Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

đảm bảo quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.96 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 34 (2008 – 2012)

Đề Tài

ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ

Sinh viên thực hiện:
Phan Thị Kim Loan
MSSV: 5085815
Lớp: Tư Pháp 1 – K34

Giáo viên hướng dẫn:
Th.S Mạc Giáng Châu
Bộ môn Tư pháp

Cần Thơ, 5/2012


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cha mẹ và em trai tôi,


những người đã hết lòng lo cho tôi trong gần bốn năm đại học, chính nhờ sự hỗ trợ,
động viên của cha mẹ và em trai tôi mà tôi mới được kết quả học tập như ngày hôm
nay. Thứ hai, tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô Khoa Luật, các Thầy Cô đã
từng dạy tôi trên giảng đường đại học, chính các Thầy Cô đã truyền đạt những kiến
thức và khơi dậy niềm đam mê học tập của tôi. Thứ ba, tôi xin gửi lời cảm ơn đến
các anh, chị, các bạn cùng khóa đã giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm, thu thập tài liệu,
thảo luận với tôi những vấn đề còn thắc mắc. Và, cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến cô Mạc Giáng Châu – người đã hỗ trợ, hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình làm luận văn để tôi có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
Tôi xin chúc tất cả mọi người luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, gặp nhiều
may mắn và thành công trong công việc của mình!
Sinh viên thực hiện

PHAN THỊ KIM LOAN

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu


SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:


Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên

NCTN:

Người chưa thành niên

NGĐ:

Người giám định

NLTNHS:

Năng lực trách nhiệm hình sự


NPD:

Người phiên dịch

NTGTT:

Người tham gia tố tụng

NTHTT:

Người tiến hành tố tụng

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:


Viện kiểm sát

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.............................................................5
1.1. Khái niệm chung .............................................................................................5
1.1.1. Khái niệm về người chưa thành niên .........................................................5
1.1.1.1. Khái niệm về người chưa thành niên của các tổ chức trên thế gới ...5
1.1.1.2. Khái niệm về người chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam........6
1.1.2. Khái niệm bị can, bị cáo trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam ..................9
1.1.2.1. Khái niệm bị can ............................................................................9
1.1.2.2. Khái niệm bị cáo ............................................................................9
1.1.2.3. Phân biệt bị can và bị cáo .............................................................10
1.1.3. Khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên ..................................12
1.2. Cơ sở lý luận về quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên ..........15

1.2.1. Một số nguyên tắc cơ bản liên quan đến bảo vệ quyền của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên............................................................................................15
1.2.1.1. Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật....................................15
1.2.1.2. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.....................17
1.2.1.3. Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể .............................18
1.2.1.4. Đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo..................................20
1.2.2. Tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên ..............................................................................................................21
CHƯƠNG 2: ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ ........25
2.1. Các quyền chung của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử...............................................................................25
2.1.1. Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ...............................................25
2.1.2. Quyền chứng minh, bác bỏ nội dung buộc tội..........................................28
GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

2.1.2.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu ..........................................28
2.1.2.2. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa ......................31
2.1.2.3. Quyền trình bày lời khai ..............................................................36
2.1.2.4. Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa...........................39
2.2. Các quyền riêng của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử...............................................................................45
2.2.1. Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì ...............................................45

2.2.2. Quyền tham gia phiên tòa........................................................................47
2.2.3. Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án ................................................51
CHƯƠNG 3: TỒN TẠI VÀ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN CÁC QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ ........55
3.1. Những tồn tại và đề xuất nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền chung của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử .56
3.1.1. Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ................................................56
3.1.2. Quyền chứng minh, bác bỏ nội dung buộc tội..........................................58
3.1.2.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu ...........................................58
3.1.2.2. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa .......................61
3.1.2.3. Quyền trình bày lời khai ...............................................................64
3.1.2.4. Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa............................67
3.2. Những tồn tại và đề xuất nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền nói lời sau
cùng trước khi nghị án của bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn xét
xử ..........................................................................................................................70
3.2.1. Tồn tại trong việc đảm bảo quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án của
bị cáo là người chưa thành niên .............................................................................70
3.2.2. Đề xuất nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền nói lời sau cùng trước khi nghị
án của bị cáo là người chưa thành niên...................................................................73
KẾT LUẬN ..........................................................................................................75
Danh mục tài liệu tham khảo

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp


Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế tồn tại trong tất cả
các xã hội. Trong những năm qua và nhất là thời điểm hiện nay, tình trạng người
chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp và có xu hướng ngày
càng tăng. Theo số liệu thống của Bộ Công an chỉ tính riêng trong năm 2010, trên
địa bàn cả nước có 13.572 đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, trong đó
1.600 vụ học sinh đánh nhau, tăng nhiều lần so với những năm trước cả về số lượng
lẫn các vụ trọng án. Trong đó, tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 60%,
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8%
trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện1. Việc
giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội là việc làm cần thiết để giữ
nghiêm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, nhưng cũng là một vấn đề phức
tạp và tế nhị. Trước hết, do xuất phát từ đặc điểm tâm lý đang phát triển, nhân cách
chưa được định hình, nhận thức chưa đầy đủ nên họ đã có hành vi phạm tội một
cách không tự giác. Họ trở thành bị can, bị cáo trong một vụ án hình sự. Mặt khác,
khi phạm tội người chưa thành niên vừa là những người phạm tội, nhưng đồng thời
cũng là những nạn nhân của sự thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình, nhà trường và
xã hội; hành động ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh khách quan hoặc bị xúi giục,
lừa dối,…
Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội
phạm về người chưa thành niên là: “vấn đề không chỉ đơn giản là giải quyết một vụ
án, trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra cách để giảm bớt
những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy
xảy ra”2, “việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội”3. Quán triệt tinh thần đó, BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận cho người chưa

thành niên những quyền năng tố tụng khi họ tham gia tố tụng với tư cách bị can, bị
cáo. Đồng thời, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng hình sự phải luôn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng của mình,
nghiêm chỉnh tuân thủ quy định pháp luật trong việc giải quyết các vụ án có người
1

Báo mới, báo động tội phạm vị thành niên, M.T, [truy cập ngày 01/4/2012].
2
Nghị quyết 08/2002/NQ-TW, của Bộ Chính trị ra đời ngày 02/01/2002.
3
Điều 69 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 1

