Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Kiểm soát tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.42 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN XUÂN NAM

KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
THEO LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Đoàn Trung Kiên.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình ./.

Tác giả


Nguyễn Xuân Nam


MỤC LỤC

Trang
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ ........ 5
1.1. Hiện tượng tập trung kinh tế và nhu cầu kiểm soát tập trung kinh tế.... 5
1.2. Khái niệm và bản chất của tập trung kinh tế: ..................................... 10
1.3. Tác động của tập trung kinh tế đối với nền kinh tế. ........................... 20
1.4. Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi tập trung kinh tế của một số
quốc gia trên thế giới. ............................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾThực trạng pháp
luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi tập trung kinh tế .......... 28
2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm
soát hành vi tập trung kinh tế.. .................................................................. 28
2.2. Một số nhận xét pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi
tập trung kinh tế. ...................................................................................... 50
2.3. Thực tiễn kiểm soát một số vụ tập trung kinh tế tại Việt Nam. .......... 52
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kiểm
soát tập trung kinh tế của Luật Cạnh tranh Việt Nam. ........................... 55
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh điều chỉnh tập trung
kinh tế ..................................................................................................... 55
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
Việt Nam về kiểm soát hành vi tập trung kinh tế ...................................... 60
KẾT LUẬN ................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 65



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Dưới sức ép cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
dường như không thể đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn, kỹ thuật công nghệ
mới, cơ sở hạ tầng, … để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh. Khi đó,
tập trung kinh tế là phương án mà các doanh nghiệp thường nghĩ tới nhằm tập
trung nguồn vốn, công nghệ mới, … giúp nâng cao năng lực cạnh tranh trên
thị trường. Đặc biệt, đối với những doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá
sản hoặc đang gặp nhiều khó khăn về tài chính, thay vì lựa chọn các biện
pháp như phá sản hoặc giải thể để rút lui khỏi thị trường thì các doanh nghiệp
có thể tham gia tập trung kinh tế để tái cấu trúc hoạt động kinh doanh, khôi
phục nguồn lực, góp phần nâng cao cạnh tranh trên thị trường. Tập trung kinh
tế còn có vai trò như một cách thức tạo khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh
doanh, sẽ giúp cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng hợp và có thể
thực hiện chiến lược mở rộng kinh doanh, giảm thiểu rủi ro kinh doanh.
Ngoài ra, tập trung kinh tế có thể làm tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô và
phạm vi, làm giảm chi phí, nâng cao chất lượng và thúc đẩy sản lượng.
Dưới góc độ lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, quốc gia có hơn 90% là
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ [1] thì việc các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế còn giữ vai trò tích cực, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Nhờ môi trường pháp lý thông thoáng và nhu cầu phát triển hoạt động kinh
doanh ngày càng tăng đã khiến các doanh nghiệp lựa chọn các hình thức tập
trung kinh tế như một kênh gia nhập thị trường hiệu quả. Hoạt động tập trung
kinh tế tại Việt Nam có xu hướng tăng cao trong những năm tới. Vì vậy, Nhà
nước cần có những chính sách thích hợp khuyến khích doanh nghiệp thực
hiện các vụ tập trung kinh tế có lợi cho nền kinh tế.



2

Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, tập trung kinh tế có khả
năng gây ảnh hưởng tiêu cực đến cấu trúc thị trường và suy giảm tính cạnh
tranh trên thị trường. Hệ quả là, các doanh nghiệp có thể cùng nhau phối hợp
về giá hoặc thỏa thuận về sản lượng đầu ra gây hạn chế cạnh tranh. Khi đó,
các hành vi tập trung kinh tế này cần phải được kiểm soát để bảo vệ trật tự
cạnh tranh. Biện pháp pháp lý, cụ thể là các chính sách và quy định pháp luật,
là một trong những biện pháp đầu tiên mà Nhà nước có thể sử dụng để kiểm
soát hoạt động tập trung kinh tế.
Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Kiểm soát tập trung kinh tế theo Luật
Cạnh tranh Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài cho
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật của mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở phạm vi nghiên cứu về hành vi tập trung kinh tế nói riêng và các hành
vi hạn chế cạnh tranh nói chung đã có một số luận văn, đề tài, bài viết nghiên
cứu tiêu biểu như: Chuyên đề Tập trung kinh tế thuộc Đề tài cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng nội dung chương trình môn học Luật cạnh tranh
năm 2005 của Vũ Thị Lan Anh (Trường đại học Luật Hà Nội); Luận văn thạc
sỹ Luật học “Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh
Việt Nam” năm 2006 của Trần Thị Bảo Ánh (Trường Đại học Luật hà Nội);
bài viết “Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế và vai trò của cơ quan
quản lý cạnh tranh” năm 2007 của PGS, TS. Nguyễn Như Phát (Tạp chí
Khoa học Pháp lý số 4)
Các công trình trên đã đề cập tới các vấn đề chung nhất của hành vi tập
trung kinh tế. Tuy nhiên, qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tác giả thấy rằng
việc làm sáng tỏ vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế với tư cách là một trong
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng pháp luật cạnh tranh một cách có hệ

thống hơn là vấn đề cần thiết.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung làm rõ các vấn đề pháp lý cơ bản của kiểm soát tập trung
kinh tế theo Luật Cạnh tranh ở Việt Nam như: khái niệm tập trung kinh tế,
kiểm soát tập trung kinh tế; vai trò của các cơ quan Nhà nước, cá nhân, tổ
chức sản xuất, kinh doanh về kiểm soát tập trung kinh tế; giải quyết, xử lý vi
phạm về tập trung kinh tế… Qua việc nghiên cứu nội dung những qui định
pháp luật, sự phù hợp cũng như bất cập khi triển khai những qui định đó trên
thực tế tác giả mạnh dạn đề xuất những kiến nghị và giải pháp để góp phần
hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát tập trung kinh tế và
nâng cao hiệu quả thực thi những qui định đó trên thực tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Luận văn được thực hiện dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Các phương pháp nghiên cứu trong
luận văn được thực hiện trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp chứng minh;
- Phương pháp thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đánh giá có hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế theo Luật
Cạnh tranh Việt Nam

