Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.34 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Vũ Thị Hải Yến. Kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính trung thực, chính xác và tin cậy.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này, kính đề nghị Hội đồng bảo vệ Luận văn thạc
sỹ Trường Đại học Luật Hà Nội xem xét, cho phép tôi được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH
CHÍNH……………………………………………………………………………...7
1.1. Tổng quan về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu……………..…7
1.1.1. Khái quát về nhãn hiệu…………………………………..……….................7
1.1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu……………………...…………………………………….....7
1.1.1.2. Điều kiện được bảo hộ đối với nhãn hiệu……………………………………….8
1.1.1.3. Các loại nhãn hiệu……………………………………………………….……….10
1.1.2. Khái quát về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu………….….11
1.1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu…………………….11
1.1.2.2. Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu………………13
1.1.2.3. Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu………………...……..13
1.1.2.4. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu………………..……14
1.2. Khái quát về thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng
biện pháp hành chính………………………………………………………...…..16
1.2.1. Khái niệm và các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp………..…16
1.2.1.1. Khái niệm thực thi quyền sở hữu công nghiệp…………………………...…...16
1.2.1.2. Các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp………………...………...17
1.2.2. Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp
hành chính......................................................................................................................20


1.2.3. Vai trò của biện pháp hành chính trong thực thi quyền sở hữu công

nghiệp đối với nhãn hiệu………………………………………………………..22
Chương 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH……...25
2.1. Cơ sở pháp lý về thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
bằng biện pháp hành chính………………………………………………………25
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện áp dụng biện pháp hành
chính

khi

thực

thi

quyền

sở

hữu

công

nghiệp

đối

với

nhãn


hiệu……………………………………………………...…………….………..….26
2.3. Quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính………………………..….....32
2.4. Về nội dung của biện pháp hành chính…………………………..…….…...35
2.5. Quy định về thủ tục xử phạt hành chính…………………………………...45
CHƯƠNG 3. TÌNH HÌNH THỰC THI QUYỀN SHCN ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH………………………………..…..53
3.1. Tình hình thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện
pháp hành chính……………………………………………..………………........53
3.1.1. Tổng quan tình hình thực thi……………………..…………………...…..53
3.1.2. Phân tích một số vụ việc…………………………………………………...57
3.1.2.1. Vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
SEFTRA……………..........................................................................................……..58
3.1.2.2. Vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
“AQUAFINA”.………………………………………………………………..…………….61


3.1.2.3. Vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu DKSH…...…..63
3.1.3. Đánh giá hiệu quả thực thi……………………………………..…...……..66
3.1.3.1. Những kết quả đạt được……………………………………………...……...…..66
3.1.3.2. Những mặt hạn chế………………………………………………………….……66
3.1.3.3. Nguyên nhân………………………………………………………………………67
3.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHCN đối với nhãn
hiệu bằng biện pháp hành chính………………………………............................67
3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về thực thi quyền…………………68
3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHCN đối với nhãn
hiệu bằng biện pháp hành chính…………………………...…………………….74
3.2.2.1. Giải pháp về năng lực cơ quan thực thi và cán bộ thực thi…..……………..74
3.2.2.2. Giải pháp về sự phối hợp của các cơ quan thực thi……………………..…...75

3.2.2.3. Giải pháp nâng cao nhận thức của người dân và sự phối hợp của chủ thể
quyền…………………………………………………………………………………………76
3.2.2.4. Giải pháp về hợp tác quốc tế……………………………...…………….………77
KẾT LUẬN………………………………………………………….….................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………….…………..................79


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT:
Công ước Paris: Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Hiệp định TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của
quyền Sở hữu trí tuệ
Luật SHTT: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
SHTT: Sở hữu trí tuệ
SHCN: Sở hữu công nghiệp
WTO: Tổ chức Thương mại thế giới


1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề thực thi quyền sở hữu công nghiệp
(SHCN) ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính
sách. Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ việc thực thi có hiệu quả quyền SHCN sẽ
góp phần tăng cường đầu tư và thương mại giữa Việt Nam với các nước, đây cũng
là một nhân tố quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thực thi
quyền SHCN nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ thể quyền SHCN luôn là trách nhiệm
nặng nề của pháp luật mỗi quốc gia cũng như hệ thống pháp luật quốc tế.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu khi bước vào giai đoạn phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề bảo hộ quyền SHCN đã