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

chưa thành niên tham gia, đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án khách quan, dân
chủ. Phải luôn bảo vệ, đảm bảo điều kiện thuận lợi để người chưa thành niên thực
hiện được các quyền năng tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự đã ghi nhận cho họ,
khi họ tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo. Bởi lẽ, việc thực hiện các
quyền năng tố tụng là một hình thức, điều kiện tốt nhất để người chưa thành niên
tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự và bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của mình.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, là cơ sở pháp lý để thực hiện các quyền
năng tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là NCTN. Tuy
nhiên, trong thực tiễn việc đảm bảo thực hiện những quyền tố tụng của bị can, bị
cáo là NCTN vẫn còn nhiều hạn chế, mờ nhạt, còn mang nặng tính hình thức, số
lượng án hình sự bị trả để bổ sung, điều tra lại, bị hủy, sửa hàng năm vẫn còn chiếm
tỷ lệ cao (theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thì đã ra quyết định truy tố đối với 11.215 vụ án hình sự đối với bị
can là người chưa thành niên tham gia, trong đó trả hồ sơ điều tra bổ sung là 97 vụ,
tương đương 0,85% trong tổng số án truy tố. Bên cạnh đó, Cơ quan điều tra đã khởi
tố 65 bị can về các tội dùng nhục hình, ra quyết định trái pháp luật, làm sai lệch hồ
sơ vụ án4. Báo cáo tổng kết công tác 2010 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm
2011 của ngành Tòa án, trong năm 2010 Tòa án đã xét xử 11.025 vụ án hình sự đối
với người chưa thành niên, tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy trong năm 2010 là 87 vụ
tương đương 0,78%, sử lại là 33 vụ , tương đương 3,1%)5. Đặc biệt, là tình trạng kết
án oan còn diễn ra nhiều trên thực tế do những người tiến hành tố tụng chưa nắm
vững các quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng, còn hạn chế
về kiến thức nhất định về đặc điểm tâm – sinh lý của lứa tuổi người chưa thành niên
để phục vụ cho công tác phục giải quyết vụ án. Bị can, bị cáo là NCTN không được
đảm bảo để thực hiện các quyền năng tố tụng hay đảm bảo không có hiệu quả, vi
phạm các quyền tố tụng của họ, làm giảm lòng tin của bị can, bị cáo là NCTN, quần
chúng nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hình
sự. Chính vì vậy, trước những đòi hỏi của công cuộc phòng và chống tội phạm,
cũng như đảm bảo hơn sự dân chủ, bình đẳng, khách quan trong việc giải quyết vụ
án đối với người chưa thành niên phạm tội, việc nghiên cứu sâu các quyền năng tố
tụng của bị can, bị cáo là NCTN trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề
4

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về công tác kiểm sát của ngành kiểm sát nhân dân
nhiệm kì Quốc hội khóa XII, Tạp chí kiểm sát số 07, tháng 04/2011.
5

Tòa án nhân dân tối cao, Hội nghị triển khai công tác năm 2011 của ngành Tòa án nhân dân, Trần Kỳ,
, [truy cập ngày 25/4/2012].

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 2

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ
những phân tích trên, nên người viết đã chọn đề tài “Đảm bảo quyền của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam, tố tụng hình sự được chia thành
năm giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó, bị can, bị
cáo là NCTN tham gia vào các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án. Bên cạnh việc làm rõ các khái niệm về bị can, bị cáo là NCTN, một số nguyên
tắc liên quan cần được đảm bảo, người viết chỉ tập trung nghiên cứu các quyền tố
tụng mà pháp luật tố tụng hình sự đã quy định cho bị can, bị cáo là NCTN trong ba
giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Trong các quyền của bị cáo là NCTN có quyền
kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cũng có mặt trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm, nhưng vì thời gian nghiên cứu đề tài còn hạn chế nên người viết
không mở rộng nghiên cứu đến giai đoạn xét xử phúc thẩm cũng như nghiên cứu về
người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần và thể chất. Đề tài luận văn này

chỉ chủ yếu nghiên cứu các quyền tố tụng của bị can, bị cáo là NCTN trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, người viết hướng tới mục đích làm sáng tỏ thêm cơ
sở lý luận cũng như thực tiễn thực hiện các quyền năng tố tụng của bị can, bị cáo là
NCTN. Qua đó, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại về mặt pháp lý cũng như thực tiễn
và đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền năng tố tụng
của bị can, bị cáo là NCTN, góp phần đảm bảo quá trình giải quyết vụ án khách
quan, dân chủ, phù hợp chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn
đề xử lý người chưa thành niên phạm tội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này hoàn thành dựa trên những kiến thức đã học; thu thập và tổng
hợp các tài liệu, các văn bản pháp luật, một số tạp chí chuyên ngành có liên quan tới
đề tài; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử
lý người chưa thành niên phạm tội. Đồng thời, luận văn này còn sử dụng một số
phương pháp như: phương pháp nghiên cứu, phương pháp phân tích luật viết để
hoàn thành đề tài.

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 3

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

5. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương với cơ cấu như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên
Chương 2. Đảm bảo quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
Chương 3. Tồn tại và đề xuất nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền
của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra, truy tố,
xét xử
Nghiên cứu đề tài này là một phần đóng góp của tác giả vào việc giải quyết
vụ án khách quan, đúng đắn và dân chủ cũng như nâng cao hiệu quả đảm bảo thực
hiện các quyền năng tố tụng của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Mặc dù,
bản thân đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong quá trình nghiên cứu, nhưng, do đây là
một đề tài cũng tương đối rộng và phức tạp, nên đòi hỏi người nghiên cứu đề tài cần
phải có kiến thức sâu rộng cả về lý luận lẫn thực tiễn, đây cũng là lần đầu tiên
nghiên cứu, trình độ, năng lực bản thân còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong được sự hướng dẫn, chỉ bảo của quý Thầy, Cô và sự
đóng góp, xây dựng của các bạn.