Nhằm thực hiện những mục đích trên, luận văn phải thực hiện những
nhiệm vụ sau:


4

- Nghiên cứu những nội dung lý luận cơ bản về tập trung kinh tế; kiểm
soát tập trung kinh tế;
- Phân tích những nội dung pháp luật về tập trung kinh tế;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh về kiểm soát tập
trung kinh tế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện
nay.
- Xây dựng giải pháp hoàn thiện kiểm soát tập trung kinh tế theo Luật
cạnh tranh ViệtNam, qua đó nhằm thúc đẩy thực thi những quy định trên
trong thực tế.
6. Đóng góp mới của luận văn.
- Làm rõ khái niệm tập trung kinh tế với tư cách là một trong những thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh; vai trò của tập trung kinh tế đối với nền kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
- Phân tích, từ đó thấy rõ được thực trạnh của pháp luật Cạnh tranh Việt
Nam hiện nay về kiểm soát tập trung kinh tế.
- Nêu ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi của pháp luật Cạnh tranh điều chỉnh tập trung kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về tập trung kinh tế và pháp luật cạnh tranh điều
chỉnh hành vi tập trung kinh tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành
vi tập trung kinh tế.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam kiểm soát hành vi tập trung kinh tế.


5

Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ.

1.1. Hiện tượng tập trung kinh tế và nhu cầu kiểm soát tập trung kinh tế.
Như một lẽ tự nhiên, doanh nghiệp nào tồn tại trên thị trường cũng đều
tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua quá trình “tự lớn
lên” của chính mình; thể hiện bằng những biện pháp như nâng cao năng lực
tài chính, cải tiến tổ chức quản lý, phát triển công nghệ mới, thay đổi chiến
lược sản xuất kinh doanh... và đôi khi còn có cả việc tìm “vận may” trên
thương trường.
Sự lớn lên này của các doanh nghiệp được gọi là tăng trưởng nội sinh
của doanh nghiệp và vì thế, không có lý do gì mà công quyền ngăn cản hay
cấm đoán sự phát triển của các doanh nghiệp. Vì vậy, bản thân hiện tượng độc
quyền (với tính cách là kết quả của sự tăng trưởng nội sinh ở mức cao nhất) là
không có tội [19]. Lúc đó, pháp luật chỉ có thể và cần phải tinh tường trong
những hiện tượng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của
doanh nghiệp mà thôi. Chỉ có quá trình độc quyền hóa trái pháp luật mới đáng
để quan tâm.
So với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thì tính chất, mức độ
nguy hại của các thoả thuận, dàn xếp, liên kết nhằm hạn chế cạnh tranh (độc
quyền hóa) gây ra hậu quả cho thị trường và xã hội lớn hơn gấp nhiều lần.
Pháp luật kiểm soát độc quyền thường đề cập đến ba vấn đề: cấm các thỏa
thuận nhằm hạn chế cạnh tranh, kiểm soát tập trung kinh tế, kiểm soát sự lạm

dụng vị thế thống lĩnh thị trường .
Kiểm soát tập trung kinh tế là một nội dung rất mới không chỉ ở Việt
Nam. Người Mỹ cũng mới chỉ bắt đầu thực hiện việc kiểm soát những dòng


6

thác cạnh tranh từ hơn 100 năm nay. Mỹ là nước mà chủ nghĩa tư bản đã có
bước phát triển rất nhanh trong thế kỷ XIX. Sự tích tụ tư bản dưới hình thức
Trust đã làm cho một số ngành công nghiệp của Mỹ như thuốc lá, sắt,
đường… rơi vào tay những tập đoàn tư bản lũng đoạn. Sự lạm dụng vị thế của
những tập đoàn này trên thị trường vào cuối thế kỷ XIX đã làm cho Chính
phủ Mỹ phải ban hành những đạo luật chống Trust (anti trust: kiểm soát,
khống chế độc quyền và phá bỏ cản trở cạnh tranh).
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, tư tưởng chống Trust đã mau chóng phổ
biến sang Anh, Pháp và các nước bại trận . Cho tới những năm 1970, Toà án
Tối cao Mỹ nhấn mạnh rằng “luật chống độc quyền … là nền tảng cho hoạt
động kinh doanh tự do. Luật chống độc quyền quan trọng đối với việc bảo vệ
sự tự do kinh tế và hệ thống kinh doanh tự do cũng như Đạo luật về Nhân
quyền có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ những quyền tự do căn bản
của chúng ta”. Đạo luật Sherman của Mỹ năm 1890, và một số luật chống độc
quyền sau này của Mỹ (như Đạo luật Robinson Patman 1936) được ban hành
để bổ sung việc bảo vệ của pháp luật đối với “sự tự do hợp đồng” trước
những thoả thuận hạn chế “bất hợp lý” và âm mưu cưỡng ép bằng việc tăng
cường các biện pháp bảo vệ về mặt pháp luật cho người tiêu dùng, “quyền
được bán” của các nhà sản xuất nhỏ, và “mô hình Jefferson về các nhà kinh
doanh và đối thủ cạnh tranh nhỏ, bất chấp một số những chi phí xã hội có thể
có về khía cạnh giảm sút hiệu quả”. Kể từ những năm 80, dưới ảnh hưởng của
Trường phái kinh tế học Chicago, những xung đột giữa các mục tiêu pháp lý
của chính sách chống độc quyền (ví dụ như bảo vệ sự tự do hợp đồng, tự do

của người tiêu dùng và quyền được cạnh tranh của những thành viên nhỏ) và
các mục tiêu kinh tế ngày càng được các toà án Mỹ giải quyết trên cơ sở tiêu
chí về hiệu quả kinh tế chứ không phải dựa trên những lập luận về mặt pháp
lý hoặc tính “bất hợp lý” của những hạn chế. Chỉ trong một số trường hợp,


