Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.8 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN MỸ HOA

NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH
MÃ SỐ

: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ HUYỀN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.



TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Mỹ Hoa


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu được sự hướng dẫn, giảng dạy của
các thầy cô và sự đóng góp của bạn bè tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ Luật
học. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng các thầy cô Trường đại học Luật Hà Nội, các giáo
sư, phó giáo sư, tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Bùi Thị Huyền, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cám ơn bạn bè và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN

5


TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử

5

trong tố tụng dân sự
1.2. Cơ sở của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân

14

sự
1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố

17

tụng dân sự với các nguyên tắc khác của luật tố tụng dân sự
1.4. Khái quát lịch sử nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố

19

tụng dân sự Việt Nam
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT

25

NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ
HAI CẤP XÉT XỬ
2.1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử


25

2.2. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có thể bị xét lại theo thủ tục

39

giám đốc thẩm, tái thẩm
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN

47

CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGUYÊN TẮC
3.1. Thực tiễn thi hành nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố

47

tụng dân sự
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả nguyên tắc thực hiện chế độ

62

hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự
(Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 đã được sửa đổi,
bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2011)

HĐXX

Hội đồng xét xử

HLPL

Hiệu lực pháp luật

LTCTAND

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

PLTTDS

Pháp luật Tố tụng Dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng dân sự

VADS

Vụ án dân sự

VKS

Viện kiểm sát


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tòa án là cơ quan trong bộ máy nhà nước, được nhà nước trao quyền tư
pháp, thực hiện chức năng xét xử nhân danh Nhà nước. Xét xử vụ án dân sự
(VADS) là hoạt động nhà nước đặc biệt do Tòa án tiến hành nhằm bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của xã hội, của tổ chức và của công dân. Vì vậy, hoạt động
xét xử VADS của Tòa án phải đảm bảo chính xác, khách quan, đúng pháp luật và
đúng bản chất của sự việc. Tuy nhiên, trên thực tế không phải ngay từ đầu hoạt
động xét xử cũng như các phán quyết của Tòa án đã đảm bảo được các yêu cầu này.
Do đó, nhằm mục đích giải quyết đúng đắn các VADS, pháp luật cần quy định việc
một vụ án có thể được xét xử ở các cấp khác nhau.
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Tố tụng Dân sự (TTDS)

là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Tố tụng dân sự (PLTTDS) nói
riêng và pháp luật tố tụng nói chung. Việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử trong TTDS là một tất yếu khách quan, phù hợp với thực tiễn xét xử,
nhằm đạt tới mục đích cao nhất là giải quyết đúng đắn, chính xác các vụ án dân sự,
bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, củng
cố lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tố tụng, vào Nhà nước. Trước khi ban
hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (LTCTAND) năm 2002 và Bộ luật Tố tụng
Dân sự (BLTTDS) năm 2004, đã có một khoảng thời gian dường như trong hệ
thống pháp luật tố tụng nước ta tồn tại ba cấp xét xử: cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm và
cấp giám đốc thẩm. Điều này làm cho thời gian giải quyết các vụ án dân sự bị kéo
dài, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, cơ quan, tổ chức,
làm giảm niềm tin vào Tòa án, các cơ quan tố tụng. Bên cạnh đó, việc quy định
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong TTDS đồng thời còn là cơ chế bảo
vệ quyền con người trong TTDS.
Trên thực tế, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh
những tích cực của việc đem lại sự tăng trưởng, phát triển về kinh tế, xã hội thì


2

cũng phát sinh những tác động tiêu cực, những mặt trái của xã hội. Đồng thời, khi
xã hội càng phát triển thì các tranh chấp dân sự càng gia tăng và phát triển hơn về
tính chất, mức độ tranh chấp. Có những vụ án mà việc xét xử kéo dài hàng chục
năm, Tòa án phải xét xử nhiều lần, qua nhiều phiên tòa, không những mất thời gian,
tốn công sức, tiền của mà còn đánh mất niềm tin của nhân dân vào hệ thống Tòa án,
vào Nhà nước. Do đó, không chỉ dừng lại ở việc quy định nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử trong TTDS mà còn cần hoàn thiện hơn các quy định của pháp
luật, các thủ tục tố tụng, cũng như công tác tổ chức Tòa án nhằm phát huy hơn nữa
hiệu quả của nguyên tắc. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quan điểm được Bộ
Chính trị xác định tại Nghị quyết 48-NQ/TW “trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về

tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân, bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp
luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của toà án sơ thẩm và
toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử”. Bởi vậy, việc nghiên cứu
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cả về phương diện lý luận và thực tiễn
thực hiện là hoàn toàn cần thiết. Trên cơ sở đó, tôi chọn đề tài “Nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc
cơ bản của TTDS và pháp luật tố tụng nói chung. Việc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử được tái quy định trong Luật Tổ chức TAND năm 2002 và BLTTDS năm 2004,
từ đó đến nay, chưa có công trình nghiên cứu một cách hệ thống về lý luận, những
bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện nguyên tắc cũng như thực tiễn thi hành nguyên
tắc này trong TTDS. Tuy nhiên, cũng đã có những bài viết, những công trình nghiên
cứu của một số tác giả đề cập một cách trực tiếp hay gián tiếp đến nguyên tắc này
dưới các góc độ khác nhau như: bài viết của tác giả Trần Văn Độ “Nguyên tắc hai
cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các cấp”, trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2007; bài viết “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
- cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự” đăng trên Tạp chí Nghiên


3

cứu lập pháp số 8/2010 của tác giả Nguyễn Quang Hiền; Luận án Tiến sĩ “Phân cấp
thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” của TS. Lê Thu Hà, Luận án Tiến sĩ “Phiên tòa sơ thẩm Dân sự
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Bùi Thị Huyền, Luận án Tiến sĩ “Phúc
thẩm trong Tố tụng Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Thu Hà. Những công
trình nghiên cứu trên đây hầu như chưa đề cập đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn, cần có sự nghiên cứu sâu

sắc hơn nữa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong TTDS, những quy định của pháp
luật hiện hành về nguyên tắc này, thực tiễn thi hành, áp dụng nguyên tắc, đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguyên tắc. Với các mục đích này, việc
nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp
xét xử trong TTDS;
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc thực hiện
chế độ hai cấp xét xử trong TTDS;
- Khảo sát thực tiễn thi hành, áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp
xét xử trong TTDS;
- Phát hiện những bất cập, thiếu sót trong quá trình thi hành, áp dụng
nguyên tắc; từ đó tìm ra các phương pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử, quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành
về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử; thực tiễn thi hành nguyên tắc (thực
tiễn xét xử các VADS ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm) trong những năm gần đây.


4

Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu về nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong hoạt động giải quyết, xét xử các VADS và tập
trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các quan điểm lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp
xét xử trong TTDS;

- Nghiên cứu chủ yếu các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong TTDS Việt Nam, tham khảo một số quy định
của pháp luật nước ngoài về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử;
- Nghiên cứu thực tiễn thi hành, áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử trong việc xét xử các VADS những năm gần đây (2010-2014); nghiên
cứu các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về Nhà
nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành
như phương pháp lịch sử, hệ thống, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và các
phương pháp xã hội học như lấy số liệu, sử dụng các kết quả thống kê.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử trong Tố tụng Dân sự Việt Nam;
Chương 2: Quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử;
Chương 3: Thực tiễn thi hành nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
trong Tố tụng Dân sự và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả nguyên tắc.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN
CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
trong Tố tụng Dân sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố
tụng dân sự
“Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam là những tư tưởng pháp lý
chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự”[52, tr. 36]. BLTTDS
hiện nay quy định một hệ thống các nguyên tắc tại Chương II, bao gồm 23 nguyên
tắc, nhằm điều chỉnh các hoạt động TTDS. Các nguyên tắc này chính là những tư
tưởng pháp lý cơ bản, mang tính chỉ đạo và làm cơ sở cho việc xây dựng và thực
hiện PLTTDS.
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc
cơ bản của PLTTDS nói riêng và pháp luật tố tụng Việt Nam nói chung. Các ngành
luật tố tụng khác nhau có những đặc điểm khác nhau, đồng thời có cũng có những
nguyên tắc đặc thù chi phối hoạt động tố tụng của ngành đó. Tuy nhiên nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử tồn tại trong toàn bộ hệ thống pháp luật tố tụng
nước ta, là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, mang tính chỉ đạo, định hướng
cho tổ chức hoạt động tố tụng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, xét xử là hoạt động “xem xét và xử các vụ án”
[57, tr. 1148].
Theo Từ điển Luật học, xét xử là: “hoạt động xem xét, đánh giá bản chất
pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ
việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất,
mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh
doanh, thương mại, lao động, hành chính..) [56, tr. 869].