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 4

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
1.1.1.1. Khái niệm về người chưa thành niên của các tổ chức trên thế giới
Mỗi con người sinh ra và lớn lên trong những môi trường sống cũng như
được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong những điều kiện vật chất và tinh thần
khác nhau. Họ cũng có sự phát triển về thể chất, tâm – sinh lý, khả năng nhận thức
cũng khác nhau và đến một giai đoạn nhất định nào đó thì sự phát triển về tâm –
sinh lý, khả năng nhận thức đó được xem là đầy đủ. Mỗi quốc gia trên thế giới sẽ
đặt ra những tiêu chí nhất định nào đó như tiêu chí về độ tuổi chỉ những người đang
trong giai đoạn phát triển nhất định đó. Đa số các nước trên thế giới dùng cụm từ
“vị thành niên” để chỉ những người chưa thành niên – những người đang trong giai
đoạn phát triển về tâm – sinh lý và nhận thức, nhưng độ tuổi của những người chưa
thành niên cũng được quy định khác nhau ở từng quốc gia:
+ Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hiệp
quốc thông qua ngày 20/11/1989, và có hiệu lực ngày 02/09/1990 có ghi: “Trong
phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp
luật áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”6.
+ Theo quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về “áp dụng pháp luật
đối với người chưa thành niên” (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), thông qua ngày
29/11/1985 đã định nghĩa chính thức về trẻ vị thành niên là từ 10 – 19 tuổi, và tuổi
thanh niên 14 – 24 tuổi7.
+ Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) quy định vị thành niên nằm trong độ
tuổi từ 10 – 18 tuổi. Lứa tuổi này được chia thành ba giai đoạn8:
 Giai đoạn vị thành niên sớm tương đương tuổi thiếu niên: Nam từ
15 – 16 tuổi, Nữ từ 10 – 12 tuổi.
 Giai đoạn vị thành niên giữa tương đương với lứa tuổi thiếu niên lớn:
Nam từ 15 – 16 tuổi, Nữ từ 13 – 15 tuổi.


6

Việt Nam là nước thứ 2 trên Thế Giới đã phê chuẩn Công uớc này mà không bảo lưu ngày 28/02/1990.
Báo tiền phong, tuổi trẻ vị thành niên, Thái Châu, http: www.tienphong.vn [truy cập ngày 06/02/2012].
8
Báo dân trí, sự khác nhau giữa vị thành niên và trẻ em, Thanh Hoài,
www.dantri.com.vn/sư_khac_nhau_giua_vi_thanh_nien_và_tre_em, [truy cập ngày 06/02/2012].
7

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 5

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

 Giai đoạn cuối vị thành niên tương đương với lứa tuổi đầu thanh niên:
Nam từ 17 – 18 tuổi, Nữ từ 16 – 18 tuổi.
+ Theo chương trình sức khỏe sinh sản tình dục vị thành niên – thanh niên
của khối Liên minh Châu Âu (EU), và Quỹ dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) lấy độ
tuổi 15 – 24 tuổi9.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra các khái niệm về trẻ em hay người
chưa thành niên, trong pháp luật quốc tế đã dựa vào đặc điểm tâm – sinh lý hay sự
phát triển về thể chất và tinh thần… và cụ thể hóa thông qua việc xác định độ tuổi
trong pháp luật của từng quốc gia. Bên cạnh đó, kể cả khái niệm về trẻ em và khái

niệm về người chưa thành niên đều giới hạn về độ tuổi là dưới 18 tuổi. Vì trong độ
tuổi này, con người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách và nhận thức về
hành vi của mình. Pháp luật quốc tế giới hạn ở độ tuổi dưới 18 tuổi do đã tính đến
sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, và phản ánh mục đích và tinh thần
tư pháp đối với người chưa thành niên. Đồng thời, còn đưa ra khả năng mở cửa cho
các quốc gia trên thế giới tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền thống…
của mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn.
Các quốc gia trên thế giới, tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội; truyền thống;
lịch sử cũng như chính sách phát triển và bảo vệ con người của quốc gia mình, mà
có thể đưa ra quy định về độ tuổi để xác định người chưa thành niên. Lấy độ tuổi đủ
18 tuổi để làm giới hạn phân biệt giữa người thành niên và người chưa thành niên là
một quy định phù hợp, vì những người trong độ tuổi chưa đủ 18 tuổi chưa phát triển
đầy đủ về thể chất, tâm lý, trí tuệ, và còn hạn chế về khả năng nhận thức về môi
trường sống… Nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có một cách hiểu chung
về khái niệm người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi.
1.1.1.2. Khái niệm về người chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam
Khái niệm người chưa thành niên là một khái niệm phổ biến được dùng trong
nhiều ngành khoa học, ở mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi ngành khoa học có
một khái niệm về người chưa thành niên khác nhau. Trong khoa học pháp lý, khái
niệm người chưa thành niên được sử dụng một cách rộng rãi, đó là những người
đang ở một độ tuổi nhất định. Cụ thể ở Việt Nam, khái niệm về người chưa thành
niên được đề cặp như sau:
+ Theo Hội kế hoạch hóa gia đình Việt Nam đã xác định “vị thành niên,
thanh niên” từ 10 – 24 tuổi. Trong đó, giai đoạn vị thành niên được chia làm hai giai
đoạn10:

9

Báo tiền phong, tuổi trẻ vị thành niên, Thái Châu, http: www.tienphong.vn [truy cập ngày 06/02/2012].


GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 6

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

 Giai đoạn đầu từ 10 – 14 tuổi.
 Giai đoạn sau từ 15 – 19 tuổi.
+ Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, Chương III: Cá nhân, Mục I:
Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân, Điều 18 quy định:
“người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám
tuổi là người chưa thành niên”. Theo quy định này, Pháp luật Dân sự đã quy định
rõ độ tuổi để phân biệt giữa người thành niên và người chưa thành niên, cụ thể:
người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người
thành niên. Trong pháp luật Dân sự, mục đích của việc xác định về người chưa
thành niên là để quy định cụ thể hành vi dân sự của các cá nhân này nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cũng như xác định trách nhiệm dân sự của họ. Vì ở độ tuổi dưới
18 tuổi người chưa thành niên chưa phát triển toàn diện về năng lực hành vi để tự
mình xác lập các giao dịch như người đã thành niên (ngoài các giao dịch phục vụ
sinh hoạt hằng ngày), họ chỉ xác lập được các giao dịch khi có người đại diện theo
pháp luật. Chẳng hạn, người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự, nên
mọi giao dịch phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện; người từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo
pháp luật đồng ý.
+ Theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Chương 10:

Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều 68 nêu rõ: “Người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần
chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này”. Theo quy định này,
chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách
nhiệm hình sự, còn người từ chưa đủ 14 tuổi trở xuống sẽ được xem là không có
năng lực trách nhiệm hình sự và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc xác
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam dựa trên
những khảo sát về tâm – sinh lý của người Việt Nam, đồng thời, xuất phát từ yêu
cầu của chính sách hình sự của Nhà nước ta và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm ở tuổi vị thành niên, chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Chương XXXII: Thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên, đề cặp đến hai nhóm: từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, và
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trong Tố tụng Hình sự chỉ quy định việc áp dụng
thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vì theo quy định của luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
10

Báo dân trí, tìm hiểu về độ tuổi của người chưa thành niên, www.dantri.com.vn., [truy cập ngày
09/2/2012].