7

như luật án lệ về chống độc quyền trong lĩnh vực độc quyền kinh tiêu thì các
toà án của Mỹ mới tiếp tục áp dụng cách tiếp cận “quyền công dân” trong đó
sự khiếu nại của các đại lý độc quyền kinh tiêu riêng lẻ về việc không có sự
kiểm soát thích hợp hoạt động độc quyền kinh tiêu này vẫn có vị trí tối quan
trọng. Ngày nay, nhiều luật sư về lĩnh vực chống độc quyền ở Mỹ đều nhất trí
rằng luật chống độc quyền ở Mỹ cần phải được hiểu là để bảo vệ cạnh tranh
và lợi ích người tiêu dùng chứ không phải là bảo vệ các đối thủ cạnh tranh
(như sự cạnh tranh giữa các nhà phân phối, hay quyền được cạnh tranh của
những thành phần tham gia nhỏ hơn trên thị trường). Tuy nhiên, sự tập trung
vào lợi ích của người tiêu dùng cũng xuất phát từ một thực tế là các giá trị phi
hiệu quả (như sự tự do kinh tế và không biệt đối xử trong cạnh tranh) vốn
được bảo vệ rất tốt theo hiến pháp và pháp luật về kinh tế của Mỹ và một thực
tế khác nữa là sự chú trọng của chính sách cạnh tranh vào việc bảo vệ các nhà
sản xuất có thể kéo theo sự đối xử phân biệt và những thiệt hại không cần
thiết cho lợi ích của người tiêu dùng. Nhìn chung, mục tiêu lịch sử của luật
chống độc quyền Mỹ là để bảo vệ sự tự do kinh tế (ví dụ của các nhà sản xuất
độc lập, các thương nhân không có quyền lực thị trường), sự lựa chọn của
người tiêu dùng, và sự cạnh tranh hiệu quả trên thị trường mở có nhiều đối
thủ cạnh tranh bằng cách hạn chế và phân chia quyền lực.
Vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế chỉ được quan tâm ở châu Âu trong
khoảng vài chục năm trở lại đây. Tại Châu Âu, hầu hết các nước đều đưa ra
luật cạnh tranh sau Thế chiến lần thứ II không chỉ nhằm đẩy mạnh hiệu quả

kinh tế mà còn nhằm để thúc đẩy sự tự do kinh tế, sự tách biệt và phân chia
quyền lực tư nhân và quyền lực chính trị, và giảm bớt những qui định mang
tính bảo hộ trong nền kinh tế của những nước này. Một bước đi gần đây của
Châu Âu, ví dụ trong việc xem xét các hạn chế tập trung kinh tế theo chiều
dọc, hướng tới sự phân tích sâu hơn về kinh tế dường như được thúc đẩy bởi


8

một thực tế (giống như ở Mỹ) là các mục tiêu không liên quan tới vấn đề hiệu
quả được bảo vệ một cách đầy đủ trong EC, do vậy việc bảo vệ lợi ích của
nhà sản xuất trong điều kiện phải gây thiệt hại cho lợi ích của người tiêu dùng
không được chấp nhận. Đức bổ sung Luật Cac-ten năm 1973, Liên minh châu
Âu ban hành Quy chế kiểm soát tập trung kinh tế lần đầu tiên năm 1989, Italia
ban hành quy chế kiểm soát tập trung kinh tế năm 1990, Phần Lan ban hành
quy chế kiểm soát tập trung kinh tế năm 1992. Cho đến nay, nhiều nước châu
Âu còn chưa ban hành quy chế kiểm soát tập trung kinh tế.
Nhật bản và các con hổ Á Châu trước hết khuyến khích tập trung kinh tế
với các liên kết kinh doanh (keiretzu, cheabol) tạo ra các doanh nghiệp có sức
mạnh như những đại tập đoàn rồi mới dè dặt du nhập tư duy khống chế cạnh
tranh, kiểm soát tập trung kinh tế. Trung Quốc cũng chỉ quan tâm đến luật
cạnh tranh từ mười mấy năm nay và trước hết chỉ nhấn mạnh vào chống cạnh
tranh không lành mạnh.
Phần lớn các nước đang phát triển cho tới nay chưa ban hành luật cạnh
tranh quốc gia và còn thiếu một nền văn hoá cạnh tranh và những điều kiện
pháp lý thuận lợi có được từ pháp luật cạnh tranh và sự dân chủ thể hiện trong
hiến pháp. Tại những nước đang phát triển đã ban hành luật cạnh tranh, luật
và chính sách cạnh tranh dường như không chỉ tập trung vào hiệu quả kinh tế.
Chừng nào các điều kiện tiên quyết cho một nền kinh tế thị trường hiệu quả
chưa được thiết lập đầy đủ ở các nước đang phát triển, hoặc những nước trong

thời kỳ chuyển đổi thì chính sách cạnh tranh có thể được nhìn nhận trên một
góc độ rộng hơn có tính đến cả những mục tiêu của chính sách điều tiết (ví dụ
như: cơ cấu lại, giảm bớt các qui định và tư nhân hoá các ngành công nghiệp)
và những vấn đề điều chỉnh xã hội của những chính sách như vậy. Tuy nhiên,
các giá trị không liên quan tới vấn đề hiệu quả có thể vẫn quan trọng đối với
các nước đang phát triển – những nước ban hành luật cạnh tranh mới như là


