay đổi rất
quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong
đó có người bị bắt trong giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề
quyền con người của những đối tượng này vẫn còn những vướng mắc nhất
định. Tỉ lệ bắt người sai quy định, sai trình tự thủ tục tuy đã giảm nhưng vẫn
còn phổ biến. Cá biệt có một số nơi quyền của người bị bắt còn chưa thực sự
được quan tâm, việc dùng nhục hình đối với người bị bắt trước khi vào sổ thụ
lý còn có

một số nơi. Đặc biệt có một số trường hợp người bị bắt đã chết

sau khi bị bắt dấy lên nghi ngờ trong dư luận về sự an toàn của biện pháp
ngăn chặn này.
Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu những quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về vấn đề bảo đảm quyền con người
của người bị bắt trong giai đoạn điều tra đang là một yêu cầu mang tính cấp
thiết cao. Với những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Bảo đảm
quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm

quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp cũng
như quyền con người trong tố tụng hình sự đặc biệt cũng có những công trình

2


đã nghiên cứu một cách trực tiếp về vấn đề bảo đảm quyền con người trong
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó có biện pháp ngăn chặn bắt
người. Các công trình nghiên cứu đã công bố có thể được phân thành các
nhóm sau đây:
- Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong
Nhà nước pháp quyền có các công trình như sau: Hoàng Văn Hảo và Phạm
Ích Khiêm đồng chủ trì,"Quyền con người trong thế giới hiện đại", Sách
chuyên khảo, Nxb. Khoa học xã hội (1995); Trần Ngọc Đường"Quyền con
người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia (1997);Đinh Văn
Mậu"Quyền lực Nhà nước và quyền con người", Sách chuyên khảo,
Nxb.Chính trị quốc gia (2002).
Ngoài ra còn có thể kể đến bài báo khoa học đã được đăng tải trên tạp
chí chuyên ngành như: Tường Duy Kiên, "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người", Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 5(2005);
- Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về
bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được công bố. Trong
số các công trình này có: Nguyễn Huy Hoàng, "Bảo đảm quyền con người
trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”,Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Chính trị quốc gia (2003); Trần Quang Tiệp,"Bảo vệ quyền con người
trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam", Sách chuyên khảo, Nxb.
Chính trị quốc gia (2004); Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản
đồng chủ trì, “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố

tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Đề
tài khoa học cấp Đại học quốc gia, Đại học Quốc Gia Hà Nội (2005);Nguyễn

3


Quang Hiền,"Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận
án tiến sĩ luật học,Viện nhà nước và pháp luật (2008);Nguyễn Thái Phúc,Báo
cáo tại Hội thảo về Quyền con người trong tố tụng hình sự (do Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3-2010);...
- Về lĩnh vực nghiên cứu biện pháp ngăn chặn bắt người nói chung và
bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong các hoạt động tố tụng hình
sự có một số công trình nghiên cứu khoa học khác nhau về vấn đề này như:
Nguyễn Mạnh Cường“Thực trạng áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ hình sự tại
các đồn Biên phòng”,Đề tài cấp cơ s , Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
Hà Nội (2010); Nguyễn Hồng Ly, “Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực
tiễn áp dụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hải
Dương”,Luận án thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2011);Dương Thị Hồng Lĩnh,“Bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2014) …
Một số bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn
Tiến Đạt,“Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 3(2006);H oàng Minh Sơn, “Bảo đảm quyền của
người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong tố tụng hình sự hình
sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 3 (2011); Nguyễn Văn Mạnh, “Quyền
bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo theo
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8 (2014)…
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích, nghiên cứu dưới
những góc độ nhất định khác nhau về quyền con người nói chung, cũng như

quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng. Tuy nhiên cho đến
hiện nay chưa có công trình nghiên cứu

4

cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học


nào tìm hiểu về bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ s làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của
người bị bắt trong giai đoạn điều tra, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy
định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bắt người trong giai đoạn điều
tra, luận văn làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và
giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền công dân và
bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra; làm rõ
những đòi hỏi đặc thù trong bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong
giai đoạn điều tra.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn điều tra;
- Phân tích các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng
hình sự 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền
con người của người bị bắt; tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm
quyền con người của người bị bắt trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự;

- Kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam và tăng cường bảo đảm quyền con người của
người bị bắt trong giai đoạn điều tra hình sự.