6

Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, xét xử là “hoạt

động của Tòa án tại phiên Tòa để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử
lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án” [14, tr.24].
Như vậy, xét xử trước hết được hiểu là hoạt động của Tòa án – cơ quan
trong bộ máy nhà nước, được giao thực hiện chức năng tư pháp của Nhà nước. Mỗi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định; và Tòa án
là cơ quan được Nhà nước giao thực hiện chức năng tư pháp, với thẩm quyền xét xử
nhân danh Nhà nước. Xét xử là hoạt động đặc trưng của Tòa án, được tiến hành
theo một trình tự, thủ tục và những nguyên tắc nhất định nhằm giải quyết các vụ án
khác nhau về dân sự, hình sự, hành chính; mà kết quả được thể hiện dưới dạng một
bản án hay quyết định. Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với
những người tham gia tố tụng, những cơ quan, tổ chức có liên quan và được đảm
bảo thực hiện chủ yếu bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là nguyên tắc chỉ đạo, thể hiện
quan điểm của Nhà nước trong hoạt động tố tụng, nhằm đảm bảo việc xét xử các vụ
án được chính xác, khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Để đảm bảo nguyên tắc này, PLTTDS quy định các thủ tục tố tụng và tổ chức hệ
thống Tòa án theo cấp xét xử. Các VADS được xét xử lần đầu ở cấp xét xử thứ nhất
là cấp sơ thẩm; nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì có thể
được xét xử lại một lần duy nhất ở cấp phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm sẽ
có hiệu lực pháp luật (HLPL) ngay sau khi tuyên án hay ra quyết định và không thể
bị kháng cáo, kháng nghị yêu cầu xét xử lại một lần nữa. Tuy nhiên nếu phát hiện
có vi phạm pháp luật hoặc có sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án thì bản án,
quyết định đã có HLPL có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm bởi những người có thẩm quyền.
Về khái niệm xét xử sơ thẩm, hiện tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, sơ thẩm là “xét xử một vụ án với
tư cách là Tòa án ở cấp xử thấp nhất” [57, tr. 869].


7


Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, xét xử sơ thẩm là
“xét xử lần đầu, bản án và quyết định của Tòa án sơ thẩm sau khi tuyên án 15 ngày,
nếu không có kháng cáo và kháng nghị theo quy định của pháp luật thì sẽ có HLPL
được thi hành” [14, tr. 482].
Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội lại
cho rằng sơ thẩm là xét xử lần đầu để giải quyết tất cả những vấn đề liên quan trong
vụ án. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án xem xét và giải quyết mọi vấn đề của vụ án bằng
việc ra bản án và quyết định. Hội đồng xét xử (HĐXX) có Hội thẩm nhân dân tham
gia. Trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, bản án và quyết định sơ thẩm chưa có
HLPL có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm [51, tr. 220-221].
Trong các cách giải thích nêu trên, quan điểm được trích từ Từ điển Giải
thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội là hợp lý nhất khi đưa ra
được những đặc điểm, đặc trưng cơ bản của xét xử sơ thẩm: là việc xét xử lần đầu
một vụ án và bản án, quyết định của lần xét xử này chưa có HLPL ngay. Như vậy,
có thể hiểu xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án dân sự. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa
án giải quyết mọi vấn đề của vụ án bằng việc ra bản án và quyết định. Bản án và
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại tại
Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
PLTTDS quy định bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm sau khi
tuyên án, ra quyết định chưa có HLPL ngay, đồng thời bản án, quyết định này có
thể bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. Nếu bản án, quyết định bị
kháng cáo, kháng nghị sẽ được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Cũng giống như khái niệm sơ thẩm, hiện nay cũng tồn tại khá nhiều quan
điểm về khái niệm xét xử phúc thẩm. Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học
giải thích: “phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã
xử sơ thẩm mà có chống án” [57, tr. 790-791].
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, phúc thẩm là việc “Tòa án cấp
trên trực tiếp xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL của Tòa án cấp dưới
bị kháng cáo hoặc kháng nghị”[51, tr. 209-210].