9

một phương tiện để mở cửa và giảm bớt qui định trên các thị trường trong
nước.
Như vậy, tập trung kinh tế được coi là một hình thức tiến tới độc quyền
hóa kéo theo sự tăng trưởng ngoại sinh của doanh nghiệp. Trên thực tế, sự lớn
lên của các doanh nghiệp bằng con đường nội sinh là rất không đáng kể mà
chủ yếu thông qua con đường tăng trưởng ngoại sinh (tập trung kinh tế).
Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh
nghiệp, theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế
ước, tự do lập hội... được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Tuy
nhiên, tự do suy cho cùng cũng chỉ là “nhận thức được quy luật”, hay nói
khác đi, tự do nào cũng cần có giới hạn. Tiếng gọi của lợi nhuận nhiều khi đã
làm cho các doanh nghiệp vô tình hay cố ý vượt qua biên giới của quyền tự do
đó. Vào điểm giới hạn đó, pháp luật cạnh tranh xuất hiện và như thế, tính chất
và mục đích của pháp luật cạnh tranh là khác hẳn với pháp luật dân sự,
thương mại, doanh nghiệp - những pháp luật tạo tiền đề của tự do để tăng
cường, gia tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn pháp luật cạnh
tranh thì không. Pháp luật cạnh tranh chỉ đảm bảo cho các doanh nghiệp sử
dụng đến tận cùng những khả năng sẵn có của mình bằng những phương thức
chân chính.
Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong

kinh tế thị trường. Vì những lý do khác nhau trong nền kinh tế như cạnh tranh
gay gắt, nhu cầu áp dụng công nghệ mới, nhu cầu về vốn và sức mạnh tài
chính... mà khả năng của từng nhà tư bản riêng rẽ không thể đáp ứng được mà
vấn đề tập trung kinh tế luôn diễn ra trên thương trường. Mục tiêu cụ thể của
các hình thức khác nhau của tập trung kinh tế suy cho cùng là tạo ra những
doanh nghiệp lớn trên cơ sở tập trung sức mạnh của nhiều doanh nghiệp sẵn


10

có trên thương trường. Số lượng của các đối thủ cạnh tranh sẽ giảm đi và vì
thế, mức độ “hoàn hảo” trong cạnh tranh cũng bị giảm sút.
Điều đáng lưu ý là, sự hiện diện của các “đại gia” bản thân nó sẽ làm
thay đổi cơ cấu của thị trường và nhìn chung là có nguy cơ xuất hiện của
những doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường, những doanh nghiệp độc
quyền. Mặt khác, trong chính trị cũng như kinh tế, ở đâu tập trung quá nhiều
quyền lực thì xét về phương diện khách quan, ở đó sẽ nảy sinh nguy cơ lạm
dụng quyền lực trong mối quan hệ với kẻ yếu. Theo phương châm “phòng thủ
từ xa” vì thế mà các vụ tập trung kinh tế cần được giám sát.
1.2. Khái niệm và bản chất của tập trung kinh tế.
1.2.1. Khái niệm tập trung kinh tế
Như phân tích ở trên, Pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện trong cơ chế thị
trường, nơi có tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập hội. Pháp luật
cạnh tranh xuất hiện vào đúng thời điểm mà hành vi cạnh tranh đi vượt quá
biên giới của quyền tự do kinh doanh. Xét về tính chất và mục tiêu, pháp luật
cạnh tranh là loại pháp luật nhằm ngăn cản, chống đối và trừng trị những hành
vi cạnh tranh trái pháp luật, đạo đức và văn hóa kinh doanh.
Kinh tế học từ lâu đã nghiên cứu cấu trúc thị trường (market structure)
và chia cấu trúc thị trường thành 4 loại chính: Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect
competition); Cạnh tranh có tính độc quyền (monopolistic competition); Độc

quyền nhóm (oligopoly); và độc quyền (monopoly). Trong đó cạnh tranh hoàn
hảo và độc quyền là hai hình thái thị trường đối cực với nhau. Yếu tố căn bản
để phân biệt các hình thái thị trường này là mức độ của khả năng kiểm soát
giá cả của nhà cung cấp dịch vụ hay hàng hóa trên thị trường. Khả năng kiểm
soát giá cả này thường được gọi là quyền lực của thị trường (market power).
Một doanh nghiệp được coi là có quyền lực thị trường khi doanh nghiệp tăng
giá bán sản phẩm của mình trên thị trường nhưng tổng lợi nhuận thu về vẫn


11

tăng lên (thông thường, khi một doanh nghiệp tăng giá sản phẩm của mình thì
sản lượng bán ra sẽ giảm đi, tổng lợi nhuận có thể giảm đi…)
Cạnh tranh hoàn hảo là một hình thái thị trường trong đó có nhiều người
mua và nhiều người bán cùng tham gia thị trường, các sản phẩm trong thị
trường nhìn chung là đồng nhất hoặc được chuẩn tắc hóa, việc gia nhập hoặc
rút khỏi thị trường được diễn ra tự do, thông tin thị trường mang tính minh
bạch. Như vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, tất cả người bán và
người mua đều có quy mô quá nhỏ so với quy mô của thị trường nên không ai
có thể có khả năng quyết định hoặc ảnh hưởng đến giá của sản phẩm trên thị
trường, tức là không ai có khả năng có quyền lực thị trường. Tất cả họ đều là
những người chấp nhận giá chứ không phải người ấn định giá.
Độc quyền là hình thái thị trường trong đó chỉ có một người bán duy
nhất. Doanh nghiệp này không phải cạnh tranh với bất kỳ đối thủ cạnh tranh
nào trong việc bán sản phẩm của mình trên thị trường. Với mong muốn tối đa
hóa lợi nhuận, doanh nghiệp độc quyền sẽ ấn định giá độc quyền sản phẩm ở
mức mà mình sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Kết quả là người tiêu dùng và
xã hội phải gánh chịu giá cả sản phẩm ở mức cao. Mặt khác, doanh nghiệp
độc quyền không phải gánh chịu sức ép của cạnh tranh, do đó không có nhu
cầu phải cải tiến chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất.

Cạnh tranh có tính chất độc quyền là hình thái cấu trúc thị trường trong
đó có khá lớn các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh nhưng các sản phẩm mà
doanh nghiệp cung cấp cho thị trường là có sự khác biệt tương đối dù chúng
có những điểm giống nhau để có thể xếp chung vào thị trường.
Độc quyền nhóm là hình thái cấu trúc thị trường trong đó có một số ít các
doanh nghiệp có khả năng chi phối một thị trường cụ thể. Ở hình thái thị
trường này có tồn tại cạnh tranh, nhưng là cạnh tranh giữa một số ít các doanh
nghiệp.