5


3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 và các văn bản khác có liên quan. Về thực tiễn đề tài nghiên cứu thực
tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự

Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2014.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ s phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa MácLênin và tư tư ng Hồ Chí Minh cũng như
các quanđiểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, vềnhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người. Việc nghiên
cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con người nói chung và
từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được
sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê v.v...
5. Ý nghĩa và các đóng góp mới của đề tài
5.1. Ý nghĩa
- Ý nghĩa về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án làm giàu thêm lý
luận về quyền của người bị bắt nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị bắt trong điều tra hình sự nói riêng.
- Ý nghĩa về thực tiễn: Với việc đưa ra nhận thức đầy đủ, toàn diện, có
hệ thống lý luận về quyền của người bị bắt trong điều tra hình sựvà phân tích

thực trạng của vấn đề này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS, đem đến
sự nhận thức đúng đắn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích
cuối cùng là bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự trong thực tế.
6.2. Những đóng góp mới của luận án

6


Thứ nhất, nghiên cứu, đề xuất một số khái niệm về "Quyền con người của
người bị bắt trong giai đoạn điều tra" và "Bảo đảm quyền con người của người
bị bắttrong giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" đồng thời
nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề quy định của pháp luật về quyền của người
bị bắt trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành;
Thứ hai, đánh giá đầy đủ, hoàn chỉnh qua đó làm rõ những bất cập, thiếu
sót, vướng mắc đối với các quy định của BLTTHS 2003 trong việc bảo vệ quyền
con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra cũng như thực tiễn áp dụng;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng bổ sung những quy định thể
chế; thiết chế về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần m đầu, kết luận, các bảng biểu và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người đối với
người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con
người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực tiễn
thi hành.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.1. Khái nhiệm, đặc điểm người bị bắt và giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người bị bắt
Bắt người là một trong những hình thức thể hiện của biện pháp ngăn chặn.
Bắt có tính chất kh i đầu cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tiếp theo. Bắt
là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì
vậy việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật
quy định.
Bắt là biện pháp ngăn chặn nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn
ngừa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật,
nhằm tạo điều kiện bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
được thuận lợi. Bắt người là biện pháp ngăn chặn mang tính đặc thù thường
được áp dụng liền trước các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam.
Biện pháp ngăn chặn này làm hạn chế một số quyền tự do của cá nhân người
bị bắt, buộc họ phải có mặt tại địa điểm quy định để làm việc với Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Biện pháp bắt người được tính từ thời điểm
người có chức vụ theo luật định ra lệnh bắt đến khi kết thúc là người bị bắt
được dẫn giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam. Như vậy, việc bắt người là một
hoạt động mang tính chất nghiệp vụ, tố tụng của các cơ quan, cá nhân được
BLTTHS trao quyền thực hiện việc này. Do đó, hoạt động bắt người mang
tính thời điểm, việc kiểm tra, giám sát để tránh tình trạng xâm phạm tới quyền

8



con người của chủ thể bị áp dụng thường khó khăn hơn các biện pháp tạm
giữ, tạm giam.
Trước khi tìm hiểu về khái niệm người bị bắt, chúng ta cùng tìm hiểu
về khái niệm bắt người - với tư cách là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
Bắt hiểu theo nghĩa rộng: Bắt không phải là biện pháp trừng phạt của
pháp luật đối với người phạm tội mà là biện pháp ngăn chặn của hoạt động
TTHS. Bắt đúng người, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mưu và
thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che
giấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết vụ
án.
Bắt hiểu theo nghĩa hẹp: Đối với cá nhân người bị bắt là sự hạn chế một
số quyền tự do của cá nhân, là điểm kh i đầu sự trừng phạt củapháp luật nếu
người đó là người thực hiện hành vi phạm tội, b i vì khi thi hành án, thời gian
tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian thi hành án.
Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người
vô tội sẽ gây một tác hại rất lớn, không những các quy định của pháp luật bị
vi phạm, mà quyền bất khả xâm phạm của con người bị xâm hại, ảnh hư ng
đến quyền lợi của công dân được pháp luật bảo hộ. Điều này dẫn đến việc,
yêu cầu bảo đảm quyền con người của người bị bắt là rất cần thiết. B i lẽ
người bị bắt trong TTHS thường có nguy cơ cao bị xâm phạm tới các quyền
con người cơ bản trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Từ đó
việc bắt người trái pháp luật ảnh hư ng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với
cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng
chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, khi bắt người phải
thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song cũng phải thận
trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện BLTTHS các cơ