được Nhà nước ta chú trọng quan tâm thông qua việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh về lĩnh vực này. Trong nền kinh tế thị trường với sự
tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, bảo hộ quyền SHCN, đặc biệt là đối với
nhãn hiệu có ý nghĩa rất lớn đối với sự thịnh vượng của nền kinh tế. Một nhãn hiệu
mạnh có thể bảo đảm mức độ an toàn lâu dài, tốc độ phát triển lớn, với tỷ suất lợi
nhuận cao cho doanh nghiệp cũng như cho xã hội. Sẽ rất dễ dàng tìm thấy các thông
tin lên quan đến những nhãn hiệu nổi tiếng mà nhắc tới nó người ta nghĩ ngay tới
quốc gia đang có các nhãn hiệu đó. Như nói đến nước Mỹ, người ta nghĩ tới Coca
Cola, Microsoft, Google, Apple…, nước Pháp là Hermes, Chanel, Louis Vuitton...,
Nhật Bản là Honda, Sony, Toyota..., Hàn Quốc là Samsung, Hyundai..., Đức là
BMW, Montblanc, Thụy sỹ là Rolex hay Anh là Rolls Royce. Độ bao phủ của các
nhãn hiệu này đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, trở thành biểu tượng cho sự lớn
mạnh của nền kinh tế1.
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật SHTT)
đã quy định cụ thể các biện pháp để bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu khi có
hành vi xâm phạm xảy ra, bao gồm: biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện
pháp hình sự. Các biện pháp này tạo thành một hệ thống công cụ pháp lý bảo vệ
1

ThS Hà Thị Nguyệt Thu, Bảo hộ quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong kinh tế thị trường, Tạp chí khoa học
Việt Nam Trực tuyến, o/index.php/LLCT/article/view/13388/12276


2

quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Các hành vi xâm phạm quyền có bản chất là xâm
phạm tài sản của chủ sở hữu nhưng cũng có thể còn gây mất trật tự kinh doanh,
làm ảnh hưởng đến các chủ thể tham gia kinh doanh, ảnh hưởng đến người tiêu
dùng và bị coi là vi phạm các quy định về trật tự quản lý kinh tế của nhà nước. Vì
vậy, cả biện pháp dân sự lẫn biện pháp hành chính hoặc hình sự đều có thể bị áp

dụng. Ở đa số các nước, trong xử lý xâm phạm nhãn hiệu, biện pháp dân sự được
sử dụng là chủ yếu, các bên thường mang vụ việc tới tòa yêu cầu phân xử. Những
trường hợp nghiêm trọng có thể bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, ở Việt Nam, biện pháp
hành chính dường như được sử dụng phổ biến hơn cả. Điều đó được lý giải bởi ưu
thế thủ tục đơn giản, xử lý nhanh chóng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của chủ thể
quyền SHCN, đảm bảo không chỉ có tác dụng ngăn chặn, mà còn có tác dụng phòng
ngừa, răn đe qua việc trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền.
Như vậy, nhãn hiệu đã được nhà nước quan tâm thiết lập cơ chế bảo hộ đầy
đủ và ngang tầm với nhiều nước trên thế giới. Nhưng trong thực tế, việc thực thi
quyền SHCN đối với nhãn hiệu còn nhiều hạn chế, tình hình xâm phạm quyền
SHCN, đặc biệt là với nhãn hiệu ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Hầu như
mọi sản phẩm hàng hóa đều có hàng giả mạo nhãn hiệu, hàng chứa yếu tố xâm
phạm quyền đối với nhãn hiệu vẫn tràn lan. Xuất phát từ các lý do trên, việc lựa
chọn đề tài “Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện
pháp hành chính” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, thực thi quyền SHCN bằng biện pháp hành chính là
vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm từ chủ thể quyền SHCN cũng như các nhà
nghiên cứu khoa học. Bởi lẽ, biện pháp hành chính thể hiện nhiều điểm ưu việt hơn
so với các biện pháp thực thi quyền SHCN khác. Trong thời gian qua đã có một số
công trình nghiên cứu liên quan đến nhãn hiệu hoặc thực thi quyền SHCN bằng
biện pháp hành chính như: “Nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu công nghiệp
bằng biện pháp hành chính” của tác giả Trần Minh Dũng, Luận văn thạc sỹ khoa
học (2004), “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt


3

Nam” của tác giả Nguyễn Văn Luật, Luận án tiến sỹ luật học (2005), “Quyền của
chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” của tác

giả Đinh Đồng Vang, Luận văn thạc sỹ luật học (2013).
Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu việc thực thi quyền
SHCN bằng biện pháp hành chính đối với đối tượng cụ thể của quyền SHCN là
nhãn hiệu. Theo tác giả các công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu về
mặt lý luận và những quy định của pháp luật về nhãn hiệu, thực thi quyền SHCN
bằng biện pháp hành chính nói chung, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu
về các quy định của pháp luật cũng như tình hình thực thi quyền SHCN bằng biện
pháp hành chính đối với đối tượng cụ thể là nhãn hiệu. Do đó, việc lựa chọn nghiên
cứu Đề tài trên là độc lập và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước
đó.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi Luận văn, tác giả không nghiên cứu sâu đối với các vấn đề lý
luận chung về nhãn hiệu, quyền SHCN, các biện pháp thực thi quyền SHCN mà tập
trung nghiên cứu về vấn đề thực thi quyền SHCN bằng biện pháp hành chính đối
với nhãn hiệu. Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra đối với đề tài nghiên cứu, tác giả
nghiên cứu khái quát các vấn đề lý luận liên quan đến nhãn hiệu và quyền SHCN
đối với nhãn hiệu. Trên cơ sở phân tích các biện pháp thực thi quyền SHCN tác giả
chỉ ra đặc trưng và vai trò của biện pháp hành chính trong việc thực thi quyền
SHCN mà cụ thể là đối với nhãn hiệu. Một số quy định của các Điều ước quốc tế
hoặc pháp luật các quốc gia khác về các vấn đề liên quan đến đề tài chỉ được đưa ra
nhằm mục đích đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật trong nước chứ
không nhằm mục đích nghiên cứu chuyên sâu.
Vì đây là một công trình nghiên cứu luật học, hoạt động thực thi quyền SHCN
đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính diễn ra tại các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, do đó phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật. Vì vậy tác giả sẽ
nêu, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam (tại Chương 2) về thực thi
quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính (điều kiện áp dụng,