12

Như vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, độc quyền có thể do
một doanh nghiệp nắm giữ, cũng có thể do một nhóm các doanh nghiệp cùng
nắm giữ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc quyền: là kết quả tất
yếu của cạnh tranh gay gắt không có sự điều tiết dẫn đến tập trung, tích tụ
kinh tế; do đặc thù của công nghệ sản xuất sản phẩm; do sự thông đồng ngầm
giữa các doanh nghiệp ở trong ngành; do những cản trở đối với việc gia nhập
thị trường của những doanh nghiệp tiềm năng; hoặc do Nhà nước quyết định
nắm giữ độc quyền ở một lĩnh vực nào đó nhằm phục vụ lợi ích chung cả xã
hội hoặc vì an ninh quốc gia. Tương ứng, độc quyền cũng có những dạng biểu
hiện như sau:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: được hiểu là thỏa thuận hoặc sự thông
đồng giữa những nhà sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ (các doanh
nghiệp độc lập) với nhau hoặc giữa người sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch
vụ với các bên có liên quan nhằm hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền gây hạn chế cạnh tranh:
Đây là trường hợp các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền lạm
dụng vị trí của mình có những hành vi gây hạn chế cạnh tranh. Thông thường
khi các doanh nghiệp đã có được vị trí thống lĩnh sẽ tìm cách sử dụng vị trí

thống lĩnh của mình như một lợi thế để có hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi
cho đối thủ cạnh tranh hoặc người tiêu dùng.
- Hành vi tập trung kinh tế: Để đối phó với cạnh tranh trên thị trường,
một số doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ cùng một loại mặt hàng hoặc những
mặt hàng có mối liên hệ hữu cơ với nhau trong quá trình sản xuất hoặc tiêu
thụ, cùng liên kết với nhau hình thành một tập đoàn kinh tế chi phối khối
lượng sản xuất, cung ứng và giá cả thị trường. Đây chính là quá trình tích tụ
tư bản trên phạm vi toàn xã hội và diễn ra một cách tự phát. Như vậy, tập


13

trung kinh tế là một dạng hành vi hạn chế cạnh tranh, nguy cơ dẫn đến độc
quyền.
Khái niệm tập trung kinh tế được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau
trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý. Nhìn nhận như một quá trình gắn
liền với việc hình thành và thay đổi của cấu trúc thị trường, tập trung kinh tế
trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập
cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập hoặc
thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực
sản xuất [21]. Với cách nhìn nhận này, tập trung kinh tế được phân tích dưới
góc độ căn nguyên của hiện tượng tập trung và hậu quả của nó đối với cấu
trúc thị trường cạnh tranh. Từ đó, các nhà hoạch định chính sách cạnh tranh
có thể bóc tách các yếu tố kinh tế để tìm kiếm, bản chất pháp lý nhằm tìm ra
những cơ chế điều chỉnh phù hợp với hiện tượng.
Với tư cách là hành vi của doanh nghiệp, tập trung kinh tế (còn gọi là
tích tụ tư bản) được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại
hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác. [24, tr.870]
Như vậy, tập trung kinh tế là quyền của các doanh nghiệp trên thị
trường, được thực hiện thông qua các hành vi của doanh nghiệp. Cần hiểu rõ

hành vi tập trung kinh tế với tích tụ tư bản trong kinh tế học. Tích tụ tư bản là
tăng thêm tư bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng
dư thành tư bản. Tích tụ tư bản là quá trình phát triển nội sinh của một doanh
nghiệp theo thời gian bằng kết quả kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể tích
tụ tư bản để có được vị trí đáng kể trên thị trường, song để điều đó xảy ra đòi
hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, tập trung kinh tế cũng có dấu
hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của
doanh nghiệp [11]. Có thể khẳng định rằng, tập trung kinh tế là biện pháp hữu
hiệu nhất giúp doanh nghiệp giải quyết nhu cầu tích tụ các nguồn lực phục vụ


14

cho nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp từ các nhà đầu tư trên thị
trường, là giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc cơ cấu lại hoạt
động kinh doanh, nhất là trong điều kiện doanh nghiệp gặp khó khăn, có nhu
cầu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh mà tự bản thân doanh nghiệp không
thể đáp ứng được.
Dưới góc độ pháp lý, tập trung kinh tế được quy định theo nhiều cách
khác nhau.
Điều 3 Quy chế 139/2004 đã được Ủy ban Châu Âu ban hành ngày
20/01/2004 định nghĩa về hoạt động tập trung kinh tế thuộc phạm vi điều
chỉnh của Quy chế: “đó là những hoạt động sáp nhập, hợp nhất và các hình
thức mà qua đó một hoặc nhiều doanh nghiệp làm thay đổi lâu dài cơ cấu
quyền kiểm soát của toàn bộ hoặc một số phần của một hoặc nhiều doanh
nghiệp khác” [23].
Quyền kiểm soát trong pháp luật Liên minh Châu Âu cũng được hiểu là
khả năng tạo nên sự ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động của doanh
nghiệp bằng các phương thức chủ yếu như góp vốn trực tiếp hoặc gián tiếp,
mua tài sản hoặc hợp đồng thuê khoán [15].

Theo Luật chống hạn chế cạnh tranh Đức (1957), tập trung kinh tế được
thực hiện thông qua các hình thức như mua lại toàn bộ hoặc một phần lớn tài
sản của doanh nghiệp khác (mua cổ phần và quyền bỏ phiếu của doanh nghiệp
để chiếm 25% tới 50% cổ phần) để có được quyền kiểm soát trực tiếp hoặc
gián tiếp toàn bộ hoặc từng phần của một hoặc nhiều doanh nghiệp khác hoặc
các hình thức liên kết khác giữa các doanh nghiệp để tạo ra sự chi phối của
một hoặc một số doanh nghiệp [17]. Theo luật này, cũng được coi là hình
thức tập trung kinh tế khi các doanh nghiệp liên kết mà có ít nhất nửa số thành
viên hội đồng quản trị, ban giám đốc trong các doanh nghiệp trùng nhau.