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 7

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp


Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

sung năm 2009) thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên là
những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi11.
Ngoài ra, khái niệm về người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em theo
luật Việt Nam. Theo Điều 1, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004:
“trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”12. Từ khái niệm này, thì khái niệm về
người chưa thành niên rộng hơn khái niệm về trẻ em. Nghĩa là, người chưa thành
niên bao gồm cả những người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, còn những
người trên 16 tuổi thì không phải là trẻ em (bao gồm cả người từ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi).
Ở Việt Nam, khi xây dựng khái niệm về người chưa thành niên đã dựa trên
độ tuổi và đặc điểm về tâm – sinh lý của con người. Các văn bản pháp luật Việt
Nam đều quy định thống nhất về độ tuổi của người chưa thành niên là người dưới
18 tuổi. Trong độ tuổi này, người chưa thành niên là người đang trong giai đoạn
phát triển cả về nhân cách, trí lực và thể lực. Đặc điểm của lứa tuổi này, là phát triển
chưa đầy đủ về tâm – sinh lý, đang ở trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân
cách. Do đó, họ không có một nhân sinh quan và thế giới quan về cuộc sống như
người trưởng thành và chưa thể có những suy nghĩ chín chắn trong quyết định hình
vi, họ dễ bị lôi kéo, dễ bị dụ dỗ và chịu sự tác động xấu của điều kiện sống. Bên
cạnh đó, họ chưa có đầy đủ khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội
do hành vi phạm tội của mình. Tóm lại, khái niệm về người chưa thành niên theo
pháp luật Việt Nam là những người chưa đủ 18 tuổi.
Người chưa thành niên và người đã thành niên khác nhau về tâm – sinh lý,
khả năng nhận thức về pháp luật cũng như sự phát triển về thể chất và tinh thần.
Ranh giới về độ tuổi “ mười tám tuổi tròn” là sự ngăn cách và phân biệt giữa hai đối
tượng này. Có thể cho rằng, pháp luật Quốc tế đưa ra khái niệm về người chưa
thành niên cũng dựa vào độ tuổi “mười tám tuổi tròn” này. Khái niệm về người
chưa thành niên trong pháp luật Việt Nam phù hợp với khái niệm về người chưa
thành niên trong các văn bản pháp luật Quốc Tế. Việt Nam và các Quốc Gia trên

Thế Giới đều hướng tới xây dựng pháp luật về người chưa thành niên để bảo vệ
quyền và lợi ích của người chưa thành niên từ mọi góc độ; nhằm tạo điều kiện giáo
dục, giúp đỡ họ để họ sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội.

11

Điều 12, Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em được Quốc Hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2005.
12

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 8

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

1.1.2. Khái niệm bị can, bị cáo trong luật Tố tụng Hình sự Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm bị can
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003 thì: “Bị can là người
đã bị khởi tố về hình sự”. Theo quy định này, khi một người đã thực hiện (hoặc cho
là đã thực hiện) hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ, và có đủ các căn cứ để khởi tố hình sự thì Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền sẽ khởi tố về hình sự. Khi đó họ trở thành bị can.
Bị can tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can

sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và giai đoạn xét xử. Tư cách tố tụng
của bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình chỉ điều tra; VKS đình chỉ vụ án; Tòa án
đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án) đối với bị can; hoặc Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự (bị khởi tố bị
can), họ trở thành đối tượng buộc tội trong vụ án, nhưng điều đó không đồng nghĩa
với việc xác định họ là người có tội. Vì theo quy định tại Điều 72 Hiến pháp năm
1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 9 BLTTHS năm 2003 đều quy
định: “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều này có nghĩa, một người luôn được coi
là không có tội nếu chưa bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án và bản án đó chưa
có hiệu lực pháp luật. Các cơ quan tiến hành chỉ được phép tiến hành các biện pháp
tố tụng nhất định đối với họ để xác định sự thật của vụ án.
1.1.2.2. Khái niệm bị cáo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS năm 2003 thì: “bị cáo là người
đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, thấy rằng
có đủ chứng cứ để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do BLHS quy định thì đề
nghị VKS truy tố trước Tòa án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được
phân công Chủ tọa phiên tòa thấy rằng có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà
không phải trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, không có căn cứ đình chỉ hay
tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kể từ thời điểm này, tư
cách bị can của người đó mất đi và thay vào đó là tư cách của bị cáo.
Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị cáo sẽ
tham gia vào giai đoạn xét xử. Và tư cách bị cáo sẽ chấm dứt khi bản án hoặc quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Cũng như khái niệm bị can, khái niệm bị cáo
cũng là một khái niệm mang tính chất hình thức, căn cứ vào các văn kiện tố tụng
được áp dụng đối với người đó để xác định tư cách tố tụng của họ. Một người sẽ trở
thành bị cáo khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng cũng
có thể sai. Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nhất với khái niệm chủ thể của tội
phạm; và bị cáo cũng không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội
GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu


Trang 9

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp
luật.
1.1.2.3. Phân biệt bị can và bị cáo
Trong Tố tụng Hình sự, bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng có vị
trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Họ là người bị Cơ quan tiến hành tố
tụng nghi hoặc coi là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS
quy định là tội phạm. Tùy theo giai đoạn tố tụng khác nhau mà tên gọi cũng như địa
vị pháp lý của người họ khác nhau:
Bị can là đối tượng của giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và một phần của
giai đoạn xét xử sơ thẩm (giai đoạn chuẩn bị xét xử). Bị cáo là đối tượng của giai
đoạn xét xử vụ án.
Bị can tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị cáo tham gia
tố tụng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Bị can, bị cáo là những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, và đều bị tình
nghi là đã thực hiện một tội phạm. Nhưng bị cáo tham gia tố tụng trong một cơ chế
tố tụng hoàn chỉnh hơn bị can, đầy đủ những người tham gia tố tụng, các cơ quan,
người tiến hành tố tụng, với chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử; thực hiện các
quyền tố tụng của mình trong phiên tòa công khai và bình đẳng. Còn đối với bị can
trong một môi trường chỉ có người bị tình nghi đối diện với cơ quan THTT có thẩm
quyền (nhất là khi hỏi cung bị can), trường hợp cá biệt mới có người bào chữa, có

người chứng kiến.
Từ góc độ địa vị tố tụng, thì bị can, bị cáo là những người đang bị tình nghi
đã thực hiện một hành vi phạm tội bởi các cơ quan THTT có thẩm quyền. Do chính
thức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nên bị can, bị cáo có khả năng có thể bị áp
dụng những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm tìm ra sự thật của vụ án,
chứng minh có hay không có hành vi phạm tội và tội phạm. Khi đó, thì không thể
loại trừ khả năng quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo có thể bị xâm phạm
khi họ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng đó. Chẳng hạn như, họ bị xâm
phạm về quyền tự do dân chủ, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,…; và khả năng bị xâm phạm
đó có thể xuất phát từ phía các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình tiến
hành các biện pháp cưỡng chế tố tụng (như truy bức, dùng nhục hình, đưa ra các
quyết định trái pháp luật, áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng pháp
luật…). Đối với bị can thì khả năng bị xâm phạm về quyền và lợi ích cao hơn bị
cáo. Vì trong giai đoạn điều tra, CQĐT có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều
tra để thu thập các chứng cứ, tài liệu để tìm ra sự thật của vụ án, chứng minh có hay
không có hành vi phạm tội và tội phạm. Trong quá trình điều tra, thu thập các tài
GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 10

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

liệu, chứng cứ thì CQĐT có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với bị
can để giúp cho quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, tìm ra được sự thật

của vụ án. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng, CQĐT có những sai phạm khi áp
dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng đó, gây xâm phạm đến quyền và lợi ích của
bị can như: áp dụng sai biện pháp cưỡng chế, không kịp thời hủy bỏ biện pháp
cưỡng chế đó hay đưa ra các quyết định trái pháp luật,… Mặt khác, trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, tham gia vào giai đoạn này, chủ yếu chỉ có chủ thể tiến hành
hoạt động điều tra là cơ quan điều tra và người bị tình nghi là bị can, mặc dù có sự
tham gia của các chủ thể khác như sự giám sát của VKS và một số trường hợp cá
biệt trong hoạt động điều tra có sự tham gia của người bào chữa, người giám hộ,
người chứng kiến,… khi tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ CQĐT
cũng xảy ra những sai phạm như: trong quá trình lấy lời khai dùng nhục hình, truy
bức, mớm cung, ép bị can phải nhận tội,… Trong khi đó, tại giai đoạn xét xử thì có
sự tham gia của các bên chủ thể: bên buộc tội là người tiến hành tố tụng, bên bị
buộc tội là bị cáo, người bào chữa, người giám hộ,… và đây là phiên tòa công khai
còn có sự tham gia của công chúng, nên trong quá trình xét xử những sai phạm trái
pháp luật từ ý chí chủ quan của NTNT như đe dọa bức cung, dùng nhục hình, mua
chuộc nhận tội đối với bị cáo khó có khả năng xảy ra. Khi quyết định đưa vụ án ra
xét xử được đưa ra thì khi đó đã có đủ các tài liệu, chứng cứ nên không cần phải áp
dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng để thu thập tài liệu, chứng cứ xác định sự thật
của vụ án. Vì thế, bị cáo ít có khả năng bị xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp
hơn đối với bị can.
Trong quá trình giải quyết vụ án, mức độ tình nghi về vụ án đối với bị cáo
cao hơn bị can. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố của hoạt động tố
tụng. Trong các giai đoạn này, cơ quan điều tra chỉ đang trong quá trình thu thập tài
liệu, chứng cứ khi có đủ các căn cứ cho rằng một ai đó thực hiện hành vi phạm tội,
chứ chưa có đủ chứng cứ để khẳng định người đó đã phạm tội. Khi có đủ các căn cứ
để kết thúc giai đoạn này, chuyển sang giai đoạn tố tụng tiếp theo thì mức độ tình
nghi về hành vi phạm tội của một ai đó càng cao hơn, có đủ các tài liệu, chứng cứ
chứng minh hành vi phạm tội hơn. Bị cáo tham gia vào giai đoạn xét xử, là giai
đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Sau khi cơ quan điều tra
đã thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh về mức độ và hành vi phạm tội

của bị can và làm bản kết luận điều tra và đề nghị VKS truy tố, VKS làm quyết định
truy tố khi đã xem xét những tài liệu và chứng cứ đó. VKS ra quyết định truy tố
bằng bản cáo trạng, bản cáo trạng thể rõ tội danh và các chứng cứ chứng minh hành
vi phạm tội của bị can. Đến giai đoạn này, các chứng cứ, tài liệu của vụ án đã được
thu thập đầy đủ để chứng minh hành vi phạm tội của bị can. Đến giai đoạn xét xử,
các chứng cứ đã được sàng lọc rất kĩ qua hai giai đoạn tố tụng; các chứng cứ này, đã

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 11

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

được các cơ quan tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố trước đó đưa ra để
chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, và chỉ chuyển sang giai đoạn xét xử khi
các chứng cứ đã được thu thập đầy đủ và rõ ràng, càng thể hiện sự buộc tội của các
cơ quan này đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Còn giai đoạn xét xử là giai đoạn
đánh giá và kiểm tra lại các chứng cứ của các giai đoạn trước đó, ra bản án để định
tội danh cho bị cáo về hành vi phạm tội của mình khi có đủ các căn cứ.
Trong một vụ án hình sự, bị can có thể không phải trải qua tư cách của bị
cáo. Nhưng bị cáo phải trải qua tư cách của bị can. Trong giai đoạn điều ta, truy tố
và xét xử khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra; VKS ra quyết định đình chỉ vụ
án; Tòa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án) đối với bị can thì
quá trình giải quyết vụ án sẽ chấm dứt ở giai đoạn mà các quyết định đó được đưa
ra mà không chuyển sang giai đoạn tiếp theo, nghĩa là vụ án không được đưa ra xét