4


thẩm quyền, thủ tục, nội dung). Việc phân tích các quy định của pháp luật làm cơ sở
để tác giả tập trung nghiên cứu, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định của
pháp luật trong việc thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành
chính tại các cơ quan thực thi. Các thông tin, số liệu liên quan đến hoạt động thực
thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính được tổng hợp, thống
kê trong 02 năm gần đây (2013 và 2014). Bên cạnh đó, tác giả cũng nghiên cứu,
phân tích một số vụ việc tiêu biểu về nhãn hiệu được dư luận quan tâm trong thời
gian qua. Thông qua việc nghiên cứu tình hình thực thi tại một số cơ quan có thẩm
quyền, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền
SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học
truyền thống như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương
pháp thống kê và phân tích số liệu, phương pháp case study (nghiên cứu vụ việc
thực tế).
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích các vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật Việt Nam về thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu
bằng biện pháp hành chính, tổng hợp những yếu tố, sự kiện liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Từ đó tác giả tìm ra mối liên hệ từ quy định của pháp luật đến thực tiễn
thực hiện tại các cơ quan thực thi, đồng thời xác định và đưa ra các đánh giá kết
luận về vấn đề nghiên cứu trên cơ sở các nội dung đã phân tích. Phương pháp so
sánh được sử dụng trong việc so sánh pháp luật trong nước với một số quy định
trong các Điều ước quốc tế và pháp luật các quốc gia khác để phát hiện những điểm
giống và khác nhau giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, đồng thời so sánh
kết quả thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu so với các đối tượng khác của
quyền SHCN.
Phương pháp thống kê và phân tích số liệu được sử dụng để tổng hợp thông tin
về số vụ việc xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu được các cơ quan có thẩm



5

quyền phát hiện, xử lý, từ đó phát hiện sự biến đổi trong công tác thực thi quyền
SHCN đối với nhãn hiệu tại đơn vị qua các năm.
Phương pháp case study (nghiên cứu vụ việc thực tế) được sử dụng để nghiên
cứu một cách cụ thể, chi tiết việc áp dụng các quy định của pháp luật trong việc
thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính tại các cơ quan
có thẩm quyền. Từ đó, tác giả phân tích, nhận xét, đánh giá cách giải quyết vụ việc
của các cơ quan thực thi, đồng thời tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong việc
áp dụng quy định của pháp luật (nếu có) đối với từng vụ việc.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật về thực thi quyền SHCN đối với
nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính, Luận văn làm rõ thực trạng thực thi quyền
SHCN đối với nhãn hiệu tại các cơ quan thực thi. Đồng thời, đề xuất một số kiến
nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề nghiên cứu cũng như một số giải
pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp
hành chính.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả phải hoàn thành một số
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về thực thi quyền SHCN đối với
nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính.
- Nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về thực thi quyền
SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính.
- Phân tích tình hình thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp
hành chính từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền
SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn được kết cấu thành ba Chương như sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu
bằng biện pháp hành chính.


6

Chương 2. Pháp luật Việt Nam về thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu
bằng biện pháp hành chính.
Chương 3. Tình hình thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp
hành chính và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHCN đối với
nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính.


7

Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH
1.1. Tổng quan về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.1.1. Khái quát về nhãn hiệu
1.1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Việt Nam là thành viên của nhiều thỏa thuận quốc tế song phương và đa
phương điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu , bao gồm Công ước Paris về
bảo hộ sở hữu công nghiệp (Công ước Paris), Hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế
(Thỏa ước Madrit, Nghị địng thư Madrit) và Hiệp định về các khía cạnh liên quan
tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS). Tại Công ước Paris và
Thỏa ước Madrid chưa đưa ra khái niệm về nhãn hiệu mà chỉ đưa ra những quy
định liên quan đến nhãn hiệu. Công ước Paris quy định về việc bảo hộ các đối
tượng của SHCN trong đó có nhãn hiệu và Thỏa ước Madrit quy định về đăng ký
quốc tế đối với nhãn hiệu hàng hóa. Chỉ đến khi Hiệp định TRIPS được ban hành,

khái niệm nhãn hiệu mới được quy định một cách chi tiết và cụ thể. Khoản 1 Điều
15 Hiệp trịnh TRIPS quy định về nhãn hiệu như sau: “Bất kì một dấu hiệu hoặc tổ
hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh
nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn
hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các
yếu tố hình học và tổ hợp các màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó
phải có khả năng đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”. Tại Việt Nam khái niệm nhãn
hiệu hàng hóa lần đầu tiên được nhắc đến tại Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995,
theo đó “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch
vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có
thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc
nhiều mầu sắc”. Như vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995, những dấu
hiệu của nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh, hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó.
Quy định này cho thấy phạm vi những dấu hiệu có thể được đăng ký làm nhãn hiệu