15

Sau khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ kết thúc vào năm 1865, luật tiểu bang
không thắt chặt kiểm soát quá trình hoạt động của các doanh nghiệp và trên
thị trường bắt đầu xuất hiện các công ty lớn dưới hình thức trust, hay nói cách
khác, là hình thức kết hợp giữa các công ty có vị trí thống lĩnh trong nền kinh
tế. Xuất phát từ nguyên nhân đó, vào năm 1890, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông
qua Đạo luật Sherman, là đạo luật chống độc quyền đầu tiên của Hoa Kỳ, bao
gồm những quy định cấm đối với các thỏa thuận gây hạn chế thương mại
nhưng lại không đưa ra các quy định rõ ràng để điều chỉnh các vụ việc tập
trung kinh tế. Để khắc phục những hạn chế của Đạo luật Sherman với mong
muốn chấm dứt những ảnh hưởng phản cạnh tranh từ những giao dịch của
doanh nghiệp, Quốc hội Hoa Kỳ đã chính thức thông qua Đạo luật Clayton
vào năm 1914 để bổ sung vào Đạo luật Sherman, theo đó nghiêm cấm một số
hành vi kinh doanh được xem là không thân thiện đối với nền kinh tế, bao
gồm cả hành vi mua lại (acquisition) doanh nghiệp gây phản cạnh tranh [28].
Hầu hết các vụ tập trung kinh tế đều được thể hiện dưới dạng thỏa thuận
nên các vụ việc tập trung kinh tế sẽ thuộc sự điều chỉnh của Điều 1 Luật
Sherman khi vụ việc đó gây hạn chế thương mại1. Nếu từ việc tập trung kinh

tế mà doanh nghiệp có khả năng độc quyền thì vụ việc đó sẽ thuộc sự điều
chỉnh của Điều 2 Luật Sherman2. Bên cạnh đó, Điều 5 Đạo luật Ủy ban
Thương mại Liên bang cũng điều chỉnh đối với những vụ việc tập trung kinh
tế nếu đó là các phương thức cạnh tranh không công bằng hay là các hành vi
hoặc hành động lừa dối. Tuy vậy, văn bản pháp luật mà Nhà nước liên bang
Hoa Kỳ chủ yếu sử dụng để điều chỉnh các hành vi tập trung kinh tế có tác
1

Điều 1 Đạo luật Sherman quy định “mọi sự thỏa thuận, kết hợp dưới hình thức trust hoặc các
hình thức khác, hay có sự thông đồng nào gây hạn chế hoạt động kinh doanh hoặc thương mại
giữa một số tiểu bang hoặc giữa các quốc gia nước ngoài đều bị xem là bất hợp pháp”.
2
Điều 2 Đạo luật Sherman quy định “người nào độc quyền hoặc nỗ lực độc quyền, kết hợp hoặc
thỏa thuận với người khác để độc quyền trong hoạt động kinh doanh hoặc thương mại giữa các
tiểu bang hoặc với các quốc gia nước ngoài sẽ bị xem là vi phạm nghiêm trọng”


16

động tiêu cực đến trật tự cạnh tranh là Luật Clayton. Như đã đề cập ở trên,
Đạo luật Clayton được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào năm 1914, sửa đổi,
bổ sung vào năm 1950 bởi Đạo luật Celler – Kefauver và tiếp tục được bổ
sung bởi Đạo luật Hart – Scott – Rodino vào năm 1976. Quy định cơ bản điều
chỉnh tập trung kinh tế, cụ thể là Điều 7 Đạo luật Clayton được phát biểu như
sau:
“Người nào3 tham gia hoạt động thương mại hoặc bất kỳ hoạt động nào
ảnh hưởng đến thương mại đều không được phép có được toàn bộ hoặc
một phần cổ phần hoặc các loại vốn cổ phần khác một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp và trong phạm vi thẩm quyền của Ủy ban Thương mại
Liên bang, không người nào được quyền có được toàn bộ hoặc một phần

tài sản của người khác có hoạt động thương mại hoặc bất kỳ hoạt động
nào ảnh hưởng đến thương mại trong tất cả các lĩnh vực thương mại
hoặc trong bất kỳ hoạt động nào ảnh hưởng đến thương mại trên mọi
khu vực lãnh thổ của quốc gia nếu việc đó có khả năng làm giảm tính
cạnh tranh hoặc tạo ra thế độc quyền.
Không người nào được phép có được, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
toàn bộ hoặc một phần cổ phần hoặc vốn cổ phần khác và trong phạm vi
thẩm quyền của Ủy ban Thương mại Liên bang, không người nào được
quyền có được toàn bộ hoặc một phần tài sản của người khác có hoạt
động thương mại hoặc bất kỳ hoạt động nào ảnh hưởng đến thương mại
trong tất cả các lĩnh vực thương mại hoặc trong bất kỳ hoạt động nào
ảnh hưởng đến thương mại trên mọi khu vực lãnh thổ của quốc gia nếu
việc có được cổ phần hoặc tài sản đó hoặc việc sử dụng cổ phần bằng

3

Lưu ý rằng thuật ngữ “người nào” không chỉ bao gồm các thể nhân mà còn bao gồm cả pháp
nhân, ví dụ như doanh nghiệp.


17

cách biểu quyết hoặc ủy quyền hoặc các hình thức khác có khả năng làm
giảm tính cạnh tranh hoặc tạo ra thế độc quyền.”
Đạo luật Clayton không quy định cụ thể như thế nào là tập trung kinh tế
và cũng không quy định tập trung kinh tế dưới các hình thức sáp nhập, hợp
nhất, mua lại hay liên doanh giữa các doanh nghiệp. Cơ chế kiểm soát tập
trung kinh tế của pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ chủ yếu hướng đến việc ngăn
chặn các tác động tiêu cực mà những vụ việc tập trung kinh tế có khả năng
gây ra cho môi trường cạnh tranh và cấu trúc thị trường. Theo đó, chỉ cần có