xử tại phiên tòa nên bị can không phải trải qua tư cách của bị cáo, bị can sẽ chấm
dứt tư cách bị can tại các giai đoạn mà các quyết định trên được đưa ra. Ngược lại,
bị cáo phải trải qua tư cách của bị can trong các giai đoạn trước giai đoạn xét xử.
Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì người xuất hiện trong phiên tòa với vị trí
người bị buộc tội gọi là bị cáo. Bị cáo là người mà xuất hiện trước đó với tên gọi là
bị can trong giai đoạn điều tra, truy tố, giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Vì
trong giai đoạn điều tra, truy tố thì người bị nghi hoặc cho là đã thực hiện hành vi
phạm tội được gọi là bị can. Khi chuyển sang giai đoạn xét xử (khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử) thì người gọi là bị can trong các giai đoạn điều tra, truy tố được
gọi là bị cáo. Khi giai đoạn xét xử diễn ra, thì các giai đoạn tố tụng trước đó cũng
phải được diễn ra liên tục và đúng theo trình tự, đồng nghĩa với việc bị cáo trong
giai đoạn xét xử phải là bị can trong giai đoạn điều tra, truy tố và giai đoạn chuẩn bị
xét xử.
1.1.3. Khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Khả năng nhận thức có ở mỗi con người từ khi mới sinh ra. Nó phát triển,
hoàn thiện theo sự phát triển của cấu tạo sinh học cơ thể con người qua quá trình lao
động và giáo dục trong xã hội. Ở độ tuổi khác nhau thì nhận thức của con người
cũng khác nhau, đến một độ tuổi nhất định trong đời sống của con người thì khả
năng nhận thức này mới được xem là đầy đủ. Người chưa thành niên là những
người đang trong giai đoạn phát triển hoàn thiện về nhận thức ấy. Khả năng nhận
thức về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như khả năng điều khiển
hành vi ở người chưa thành niên cũng thay đổi theo từng độ tuổi khác nhau. Vì vậy,
nhà nước ta đã quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với NCTN, theo đó họ
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình trong một số loại
tội phạm nhất định, phù hợp với khả năng nhận thức của mình. Cụ thể tại Điều 12
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định về độ tuổi chịu trách
GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 12


SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

nhiệm hình sự13: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Căn
cứ vào thực tiển đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm của các nước khác trong các công trình nghiên cứu, khảo sát về tâm lý, luật
hình sự của nước ta đã quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tuổi bắt đầu có
năng lực TNHS14 và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Cụ thể, tuổi 14 là tuổi bắt đầu
có năng lực TNHS và tuổi 16 là tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Những người trong
độ tuổi từ bắt đầu có năng lực TNHS đến tuổi có năng lực TNHS đầy đủ thì năng
lực TNHS của họ còn hạn chế, do vậy người trong độ tuổi này chỉ bị coi là có năng
lực TNHS trong những trường hợp phạm tội nhất định. Như vậy, thì NCTN từ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi là những người có năng lực TNHS chưa đầy đủ, NCTN từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực TNHS đầy đủ. Từ quy đinh về
độ tuổi chịu TNHS, có thể đưa ra khái niệm về bị can, bị cáo là NCTN trong từng
trường sau:
Bị can là NCTN là người chưa đủ 18 tuổi đã bị khởi tố về hình sự bằng quyết
định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền. Khi đưa ra quyết định khởi tố bị can
là NCTN cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố họ trong độ tuổi và loại tội phạm
được quy định trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Cụ thể trong
các trường hợp sau:
+ Bị can là NCTN từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi bị khởi tố về hình sự về
mọi tội phạm. Nghĩa là, họ phải chịu TNHS về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng cũng như tội đặc biệt nghiêm trọng15. Người từ

đủ 16 tuổi trở lên thì được xem là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, có
khả năng nhận thức về mức độ nguy hiểm cho xã hội về hành vi phạm tội của mình
nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm do mình gây ra.
+ Bị can là NCTN từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ bị khởi tố về hình sự
về tội đặc biệt nghiêm trọng, và tội cố ý trong trường hợp phạm tội rất nghiêm
trọng. Như vậy, trong độ tuổi này họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ít
nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và cũng như vô ý trong trường hợp rất nghiêm
trọng. Trong độ tuổi này, họ được coi là những người có năng lực TNHS chưa đầy
13

Quy định về độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12 BLHS năn 1999, phù hợp với yêu cầu của Công ước Quốc tế về
quyền trẻ em (đã được Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 20/11/1989, có hiệu lực ngày 2/9/1990); điểm a
khoản 3 Điều 40 đã quy định: “3. Các Quốc gia thành viên tìm cách xúc tiến việc hình thành các đạo luật,
các thủ tục, quy định các cơ quan có thẩm quyền và thể chế áp dụng riêng cho những trẻ em bị coi là, bị tố
cáo hay bị thừa nhận là đã vi phạm luật hình sự, đặc biệt là: a) Quy định một hạn tuổi tối thiểu mà những trẻ
em dưới hạn tuổi đó được coi như là không có khả năng vi phạm luật hình sự;”.
14
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng
điều khiển hành vi đó(khả năng kiềm chế hành vi đó và lựa chọn một hành vi khác. (Bài giảng Luật hình sự
1, TS Phạm Văn Beo, năm 2009).
15
Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 13

SVTH: Phan Thị Kim Loan



Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

đủ, còn hạn chế trong khả năng nhận thức về hành vi nguy hiểm cho xã hội và khả
năng kiềm chế hành vi đó, lựa chọn một hành vi khác của họ, nên họ chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định.
NCTN từ 14 tuổi trở xuống được xem là người không có năng lực trách
nhiệm hình sự vì tuổi của họ chưa đạt được độ tuổi bắt đầu có NLTNHS, nên không
phải chịu trách nhiệm hình sự về một tội phạm nào. Theo quy định tại khoản 3 Điều
107 BLTTHS năm 2003:“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến
tuổi chịu trách nhiệm hình sự” thì không được khởi tố vụ án hình sự. Do không đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan có thẩm quyền không khởi tố vụ án hình
sự đối với NCTN từ 14 tuổi trở xuống. Do đó, vụ án không được chuyển sang giai
đoạn điều tra tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nên không có quyết
định khởi tố bị can trong giai đoạn điều tra. Vì vậy, NCTN từ 14 tuổi trở xuống
không trở thành bị can trong vụ án hình sự.
Bị cáo là NCTN là người chưa đủ 18 tuổi đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử. Bị cáo trong giai đoạn xét xử, là người đã trải qua tư cách của bị can trong các
giai đoạn điều tra, truy tố và giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, từ giai đoạn truy tố chuyển sang giai đoạn xét xử chỉ là một thủ tục tố
tụng để thay đổi từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo của người đã thực hiện hành
vi phạm tội. Vì vậy, đối với NCTN khi họ trở thành bị cáo trong một vụ án hình sự
thì họ chỉ được đưa ra xét xử về một số loại tội phạm và trong những độ tuổi nhất
định. Cụ thể trong các trường hợp sau:
+ NCTN từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là bị cáo trong vụ án hình sự về
mọi loại tội phạm theo quy định của BLHS năm 1999.
+ Bị cáo là NCTN từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ được đưa ra xét xử
trong vụ án hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiên trọng.