8

theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 hẹp hơn so với Hiệp định TRIPS. Cách
sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” trong Bộ luật dân sự 1995 chưa bao quát
được cả loại nhãn hiệu dùng cho dịch vụ. Khái niệm này cũng chưa khái quát được
chức năng của nhãn hiệu khi quy định nhãn hiệu “dùng để phân biệt những hàng
hóa, dịch vụ cùng loại”2.
Để trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam
đã hoàn chỉnh hệ thống pháp luật quốc gia bảo đảm đáp ứng các yêu cầu của Hiệp
định TRIPS. Hiện nay, khái niệm nhãn hiệu được quy định tại Khoản 16 Điều 4
Luật SHTT, cụ thể “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Như vậy thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” quy
định tại Bộ luật dân sự năm 1995 đã được thay bằng thuật ngữ “nhãn hiệu” tại Luật
SHTT. Quy định này có tính khái quát hơn so với quy định của Bộ luật dân sự năm

1995, xác định chức năng của nhãn hiệu là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại
hoặc khác loại của các tổ chức, cá nhân khác nhau đồng thời chưa đưa ra giới hạn
các dấu hiệu có thể được đăng ký làm nhãn hiệu trong khái niệm. Theo đó, chúng ta
có thể hiểu là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá dịch vụ của tổ
chức hay cá nhân khác nhau thì đều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu. Việc quy
định về nhãn hiệu tại Luật SHTT như hiện nay bảo đảm có những điểm tương đồng
so với quy định về nhãn hiệu tại Hiệp định TRIPS.
1.1.1.2. Điều kiện được bảo hộ đối với nhãn hiệu
Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu là những chuẩn mực do pháp luật quy định nhằm
xem xét khả năng xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Quyền SHCN đối với
nhãn hiệu thường chỉ được xác lập trên cơ sở chủ sở hữu đăng ký nhãn hiệu với cơ
quan có thẩm quyền của một quốc gia hay khu vực (ví dụ nhãn hiệu đăng ký vào
Cộng đồng Châu Âu). Đây là quy định phổ quát trong việc bảo hộ nhãn hiệu trên
toàn thế giới. Tuy nhiên, để được cơ quan có thẩm quyền của một vùng lãnh thổ,
quốc gia chấp nhận bảo hộ, bản thân nhãn hiệu phải đáp ứng được những điều kiện
nhất định do pháp luật của vùng lãnh thổ, quốc gia đó quy định. Pháp luật quốc tế
2

Th.S Vũ Thị Hải Yến, (2003), Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong Bộ luật dân sự 1995, Tạp chí Luật học
(số 3 năm 2003).


9

cũng như pháp luật sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam đều có quy định về các điều
kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu. Theo quy định của Luật SHTT Việt Nam, để được
bảo hộ là nhãn hiệu, các dấu hiệu phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định,
cụ thể là:
Thứ nhất: là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ,
hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một

hoặc nhiều màu sắc3.
Thứ hai: có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác4. Cụ thể, nhãn hiệu được coi là có khả năng
phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ
hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không
thuộc các trường hợp bị coi là nhãn hiệu không có khả năng phân biệt quy định
khoản 2 Điều 74 Luật SHTT5. Việc đánh giá khả năng phân biệt của một dấu hiệu
được xem xét cụ thể tại Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ
Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật SHTT về SHCN, được sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2011 (sau đây gọi tắt là
Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN). Theo đó Điều 39, Mục 5, Chương I của Thông
tư số 01/2007/TT-BKHCN xác định các trường hợp để đánh giá tính phân biệt của
dấu hiệu theo các nhóm: dấu hiệu dạng chữ viết, chữ số (dấu hiệu chữ), dấu hiệu
dạng hình vẽ, hình ảnh (dấu hiệu hình), dấu hiệu kết hợp giữa dấu hiệu chữ và dấu
hiệu hình. Bên cạnh đó, Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN cũng quy định rõ các
trường hợp ngoại lệ được áp dụng khi đánh giá khả năng phân biệt của dấu hiệu chữ
và dấu hiệu hình quy định tại các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 74 Luật SHTT. Bên
cạnh các quy định về tính tự phân biệt của dấu hiệu, pháp luật còn xem xét khả năng
phân biệt của dấu hiệu khi đối chiếu với các dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu và
các yếu tố khác như chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp của người khác được bảo
3

Khoản 1, Điều 72 Luật SHTT.
Khoản 2, Điều 72 Luật SHTT.
5
Khoản 1, Điều 74 Luật SHTT.
4