căn cứ xác định rằng trong một giao dịch, việc doanh nghiệp này có được
(acquire) tài sản hoặc cổ phần của doanh nghiệp khác và có khả năng làm
giảm tính cạnh tranh hoặc tạo ra thế độc quyền thì các cơ quan quản lý cạnh
tranh của Hoa Kỳ sẽ áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Thực tiễn kiểm soát
tập trung kinh tế của Hoa Kỳ cho thấy đôi khi không nhất thiết phải định
nghĩa về tập trung kinh tế. Bởi lẽ, tập trung kinh tế dù được thực hiện dưới bất
kỳ hình thức nào như sáp nhập, mua lại, hợp nhất hay liên doanh mà chỉ cần
có căn cứ thể hiện rằng việc tập trung kinh tế đó, trong tương lai, có khả năng
gây hạn chế cạnh tranh hoặc tạo ra thế độc quyền thì đã đủ cơ sở để các cơ
quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc kiểm
soát. Như vậy, với mục tiêu chống độc quyền, tập trung kinh tế thể hiện dưới
hình thức sáp nhập giữa hai doanh nghiệp với nhau hay hình thức mua lại cổ
phần hoặc tài sản của doanh nghiệp khác không phải là vấn đề quá quan trọng
[31, pp. 871].
Lưu ý rằng, Điều 7 Đạo luật Clayton sẽ không áp dụng đối với trường
hợp: (i) Người mua cổ phần với mục đích duy nhất là đầu tư và không sử
dụng cổ phần để biểu quyết hoặc bằng các hình thức tương tự để gây ra hoặc
cố gắng gây hạn chế đến cạnh tranh. Pháp luật Hoa Kỳ không quy định rõ
ràng tiêu chí “mục đích duy nhất là đầu tư” sẽ được xác định như thế nào, do


18

đó, khó có thể kết luận chính xác trường hợp một người mua cổ phần có khả
năng làm giảm tính cạnh tranh hay không. Dù vậy, nếu có căn cứ xác định
rằng việc mua cổ phần có khả năng tác động hạn chế đáng kể đến cạnh tranh
thì quy định này, tất yếu, sẽ không được áp dụng nữa và cũng sẽ không thuộc
trường hợp miễn trừ theo quy định của Đạo luật Clayton. Hoặc (ii) doanh
nghiệp tham gia thương mại hoặc bất kỳ hoạt động nào ảnh hưởng đến
thương mại mà có hình thành nên các công ty trực thuộc để thực hiện ngay

các hoạt động kinh doanh hợp pháp hoặc hình thành nên các chi nhánh, đơn
vị trực thuộc tương ứng hoặc từ việc sở hữu và nắm giữ toàn bộ hoặc một
phần cổ phần của các doanh nghiệp trực thuộc đó và việc hình thành đó cũng
không có tác động làm giảm tính cạnh tranh,… cũng không thuộc đối tượng
điều chỉnh của Điều 7 Luật Clayton.
Tập trung kinh tế theo Điều 16 và 17 của Luật cạnh tranh Việt Nam 2004
là hành vi của doanh nghiệp bao gồm các hình thức sáp nhập doanh nghiệp,
hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh
nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy, bản thân tên gọi tập trung kinh tế ở các quốc gia
cũng không thống nhất với nhau, các quốc gia đều liệt kê các hành vi bị coi là
tập trung kinh tế với những điều kiện riêng biệt để từ đó kiểm soát các hành vi
như vậy. Tuy nhiên, có thể nhận thấy những dấu hiệu cơ bản của hành vi tập
trung kinh tế.
1.2.2. Bản chất của tập trung kinh tế
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi tập trung kinh tế
Chủ thể thực hiện hành vi tập trung kinh tế là doanh nghiệp. Tập trung
kinh tế là nhằm tăng cường năng lực kinh tế của các doanh nghiệp và cũng là
quyền của các doanh nghiệp, bắt nguồn từ nhu cầu của doanh nghiệp chứ
không thể là ý tưởng của các cơ quan nhà nước.


19

Người mua cổ phần để nắm quyền chi phối doanh nghiệp khác thông
thường là doanh nghiệp. Tuy nhiên một số hoạt động mua lại và nắm giữ tạm
thời cổ phần do các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, ngân
hàng, bảo hiểm thực hiện không được coi là hành vi tập trung kinh tế vì đây là
một trong những hoạt động thường xuyên của các doanh nghiệp đó. Những
doanh nghiệp này mua lại và nắm giữ tạm thời cổ phần không thực hiện

quyền bỏ phiếu phát sinh từ cổ phần mà họ nắm giữ đế gây hạn chế cạnh
tranh trên thị trường.
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
có thể là các doanh nghiệp trên cùng hoặc không cùng hoạt động trên thị
trường liên quan. Trước khi thực hiện các hành vi tập trung kinh tế, các doanh
nghiệp tham gia đã tồn tại và đang hoạt động trên thị trường, không thể là
hành vi đơn phương của một doanh nghiệp. Việc đầu tư vốn để thành lập các
công ty con, tạo thành nhóm công ty không thể là hành vi tập trung kinh tế.
Thứ hai, về hình thức và mục đích của tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như: sáp nhập,
hợp nhất mua lại, liên doanh, mua cổ phần, góp vốn và những hình thức khác
như kiêm nhiệm chức vụ nhưng phải gắn với mục đích sở hữu toàn bộ một
doanh nghiệp khác hoặc sở hữu một phần đủ để kiểm soát, chi phối hoạt động
của doanh nghiệp đó.
Kết quả của vụ tập trung kinh tế phải có sự thay đổi cơ cấu chủ sở hữu
của doanh nghiệp, đây là điểm khác cơ bản so với các hành vi hạn chế cạnh
tranh khác như Cartel, lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền không
dẫn đến thay đổi cơ cấu chủ sở hữu doanh nghiệp.
Thứ ba, về hậu quả của tập trung kinh tế phải là thay đổi cấu trúc thị
trường, hạn chế cạnh tranh và có thể dẫn tới độc quyền