9



quan tư pháp như: Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC),
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Bộ Tư pháp, đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hướng dẫn việc áp dụng BPNC
trong đó có biện pháp bắt.
Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cường pháp
chế XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng như
đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trường
hợp bắt, đó là:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [28].
Các trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc
trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng.
Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
(HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND), các quy định đối với người chưa thành
niên, các quy định đối với người phạm tội là người nước ngoài, khi chủ thể
thuộc các đối tượng này còn phải vận dụng thêm các quy định mang tính cá
biệt để áp dụng BPNC cũng như áp dụng các quy định trong BLTTHS được
đúng đắn. Việc áp dụng các biện pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc
chung, các chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi
giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước ta.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể tóm tắt khái niệm về
biện pháp bắt trong TTHS như sau: Bắt người là một biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy
nã và những trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối
với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
10



tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Tiếp theo chúng ta đi tìm hiểu về khái niệm người bị bắt. Khái niệm
này được xây dựng dựa trên cơ s của khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt
người. Người bị bắt là chủ thể bị các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các chủ
thể khác theo quy định của BLTTHS áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người
thuộc một trong ba trường hợp: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Theo đó, có thể hiểu khái niệm người bị bắt nói chung là người bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn bắt người do các chủ thể được quy định trong BLTTHS
hình sự tiến hành theo thủ tục được pháp luật quy định. Hiện nay BLTTHS
chưa quy định khái niệm người bị bắt mà chỉ quy định các trường hợp bắt
người, đồng thời cũng đưa ra khái niệm người bị tạm giữ. Theo quy định của
Điều 48 BLTTHS thì: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm
tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ [28]. Điều này có
nghĩa, các trường hợp người bị bắt sau đó chuyển hóa thành tư cách tố tụng
của người bị tạm giữ, b i lẽ người bị tạm giữ sau khi bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn bắt quả tang, bắt đang bị truy nã, bắt khẩn cấp và có quyết định
tạm giữ thì tr thành chủ thể tố tụng này.
Nghiên cứu giai đoạn điều tra vụ án hình sự ta thấy, giai đoạn điều tra
được xác định từ khi có quyết định kh i tố vụ án hình sự cho đến khi hoặc là
có quyết định kết luận điều tra, đề nghị truy tố, hoặc kết luận điều tra, đình chỉ
vụ án. Như vậy trong giai đoạn điều tra chỉ có sự xuất hiện của người có
những tư cách tố tụng là người bị tạm giữ hoặc bị can mà không có người có
tư cách bị cáo. B i lẽ theo Điều 50 BLTTHS thì: Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, đối với người bị bắt trong giai đoạn điều
11



tra chỉ có thể là những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt đối với các
trường hợp bắt khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy
nã và bắt bị can để tạm giam mà không thể có trường hợp bắt bị cáo để tạm
giam.
Một điều lưu ý là riêng đối với trường hợp bắt người đang bị truy nã,
bắt bị can để tạm giam, bắt khẩn cấp, bắt quả tang có thể có cả trong các giai
đoạn tố tụng khác như giai đoạn kh i tố, truy tố trong TTHS. Do đó, cần phải
phân biệt các trường hợp này với trường hợp bắt người trong giai đoạn điều
tra, để từ đó xác định đúng nội dung bảo đảm quyền con người của người bị
bắt trong giai đoạn điều tra. Thực tiễn hiện nay đa số biện pháp bắt người đều
được tiến hành trong giai đoạn điều tra. Nghiên cứu bắt người trong giai đoạn
này có những ý nghĩa rất quan trọng trong đảm bảo quyền con người của
người bị bắt.
Từ những phân tích về khái niệm bắt người trong TTHS và khái niệm
giai đoạn điều tra trong TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về người bị
bắt trong giai đoạn điều tra như sau: Người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự là người bị các cơ quan điều tra hoặc các cơ quan khác được giao
thẩm quyền điều tra theo quy định của BLTTHS áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt người trong trường hợp họ là bị can trong vụ án hoặc họ là người đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
hoặc có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do
BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can
gây khó khăn cho việc điều tra, vụ án hình sự.
Từ khái niệm trên về người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
ta có thể rút ra các đặc điểm sau về người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự.

12



Thứ nhất, người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là người
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người. Biện pháp này được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, với các điều kiện về căn cứ bắt,
chủ thể bắt, thủ tục bắt rất chặt chẽ. B i lẽ, bắt người cũng như các biện pháp
ngăn chặn khác là các biện pháp hạn chế quyền con người của người bị áp
dụng. Do đó, khi áp dụng biện pháp bắt cũng như các biện pháp ngăn chặn
khác thường có tác động tới các quyền cơ bản của con người như quyền bất
khả xâm phạm về thân thể... Chính vì vậy, nghiên cứu về việc bảo đảm quyền
con người của người bị bắt là rất quan trọng.
Thứ hai, người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự bị tiến
hành áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người nhưng không phải trong mọi
trường hợp bắt. Theo quy định của BLTTHS thì hiện nay quy định ba trường
hợp bắt là: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người trong trường hợp khẩn
cấp; Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tuy nhiên, để phù hợp
với giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì biện pháp bắt người chỉ áp dụng đối
với trường hợp bắt bị can để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
bắt người đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. B i lẽ nếu đã xác định
là bị cáo trong vụ án hình sự thì là người đã có quyết định đưa ra xét xử. Như
vậy, giai đoạn này thuộc giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Việc xác định phạm
vi người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò quan trọng
trong việc giới hạn đối tượng người bị bắt trong giai đoạn điều tra.
Thứ ba, người bị bắt trong giai đoạn điều tra là người sau khi bị áp
dụng biện pháp bắt người thì họ là người tiếp theo bị áp dụng các biện pháp
ngăn chặn khác. Đó là các biện pháp tạm giữ, tạm giam hoặc một số biện
pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS năm 2003. Điều này cho thấy,
biện pháp bắt người khi kết hợp với các biện pháp ngăn chặn khác mới đảm