10

hộ, tên thương mại đang được sử dụng nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây
nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba: không thuộc các trường hợp không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn
hiệu quy định tại Điều 73 Luật SHTT và điểm b, khoản 2, Điều 39, Mục 5, Chương
I của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN.
1.1.1.3. Các loại nhãn hiệu
 Dựa vào dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu, nhãn hiệu có thể được chia
thành 3 loại, gồm có: (i) dấu hiệu chữ bao gồm chữ cái, từ, cụm từ; (ii) dấu hiệu
hình bao gồm hình vẽ, ảnh chụp, biểu tượng, hình khối; và (iii) dấu hiệu kết hợp
giữa từ ngữ và hình ảnh.
 Dựa vào đối tượng sử dụng của nhãn hiệu, có thể phân thành hai loại:
(i) Nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của những cơ sở sản
xuất khác nhau.
(ii) Nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu phân biệt dịch vụ của doanh nghiệp này
cung cấp với dịch vụ của doanh nghiệp khác.
 Bên cạnh đó, dựa vào chức năng, chủ thể sử dụng nhãn hiệu hoặc mức độ
nhận biết rộng rãi của nhãn hiệu đối với người tiêu dùng, pháp luật SHTT thế giới
và Việt Nam đều có quy định về một số loại nhãn hiệu đặc biệt:
(i) Nhãn hiệu tập thể: “Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng
hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng
hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”6. Nhãn
hiệu tập thể là nhãn hiệu của một tập thể các nhà sản xuất (thường là một hiệp hội,
hợp tác xã, tổng công ty..), trong đó tổ chức tập thể xây dựng quy chế chung về việc
sử dụng nhãn hiệu tập thể và các thành viên có quyền sử dụng nhãn hiệu nếu hàng
hóa, dịch vụ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn đó.

6


Khoản 17, điều 4, Luật SHTT.


11

(ii) Nhãn hiệu chứng nhận: “Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở
hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu,
cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác,
độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu”7. Nhãn
hiệu chứng nhận là nhãn hiệu do các tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận
chất lượng, đặc tính của hàng hóa/ dịch vụ đăng ký, sau đó tổ chức này có quyền
cấp phép sử dụng cho bất kỳ chủ thể sản xuất kinh doanh nào nếu hàng hóa/dịch vụ
của họ đáp ứng đủ các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận đặt ra. Sự
khác biệt giữa nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu tập thể chỉ có
thể do thành viên của tổ chức tập thể đó sử dụng, trong khi nhãn hiệu chứng nhận
có thể được sử dụng bởi bất kỳ ai có sản phẩm/dịch vụ đáp ứng được tiêu chuẩn
định sẵn. Tại Việt Nam, có thể kể đến một số nhãn hiệu chứng nhận uy tín được
nhiều người tiêu dùng biết đến như nhãn hiệu “Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao Do
Người Tiêu Dùng Bình Chọn, hình”, “Rau DA LAT VEGETABLE, hình”…
(iii) Nhãn hiệu nổi tiếng: là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên lãnh thổ Việt Nam. Khác với nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu nổi tiếng có cơ
chế bảo hộ riêng. Quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở thực
tiễn sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Điều 75 Luật SHTT quy định
tiêu chí để xác định nhãn hiệu nổi tiếng là: số lượng người tiêu dùng liên quan đã
biết đến nhãn hiệu; phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được
lưu hành; doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu;
thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang
nhãn hiệu; số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu; số lượng quốc gia công nhận nhãn
hiệu là nổi tiếng; giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp

vốn đầu tư của nhãn hiệu.
1.1.2. Khái quát về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
7

Khoản 18, điều 4, Luật SHTT.


12

Thuật ngữ quyền SHCN được ghi nhận lần đầu tiên tại Pháp lệnh Bảo hộ
quyền SHCN năm 1989. Tuy nhiên tại văn bản này không quy định thế nào là quyền
SHCN. Hiện nay, khái niệm quyền SHCN có thể được tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau:
- Hiểu theo nghĩa khách quan: Quyền SHCN là một chế định pháp luật bao
gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáng tạo, sử dụng,
định đoạt các sản phẩm do lao động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp. Cách hiểu
này chủ yếu đề cập và nhấn mạnh đến khía cạnh pháp lý của quyền SHCN.
- Hiểu theo nghĩa chủ quan: Quyền SHCN là một quyền dân sự cụ thể của
chủ thể đối với các đối tượng quyền SHCN. Cách hiểu này hiện nay là phổ biến bởi
nó phản ảnh bản chất hành vi của chủ thể quyền. Theo cách hiểu này, khoản 4, Điều
4 Luật SHTT quy định: “Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.
Nhãn hiệu với tư cách là một đối tượng của quyền SHCN là một loại tài sản
đặc biệt - tài sản vô hình mà khả năng chiếm hữu nhãn hiệu là “bất khả thi”. Giá trị
của nhãn hiệu nằm ở khả năng khai thác công dụng của nhãn hiệu, hay nói cách
khác chính là khả năng sử dụng nhãn hiệu một cách độc quyền. Với tư cách là một

loại tài sản thuộc sở hữu của chủ thể nhất định nên bên cạnh quyền khai thác, sử
dụng, pháp luật còn ghi nhận quyền định đoạt nhãn hiệu của chủ sở hữu. Quyền
SHCN đối với nhãn hiệu chỉ phát sinh và được bảo vệ bởi Nhà nước thông qua thủ
tục ghi nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quyền SHCN.
Từ định nghĩa trên của Luật SHTT cũng như đặc trưng của quyền sở hữu đối
với nhãn hiệu, chúng ta có thể rút ra khái niệm về “Quyền SHCN đối với nhãn
hiệu” như sau: “Quyền SHCN đối với nhãn hiệu là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với nhãn hiệu, được xác lập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định và được
đặc trưng bởi độc quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với nhãn hiệu”.