20

Không phải mọi hành vi tập trung kinh tế đều bị pháp luật kiểm soát. Chỉ
khi nào thị phần kết hợp của các doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung
kinh tế đạt đến một mức độ nhất định mà pháp luật coi là có thể cản trở cạnh
tranh tự do, hoặc tạo ra độc quyền thì những hành vi đó mới bị kiểm soát.
Bởi lúc này, thị trường đột ngột xuất hiện doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp có tiềm lực kinh doanh lớn hơn trước mà không phải trải qua

quá trình tích tụ tư bản. Vị trí của các doanh nghiệp còn lại trong quá trình
cạnh tranh sẽ giảm đi trức doanh nghiệp được hình thành từ tập trung kinh tế.
Thứ tư, về đối tượng tập trung kinh tế là tài sản, các quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp
Tập trung kinh tế là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung tư bản hình
thành những doanh nghiệp lớn mạnh hơn về tài chính. Do vậy, đối tượng mà
các bên tham gia vụ tập trung kinh tế hướng đến phải là vốn, tài sản hoặc các
quyền, lợi ích hợp pháp khác. Suy cho cùng các quyền, lợi ích này cũng gắn
liền với việc sở hữu, nắm giữ được một số vốn nhất định để từ đó người có
các quyền, lợi ích này sẽ kiểm soát, chi phối hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bị sáp nhập, bị hợp nhất hay bị mua lại.
1.3. Tác động của tập trung kinh tế đối với nền kinh tế.
Tập trung kinh tế với tư cách là một hiện tượng, thậm chí đôi lúc còn
được coi là trào lưu trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường, đã có những tác
động đáng kể tới đời sống kinh tế. Điều đó được nhìn nhận dưới các góc độ
rộng và hẹp khác nhau.
Thứ nhất, tập trung kinh tế có vai trò cơ cấu lại thị trường . Các biện
pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp góp phần cơ cấu lại các doanh
nghiệp kinh doanh kém hiệu quả song không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị
trường. Trong pháp luật kinh doanh, các chế định về giải thể và phá sản doanh
nghiệp được coi như những phương thức giải quyết số phận của các doanh


21

nghiệp gặp khó khăn và kinh doanh kém hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng
triệt để hai biện pháp nói trên có thể gây ra hậu quả là, sau khi các doanh
nghiệp bị giải thể, phá sản, chấm dứt tồn tại thì các giá trị đầu tư của họ sẽ chỉ
được dùng để giải quyết trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp và trả lại cho
các chủ đầu tư. Khi đó, giá trị đầu tư chung trên thị trường liên quan sẽ giảm

đi tương ứng. Trong khi đó, sự sáp nhập, mua lại, hợp nhất có thể diễn ra với
vai trò của quá trình điều phối các nguồn lực kinh tế từ những người sử dụng
kém hiệu quả để tập trung vào doanh nghiệp có khả năng sử dụng tốt hơn. Khi
đó, số lượng doanh nghiệp có thể giảm đi song giá trị đầu tư của thị trường
không giảm sút; Sự manh mún của quy mô đầu tư có thể sẽ làm cho thị
trường kém phát triển, lúc đó, tập trung kinh tế lại được coi như giải pháp cho
việc cơ cấu lại quy mô kinh doanh trên thị trường; Trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, việc phải đương đầu với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia có
tiềm lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh lâu đời sẽ là thách thức khá lớn
đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế thị
trường chuyển đổi. Một trong những biện pháp mà nhiều nước (trong đó có cả
các nước phát triển) sử dụng là tập trung các nguồn lực kinh tế để hình thành
nên các tập đoàn hoặc liên minh có sức mạnh về tài chính, kỹ thuật, công
nghệ.
Thứ hai, tập trung kinh tế làm thay đổi cơ cấu cạnh tranh vốn có trên thị
trường
- Hợp nhất (sáp nhập) theo chiều ngang: Mục tiêu chính của hình thức
hợp nhất này là thực hiện hiệu quả theo quy mô (economies of scale), thực
hiện mục tiêu chiến lược thị trường (khống chế thị trường hoặc tạo rào cản thị
trường) hoặc muốn tạo ý nghĩa chính trị (hình thành một “đế chế”). Việc hợp
nhất theo chiều ngang, về lý thuyết, có thể tạo ra những tác động tích cực và
tiêu cực. Theo lý thuyết cạnh tranh thì sự gia tăng hợp nhất theo chiều ngang


22

sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa các doanh nghiệp
và từ đó dẫn đến hạn chế cạnh tranh theo giá.
- Hợp nhất (sáp nhập) theo chiều dọc thường nhằm giảm chi phí giao
dịch (transaction cost economies) hoặc thực hiện những mục tiêu chiến lược

thị trường (đảm bảo nguồn cung ứng hoặc tiêu thụ, ngăn cản đối thủ cạnh
tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào cản gia nhập thị trường). Hợp nhất
theo chiều dọc có thể dẫn đến những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến cạnh
tranh thông qua việc gây sức ép cho doanh nghiệp (cung ứng hoặc tiêu thụ)
khác.
- Hợp nhất (sáp nhập) theo đường chéo thường nhằm phân bổ rủi ro vào
những thị trường khác nhau hoặc xuất phát từ chiến lược thị trường của doanh
nghiệp. Lợi thế quy mô thực sự của loại hình tập trung kinh tế này chỉ có thể
xảy ra trong nghiên cứu và triển khai, tổ chức và quản lý. Hình thức hợp nhất
này có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh thông
qua những lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng, thanh toán, trong quan
hệ đối ngoại.
- Doanh nghiệp chung (liên doanh) là hình thức hợp nhất đặc biệt có tác
động được đánh giá tương tự như tác động của các hình thức hợp nhất theo
chiều ngang, chiều dọc hoặc đường chéo .
1.4. Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi tập trung kinh tế của một số
quốc gia trên thế giới.
Nội dung quan trọng nhất của pháp luật cạnh tranh là những quy định về
những hành vi cạnh tranh bị cấm, bị kiểm soát. Khi quy định những hành vi
cạnh tranh, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hại của hành vi, và theo đó
là phương thức tiếp cận và trừng trị, pháp luật cạnh tranh phân chia các hành
vi bị cấm thành hai nhóm: nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh, hay còn gọi là kiểm soát độc quyền.


×