13



bảo yếu tố nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo
gây khó khăn cho việc điều tra, vụ án hình sự.
Thứ tư, một đặc điểm chung của người bị bắt trong giai đoạn điều tra
cũng như những người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác đó là những
người có nguy cơ bị hành vi tố tụng tác động tới các quyền con người cơ bản
của họ như tự do thân thể, tự do cư trú... điều này cho thấy yêu cầu cần thiết
của việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra.
Vấn đề bảo đảm quyền của người bị bắt có liên quan đến rất nhiều yêu cầu
khác nhau về điều kiện bắt, thủ tục bắt, chủ thể có quyền bắt... Đáp ứng được
điều kiện này là một nhân tố quan trọng trong đảm bảo quyền của người bắt
trong giai đoạn điều tra.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn
và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác,
khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự.Quá trình
giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng
hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với
mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai
đoạn tố tụng hình sự được hiểu: Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương
ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại
chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án
hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp
phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự
do của công dân [4].
14



Tất cả các nhà nghiên cứu đều chỉ ra rằng, điều tra là một giai đoạn
của tố tụng hình sự. Theo đó, giai đoạn điều tra chiếm một vị trí quan trọng
trong TTHS. Theo quan điểm thống nhất hiện nay, giai đoạn điều tra vụ án
hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy
định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra
được xác định bắt đầu từ khi có quyết định kh i tố vụ án hình sự cho đến khi
CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị
truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp
luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng
trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp
vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn
điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể
cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4
tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm
trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20
tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định kh i tố vụ án hình
sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra
nêu trên thì Viện trư ng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết,
thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp
của vụ án mà Viện trư ng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, b i kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc
xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực
hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ s các chứng cứ đã thu thập được giai đoạn
điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng
15



có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng
minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến
vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các
ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện
b i các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện b i chủ thể của giai
đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của Luật tố tụng hình sự
góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và đúng
pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn
của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao
một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự
quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và
những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ s cho việc xét xử của Tòa
án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện
phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với
các cơ quan và tổ chức hữu quan [7, tr.59].
Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên,
có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá
trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành
tố tụng ra quyết định kh i tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ
hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra
quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để

16



chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ
án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để
kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều
chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu
thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ s cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung
cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì
mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là
mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp
đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó
là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại;
tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Các
biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự [6,
tr.63].
1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền con người, bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự và bảo đảm quyền con người đối với người bị
bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con người
Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định
nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo
những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn
b i các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những

17



quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn
giản vì họ là con người. Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng
cao ủy Liên hợp quốc thường xuyên được trích dẫn b i các nhà nghiên cứu:
quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [45,
tr.1].
Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con
người.Trong tác phẩm Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người,
các tác giả định nghĩa quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế[23, tr.38].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung
của cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện
chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền
con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người
như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để tr
thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù

góc độ nào hay cấp độ nào

thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ
những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Phân biệt khái niệm quyền con người với quyền công dân:
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có mối liên hệ
mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác biệt nhất định.
Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền

công dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người

18


thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt
quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của
chủ thể, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.
Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa công dân với Nhà nước, được xác định b i chế định quốc tịch. Quyền công
dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và
chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hư ng các quyền
công dân mà pháp luật nước đó quy định. Ví dụ: theo Điều 27 Hiến pháp năm
2013 thì công dân đủ 18 tuổi tr lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi tr lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân [30].
Các đặc điểm (tính chất) của quyền con người. Quyền con người có
những tính chất cơ bản sau đây:
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quyền con người thể hiện

chỗ quyền con người

được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc,
giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù

trong những

chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn
được công nhận là con người và được hư ng những quyền và sự tự do cơ bản
[23, tr.42].

- Tính đặc thù:
Mặc dù tất cả mọi người đều được hư ng quyền con người nhưng mức
độ thụ hư ng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng
người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang
sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang
những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
khu vực đó.
19


×