13

1.1.2.2. Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Căn cứ xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu được quy định tại Khoản 3,
Điều 6, Luật SHTT và được cụ thể hóa tại điểm 1.2, điểm 1.3 và điểm 1.4, Khoản 1
Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN, theo đó:
Quyền SHCN đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định của Cục
SHTT về việc cấp văn bằng bảo hộ cho người đăng ký nhãn hiệu đó. Người được
cấp văn bằng bảo hộ là chủ sở hữu nhãn hiệu và được hưởng quyền đối với nhãn
hiệu trong phạm vi bảo hộ ghi trong văn bằng bảo hộ và trong thời hạn hiệu lực của
văn bằng bảo hộ. Khi xảy ra tranh chấp, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền sử dụng
văn bằng bảo hộ làm căn cứ chứng minh quyền của mình mà không cần chứng cứ
nào khác.
Quyền SHCN đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrit và
Nghị định thư Madrit (sau đây gọi là “nhãn hiệu đăng ký quốc tế”) được xác lập
trên cơ sở quyết định chấp nhận bảo hộ hoặc giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký
quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam do Cục SHTT cấp theo yêu cầu của chủ nhãn
hiệu. Quyết định và giấy chứng nhận nói trên có giá trị như văn bằng bảo hộ cấp
cho người đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam.

Riêng đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở thực
tiễn sử dụng rộng rãi khiến cho nhãn hiệu đó trở thành nối tiếng mà không phụ
thuộc vào thủ tục đăng ký tại Cục SHTT. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền và giải
quyết tranh chấp quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng, chủ sở hữu phải chứng minh
quyền của mình bằng các chứng cứ phù hợp quy định tại Điều 75 Luật SHTT về
tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng.
1.1.2.3. Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Việc xác định chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu được quy định tại
Khoản 1, Điều 121 Luật SHTT và Điều 15 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật SHTT về SHCN. Tùy vào căn cứ xác lập quyền đối với nhãn hiệu mà chủ thể


14

quyền SHCN đối với nhãn hiệu được xác định theo những cách khác nhau, cụ thể
như sau:
Chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở cấp văn
bằng bảo hộ hoặc công nhận, là tổ chức, cá nhân được Cục SHTT cấp văn bằng bảo
hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được Cục SHTT công nhận.
Trong trường hợp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu được cấp chung cho nhiều tổ
chức, cá nhân thì quyền SHCN đối với nhãn hiệu này thuộc sở hữu chung của các tổ
chức, cá nhân đó. Các chủ sở hữu chung thực hiện quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật dân sự.
Chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng (được xác lập tự động trên
cơ sở sử dụng rộng rãi) là tổ chức, cá nhân có nhãn hiệu nổi tiếng đó hay nói cách
khác chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng là tổ chức, cá nhân đang sử
dụng nhãn hiệu nổi tiếng đó.
Chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu còn bao gồm các tổ chức, cá nhân
được chủ sở hữu chuyển giao quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Trường hợp này quyền

SHCN đối với nhãn hiệu được xác lập thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền
SHCN đối với nhãn hiệu hoặc thông qua việc nhận di sản thừa kế là quyền SHCN
đối với nhãn hiệu8. Khi đó chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu là người được
chuyển giao quyền sở hữu.
1.1.2.4. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một loại tài sản vô hình rất có giá trị. Vì vậy, pháp luật đã quy
định những quyền năng đặc thù cho chủ sở hữu nhãn hiệu để bảo vệ quyền lợi của
họ. Quyền của chủ sở hữu đối tượng SHCN nói chung được quy định tại Điều 123
Luật SHTT. Theo đó, chủ sở hữu đối tượng SHCN có các quyền tài sản sau:
- Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng SHCN. Trong đó, quyền
sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi: gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên
hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ
giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng
8

Đinh Đồng Vang, (2014), Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật SHTT Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ luật học, trang 17.