NCTN từ 14 tuổi trở xuống do không phải là bị can trong vụ án hình sự nên
không trở thành bị cáo trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Nhà nước ta quy định về NCTN chỉ trở thành bị can, bị cáo trong một vụ án
hình sự khi họ đã đạt một độ tuổi nhất định và chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình về một số loại tội phạm nhất định. Quy định trên xuất phát từ đường lối
của Nhà nước ta về xử lí đối với NCTN phạm tội cũng như xuất phát từ cơ sở cho
rằng những người trong độ tuổi mà năng lực TNHS của họ chưa đầy đủ thì chỉ có
thể nhận thức được một số hành vi nguy hiểm nhất định cho xã hội.

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 14

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

1.2. Cơ sở lý luận về quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
1.2.1. Một số nguyên tắc cơ bản liên quan đến bảo vệ quyền của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên
Kể từ thời điểm phát hiện có dấu hiệu tội phạm, khởi tố vụ án hình sự đến
khi ra bản án là một khoảng thời gian tương đối dài. Trong khoảng thời gian đó, các
cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện hàng loạt hành vi tố tụng để đạt được
những yêu cầu, mục đích cụ thể. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
với những người tham gia tố tụng là mối quan hệ quyền uy. Nghĩa là, các quyết
định của CQĐT, VKS, Tòa án có tính chất bắt buộc đối với những người tham gia
tố tụng. Nhưng điều đó không có nghĩa là các cơ quan tiến hành tố tụng có thể hành

động tùy ý mà không bị ràng buộc bởi những quy định của pháp luật. Khi tham gia
vào quá trình tố tụng hình sự, những người tham gia tố tụng nhất là bị can, bị cáo có
thể bị hạn chế bởi một số quyền nhất định (bị bắt, bị tạm giam, bị hỏi cung, bị khám
xét…). Nhưng những hạn chế đó, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể áp dụng
một cách thiếu căn cứ mà chỉ được áp dụng trong những trường hợp pháp luật cho
phép. Vì vậy, mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo các nguyên tắc của
BLTTHS năm 2003 để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham
gia tố tụng đó khi tham gia tố tụng hình sự.
1.2.1.1. Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật
Đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được coi là một
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Điều 5 BLTTHS năm 2003 đã quy định:
“tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa
vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”. Quyền này xuất
phát từ quy định tại Điều 52 Hiếp pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001):
“mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Đây là một nguyên tắc đảm bảo thi
hành nghiêm chỉnh pháp luật đối với mọi công dân, không phân biệt nam nữ, dân
tộc, tính ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội… Nhà nước ta phải đảm bảo
cho công dân thực hiện các quyền và thực hiện những nghĩa vụ do luật quy định.
Mọi công dân dều bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sự được hiểu
là khi một người đã phạm tội và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) thì không phân biệt họ là ai, dân tộc nào, có tín ngưỡng hay không, địa vị xã
hội như thế nào đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Điều đó cũng có
nghĩa là, trong khung cảnh của vụ án hình sự, họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo
tội danh tương ứng với hành vi phạm tội của họ đã thực hiện trong thực tế.

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 15


SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật còn thể hiện ở chỗ: quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với mọi công dân đều được tiến hành dựa trên
những nguyên tắc và theo một trình tự, thủ tục thống nhất do BLHS quy định,
không có sự ưu tiên hay ngược lại, hạn chế đối với bất kỳ bị can, bị cáo nào và lý do
giới tính, nhân thân, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của họ.
Và không phân biệt loại tội phạm nào, do ai thực hiện, địa vị xã hội của họ như thế
nào đều phải trải qua tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
trong một quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Người tham gia tố tụng (không chỉ riêng bị can, bị cáo) phụ thuộc vào địa vị
pháp lý của họ trong tố tụng hình sự đều được hưởng những quyền và thực hiện
những nghĩa vụ ngang nhau không có một ngoại lệ nào vì lý do giới tính, dân tộc,
tôn giáo, hay địa vị xã hội của họ. Chẳng hạn, bất cứ người nào tham gia TTHS với
tư cách là bị can (hay bị cáo) thì họ đều được hưởng những quyền được quy định tại
Điều 49 (hay Điều 50) BLTTHS năm 2003.
Khi người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội và đã đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS thì không được phân biệt là nam hay
nữ, họ theo dân tộc nào, có theo tín ngưỡng hay không, và địa vị xã hội của họ…thì
đều phải bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến giai đoạn xét xử, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải luôn đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật đối với bị can, bị
cáo là NCTN, không được có sự phân biệt về giới tính, dân tộc, hay họ sống trong
một gia đình có địa vị xã hội như thế nào…mà có sự ưu tiên hay hạn chế đối với bị

can, bị cáo là NCTN này với bị can, bị cáo là NCTN khác. Khi giải quyết một vụ án
hình sự thì phải tiến hành đầy đủ, theo trình tự các hoạt động tố tụng từ khởi tố, điều
tra, truy tố đến xét xử không được ưu tiên cho bị can, bị cáo là NCTN nào mà bỏ
qua bất cứ một hoạt động tố tụng nào, phải đảm bảo tất cả bị can, bị cáo là NCTN
đều phải tiến hành đầy đủ các hoạt động tố tụng. Nếu không đảm bảo nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật giữa các bị can, bị cáo là NCTN thì dẫn đến việc ảnh
hưởng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chẳng hạn, khi xét thấy cần thiết
phải áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với bị can, bị cáo là NCTN thì phải
tiến hành áp dụng, không được có sự phân biệt, ưu tiên nào đối với họ mà không áp
dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng đó, hoặc áp dụng không đúng biện pháp cưỡng
chế. Hay, bất kỳ NCTN nào trở thành bị can, bị cáo trong vụ án hình sự đều được
hưởng những quyền như nhau không có sự phân biệt hay ngoại lệ nào về dân tộc,
giới tính, hay nhân thân,… của họ mà hạn chế không cho họ được hưởng đầy đủ các
quyền được pháp luật quy định, hay cho người này hưởng nhiều quyền hơn người
kia. Như vậy, làm cho quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến công tác
thu thập chứng cứ, làm mất tính khách quan của chứng cứ do thời gian thu thập kéo

GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 16

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

dài, ảnh hưởng đến việc chứng minh hành vi của họ có phải là hành vi phạm tội hay
không, và do không được hưởng đầy đủ các quyền làm cho bị can, bị cáo là NCTN

không sử dụng được các quyền bị hạn chế đó để tự bảo vệ mình khỏi sự buộc tội
của cơ quan có thẩm quyền, làm cho vụ án trở nên không khách quan, gây oan cho
người vô tội. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm
quyền phải đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật cho tất cả các bị can, bị cáo là
NCTN.
1.2.1.2. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đã được BLTTHS năm
2003 ghi nhận tại Điều 4: “khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã
áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm
pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân là một nguyên tắc trong TTHS của nhà nước ta, đáp ứng yêu cầu bảo
đảm đầy đủ các quyền dân chủ cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định.
Tại chương V Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận những
quyền cơ bản của công dân, cụ thể một số quyền như : quyền bình đẳng trước pháp
luật (Điều 52); quyền tham gia và quản lý xã hội (Điều 53); quyền bầu cử, ứng cử
(Điều 54); quyền lao động (Điều 55); quyền tự do kinh doanh (Điều 57); quyền học
tập (Điều 59); quyền nghiên cứu khoa học (Điều 60); quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, hội họp, lập hội (Điều 69);…
Trong các giai đoạn TTHS, CQĐT, VKS, Tóa án có quyền áp dụng những
biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với bị can, bị cáo (như áp dụng biện pháp ngăn
chặn, hoặc khám xét, thu giữ, kê biên tài sản, cấm đi khỏi nơi cư trú…); và có
quyền hạn chế một số quyền của họ nhưng việc áp dụng những biện pháp cưỡng
chế tố tụng chỉ được coi là cần thiết, là hợp lý khi điều đó xuất phát từ yêu cầu của
thực tế điều tra, giải quyết vụ án. Việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế đó phải
theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng những biện pháp đó trong những tình
huống tố tụng cụ thể được coi là giải pháp cần thiết đảm bảo cho quá trình này đạt

được mục đích của mình và các cơ quan tiến hành tố tụng không còn sự lựa chọn
nào khác. Khi sự cần thiết đó không còn nữa hoặc khi thấy việc áp dụng những biện
pháp đó là trái với quy định của pháp luật thì các cơ quan này phải kịp thời thay đổi
hoặc hủy bỏ những biện pháp đã áp dụng. Việc kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ những
biện pháp tố tụng khi nó không còn cần thiết hoặc vi phạm pháp luật nhằm bảo về
các quyền cơ bản của công dân khỏi sự hạn chế hoặc bị xâm phạm trái pháp luật.
GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 17

SVTH: Phan Thị Kim Loan


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

Khi tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến
hành tố tụng cần phải đối xử đối với bị can, bị cáo như một công dân bình thường
trong xã hội vì họ chưa phải là tội phạm bị kết án theo bản án của Tòa án có hiệu
lực pháp luật, họ chỉ đang là người bị nghi hoặc cho là đã thực hiện hành vi phạm
tội theo quy định của BLHS. Đồng thời, nghiêm cấm mọi hành vi trái pháp luật như
bức cung, nhục hình, hay biện pháp trái pháp luật khác để bắt bị can, bị cáo phải
nhận tội…
Bị can, bị cáo là NCTN là người đã thực hiện hành vi phạm tội và bị các cơ
quan cơ thẩm quyền buộc tội về hành vi phạm tội đó, chứ họ không phải là tội phạm
vì chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án. Vì vậy, khi tiến hành các hoạt động tố
tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền phải đối xử với họ như một công dân bình
thường, phải tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản khác của một công dân: quyền tự
do ngôn luận, quyền lao động, quyền học tập…không được hạn chế bất kỳ một

quyền cơ bản nào đối với họ. Đối với bị can, bị cáo là NCTN khi muốn áp dụng
biện pháp ngăn chặn nào thì phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ mang tính dự
báo về khả năng bị can, bị cáo là NCTN thực hiện hành vi cản trở điều tra, truy tố,
xét xử, tiếp tục phạm tội. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn phải dựa vào một trong
những chứng cứ nếu trên chứ không phải bất kỳ trường hợp nào cũng điều áp dụng
biện pháp ngăn chặn, và việc có hay không có biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện
pháp ngăn chặn nào tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, cũng như
nhân thân của bị can, bị cáo là NCTN. Nếu không đảm bảo nguyên tắc này, thì các
cơ quan có thẩm quyền sẽ vi phạm các quyền cơ bản của công dân của bị can, bị
cáo là NCTN đã được Hiến pháp quy định, những biện biện pháp tố tụng đã áp
dụng có thể trái quy định của pháp luật (áp dụng sai đối tượng, sai biện pháp tố
tụng, không đảm bảo các yêu cầu của pháp luật) ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Như vậy, sẽ làm suy giảm uy tín của Nhà nước ta và làm giảm sút
lòng tin của bị can, bị cáo là NCTN đối với những người có thẩm quyền tố tụng
trong vụ án hình sự. Bị can, bị cáo là NCTN là những người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất và tình thần, và chưa có hiểu biết về pháp luật như người đã thành niên;
nên khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự họ chỉ có thể dựa vào các cơ quan tố
tụng giúp họ tìm ra các chứng cứ, tài liệu để làm sáng tỏ vụ án, chứng minh họ vô
tội.
1.2.1.3. Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong quyền tự do
cá nhân quan trọng của công dân, đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001) quy định tại Điều 71: “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Việc
bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cũng đã được BLTTHS
GVHD: Th.S. Mạc Giáng Châu

Trang 18

SVTH: Phan Thị Kim Loan



×