15

trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ; nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
mang tên nhãn hiệu được bảo hộ9.
- Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng SHCN. Quyền ngăn cấm người
khác sử dụng đối tượng SHCN nói chung và cũng chính là đối với nhãn hiệu nói
riêng được quy định tại Khoản 1, Điều 125 Luật SHTT. Quy định này là hành lang
pháp lý quan trọng cho chủ sở hữu nhãn hiệu trong việc chủ động bảo vệ quyền lợi
của mình. Tuy nhiên, không phải trong bất cứ trường hợp nào, chủ sở hữu nhãn hiệu
cũng có quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình. Ngoại lệ này
được quy định tại điểm b, điểm g, và điểm h Khoản 2, Điều 125 Luật SHTT, gồm

có: lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường,
kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do chính
chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị
trường nước ngoài; sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được
bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đã đạt được sự bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp
đợn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó; sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô
tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc
tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
- Định đoạt đối tượng SHCN: Chủ sở hữu nhãn hiệu thực hiện quyền định
đoạt đối với nhãn hiệu của mình thông qua việc chuyển nhượng hoặc chuyển quyền
sử dụng nhãn hiệu được quy định tại Chương X, Luật SHTT. Trong đó chuyển
nhượng quyền SHCN đối với nhãn hiệu là việc chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển giao
quyền sở hữu của mình cho tổ chức cá nhân khác. Trường hợp chuyển quyền sử
dụng nhãn hiệu là việc chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử
dụng đối tượng SHCN thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Cả hai hình thức
này đều phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.
Bên cạnh những quyền năng đặc thù mà chủ sở hữu nhãn hiệu được hưởng
sau khi xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu của mình thì pháp luật SHTT cũng
quy định về giới hạn đối với quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu nhằm bảo đảm sự cân
9

Khoản 5, Điều 124 Luật SHTT.


16

đối giữa quyền lợi của chủ sở hữu nhãn hiệu với lợi ích của xã hội, cộng đồng. Hạn
chế quyền SHCN đối với nhãn hiệu được thể hiện trong quy định về nghĩa vụ của
chủ sở hữu nhãn hiệu mà cụ thể là nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký. Khoản
2, Điều 136, Luật SHTT quy định về việc sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn

hiệu như sau:“Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu đó.
Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì
quyền sở hữu nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật
này”. Việc quy định về sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký bảo đảm phù hợp với pháp
luật một số nước trên thế giới như pháp luật về nhãn hiệu của Hội đồng Châu Âu,
pháp luật SHTT Cộng hòa Pháp, pháp luật nhãn hiệu Hoa Kỳ10. Quy định này cũng
bảo đảm hợp lý vì nhãn hiệu khi không được sử dụng trong một thời gian dài sẽ làm
giảm uy tín và sự tin tưởng của người tiêu dùng cũng như xã hội đối với nhãn hiệu
đó. Đồng thời cùng với sự phát triển nhanh mạnh của nền kinh tế thị trường thì việc
cạnh tranh giữa nhãn hiệu của các doanh nghiệp ngày càng cao, nếu không biết tận
dụng nhãn hiệu thông qua việc khai thác, sử dụng nhãn hiệu sẽ làm cho nhãn hiệu
nhanh chóng bị lãng quên gây tổn thất về uy tín và kinh tế cho chính chủ sở hữu
nhãn hiệu.
1.2. Khái quát về thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
bằng biện pháp hành chính
1.2.1. Khái niệm và các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm thực thi quyền sở hữu công nghiệp
Hoạt động thực thi quyền SHCN được dịch theo tiếng Anh là Industrial
Property Enforcement. Theo Từ điển Anh - Việt thì “enforcement” là danh từ, có
nghĩa là “1. bắt buộc, cưỡng bách, áp chế, bắt theo. 2. Thi hành, thực thi”11. Như
vậy hoạt động thực thi quyền SHCN được hiểu là buộc mọi người phải tuân theo và
thi hành một luật lệ nhất định.

10
Đinh Đồng Vang, (2014), Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của pháp luật SHTT Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ luật học, trang 36.
11
Bùi Phụng,(2002),Từ điển Anh-Việt, Nxb Văn hóa và Thông tin, trang 531.



17

Hiệp định TRIPS có dành một phần gồm 21 điều khoản để quy định về thực
thi quyền SHTT nhưng cũng không đưa ra khái niệm cụ thể về “Thực thi quyền
SHTT”, “Thực thi quyền SHCN”. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định trong Phần
thứ III của Hiệp định thì có thể thấy mục đích của việc thực thi quyền SHTT nói
chung hay thực thi quyền SHCN nói riêng nhằm xử lý một cách nghiêm khắc và
ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho
các quốc gia thành viên. Hiệp định TRIPS đề cao việc bảo hộ và thực thi thỏa đáng,
hiệu quả quyền SHCN. Theo quy định của Hiệp định TRIPS, thực thi quyền SHCN
được hiểu là một nội dung của hoạt động bảo hộ quyền SHCN12.
Tại phần thứ năm của Luật SHTT có quy định khá cụ thể, chi tiết về bảo vệ
quyền SHTT nhưng cũng không có khái niệm “thực thi quyền SHCN”. Theo quy
định tại phần này, bảo vệ quyền SHCN được hiểu là việc các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, chủ thể quyền SHCN sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp
luật để bảo vệ quyền SHCN. Theo tác giả, mục đích của việc bảo vệ quyền SHCN
và thực thi quyền SHCN có những điểm tương đồng nhất định.
Qua việc nghiên cứu quy định của pháp luật về các biện pháp thực thi quyền
SHCN có thể hiểu thực thi quyền SHCN là việc nhà nước thông qua các quy định
của pháp luật, quy định về các biện pháp mà chủ thể quyền và các cơ quan thực thi
áp dụng để ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN nhằm bảo vệ
lợi ích của chủ thể quyền. Tóm lại, theo nghĩa rộng thì thực thi quyền SHCN có thể
hiểu là việc thực hiện pháp luật về SHCN để làm cho các quy định của pháp luật về
SHCN được thực hiện trên thực tế.
Theo nghĩa hẹp, có thể hiểu thực thi quyền SHCN là việc chủ thể quyền hoặc
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài theo quy định
của pháp luật để ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN.
1.2.1.2. Các biện pháp thực thi quyền sở hữu công nghiệp

12


Chương trình hợp tác đặc biệt Việt Nam - Thụy Sĩ về SHTT, (2002), Các Điều ước quốc tế về SHTT trong
quá trình hội nhập.


18

Xuất phát từ bản chất quyền SHCN là quyền đối với tài sản của cá nhân, tổ
chức nên các quy định của pháp luật Việt Nam đều trao cho chủ thể quyền lựa chọn
biện pháp thực thi phù hợp để chống lại các hành vi xâm phạm quyền SHCN. Để
bảo vệ quyền SHCN, chủ thể quyền có thể thực hiện quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu
các cơ quan thực thi xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng các biện pháp: dân
sự, hành chính, hình sự hoặc yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu để phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa xâm phạm quyền. Tuy nhiên, trong một số vụ việc, do hành vi xâm phạm
quyền có tính chất nguy hiểm có thể dẫn đến hậu quả xấu làm ảnh hưởng đến người
tiêu dung và xã hội thì cơ quan nhà nước sẽ trực tiếp tiến hành xử lý mà không
thông qua yêu cầu của chủ thể quyền. Với mỗi biện pháp thực thi quyền SHCN,
pháp luật quy định những thủ tục, chế tài tương ứng.
 Biện pháp tự bảo vệ
Trong việc bảo vệ quyền SHCN, bản thân chủ thể quyền có vai trò hết sức
quan trọng để bảo đảm thực thi quyền SHCN thông qua biện pháp tự bảo vệ. Theo
quy định tại khoản 1, Điều 198 Luật SHTT, chủ thể quyền SHCN có quyền áp dụng
các biện pháp sau để bảo vệ quyền SHCN của mình: Thứ nhất, áp dụng biện pháp
công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền. Thứ hai, yêu cầu tổ chức, cá
nhân có hành vi xâm phạm quyền phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính
công khai, bồi thường thiệt hại. Thứ ba, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý hành vi xâm phạm quyền theo quy định của pháp luật. Thứ tư, khởi kiện ra tòa án
hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, theo quy định của Luật SHTT, chủ thể quyền có quyền lựa chọn các

biện pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và mục đích của mình để bảo vệ hiệu
quả nhất quyền SHCN đã được xác lập. Chủ thể quyền SHCN có thể áp dụng nhiều
hơn một biện pháp để tự bảo vệ quyền của mình.
Biện pháp tự bảo vệ có những ưu điểm nhất định như tôn trọng quyền tự định
đoạt của chủ thể, trong một phạm vi nhất định biện pháp này có hiệu quả ngăn chặn
và chấm dứt hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, vì biện pháp tự bảo vệ không có sự can


19

thiệp của các cơ quan thực thi nên trong một số trường hợp không làm chấm dứt
được hành vi xâm phạm quyền SHCN, dẫn đến việc thời gian xử lý lâu, gây thiệt
hại cho chủ thể quyền và cho xã hội.
 Biện pháp hành chính
Thủ tục xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền SHCN
được áp dụng phổ biến ở Việt Nam và với những mức độ khác nhau ở một số nước
Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, Brunay, Phillippin13. Xử lý hành vi xâm
phạm quyền SHCN bằng biện pháp hành chính là việc các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối với những cá nhân, tổ
chức có hành vi xâm phạm quyền SHCN theo yêu cầu của chủ thể quyền, của tổ
chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, của tổ chức, cá nhân phát
hiện hành vi xâm phạm hay của cơ quan có thẩm quyền chủ động phát hiện.
 Biện pháp dân sự
Thực thi quyền SHCN bằng biện pháp dân sự là việc Tòa án áp dụng các biện
pháp dân sự theo quy định của pháp luật SHTT để xử lý hành vi xâm phạm quyền
SHCN. Biện pháp dân sự được áp dụng cả trong trường hợp hành vi xâm phạm đã
hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp khác (hành chính, hình sự).
Thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng biện pháp dân sự
thuộc về Tòa án. Các biện pháp dân sự được Tòa án áp dụng để xử lý tổ chức, cá
nhân có hành vi xâm phạm quyền SHCN gồm: buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;

buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường
thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm
mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được
sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền SHCN với điều
kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền SHCN.
 Biện pháp hình sự

13

PGS. TS. Lê Hồng Hạnh, ThS. Đinh Thị Mai Phương và đ.t.g, (2004), Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt
Nam, Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 121.


×