8

Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, xét xử phúc thẩm là
xét lại bản án hay quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật. Bản án, quyết định của Tòa phúc thẩm có HLPL ngay khi tuyên án [14,
tr. 482].
Các khái niệm trên đây tuy đã nêu được phần nào đặc điểm của xét xử phúc
thẩm, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ. Để đưa ra một khái niệm hợp lý về xét xử phúc
thẩm, phải xem xét đầy đủ các phương diện của nó, đặc biệt là trong mối quan hệ
với xét xử sơ thẩm – cấp xét xử thử nhất.
Thứ nhất, xét xử phúc thẩm là việc xét xử lại VADS đã được xét xử ở cấp
sơ thẩm, trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm trong thời hạn luật định, không phải xét xử lần thứ hai một VADS. “VADS
sau khi xét xử ở cấp sơ thẩm không đương nhiên được tiếp tục xét xử ở cấp phúc
thẩm và Tòa án cũng không đương nhiên xét xử lại toàn bộ nội dung vụ án” [8, tr.
25]. Việc xét xử phúc thẩm chỉ tiến hành đối với những vụ án mà bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn quy định của pháp
luật. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử những nội dung, những vấn đề đã
được xét xử ở cấp sơ thẩm và trên cơ sở nội dung của kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm.
Thứ hai, phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai và cuối cùng; bản án, quyết định
phúc thẩm sẽ có HLPL ngay sau khi tuyên. Bởi vậy việc xét xử ở cấp phúc thẩm là
xét xử lại nội dung vụ án, đồng thời cũng là để kiểm tra tính hợp pháp của bản án,
quyết định sơ thẩm. Việc quy định xét xử phúc thẩm là để tránh và kịp thời khắc
phục, xử lý những sai sót có thể xảy ra xảy ra trong quá trình giải quyết VADS,
đảm bảo tính chính xác, hợp pháp của bản án, quyết định trước khi được đưa ra thi
hành.
Từ những phân tích trên, khái niệm xét xử phúc thẩm có thể được hiểu như

sau: Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại VADS mà một phần
hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét,


9

giải quyết vụ án theo nội dung kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên.
Suy cho cùng, xét xử “là hoạt động chủ yếu dựa trên tư duy của các thành
viên HĐXX” [15, tr.17], mà hoạt động tư duy này chỉ diễn ra trong một thời gian
nhất định theo quy định của pháp luật, song kết quả của hoạt động xét xử lại là
những bản án, quyết định ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các chủ thể có liên
quan. Để đưa ra bản án, quyết định chính xác, đòi hỏi việc xét xử phải thận trọng,
chính xác, khách quan. Để làm được điều này, pháp luật tố tụng đã quy định việc
xét xử một VADS được thực hiện ở các cấp khác nhau, cùng với tổ chức hệ thống
Tòa án, thủ tục tố tụng tương ứng. Như vậy việc xét xử có thể đạt được hiệu quả cao
nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như lợi ích của Nhà nước được
bảo đảm một cách tối đa.
Về khái niệm “cấp xét xử”, cấp xét xử là một vấn đề thường xuyên được
nhắc tới trong PLTTDS nói riêng hay trong hệ thống pháp luật tố tụng nói chung và
tổ chức hệ thống Tòa án, nhưng khái niệm “cấp xét xử” lại chưa được đề cập nhiều
trong khoa học pháp lý. Trong khoa học pháp lý Liên Xô cũ, cấp xét xử được xem
như là “giai đoạn xem xét vụ án tại Tòa án với thẩm quyền xác định” [50, tr.46].
Tuy nhiên, quan niệm này sẽ dẫn đến cách hiểu sai về cấp xét xử, từ quan điểm này
thì có thể hiểu giám đốc thẩm, tái thẩm là cấp xét xử thứ ba.
TS. Vũ Gia Lâm đã đưa ra khái niệm cấp xét xử như sau: “Cấp xét xử là
hình thức tổ chức tố tụng để xét xử và xét xử lại các vụ án, hình thức tổ chức tố tụng
này được đảm bảo thực hiện bằng việc quy định các thủ tục tố tụng cụ thể và tổ
chức hệ thống Tòa án có thẩm quyền xét xử theo các thủ tục tố tụng xét xử khác

nhau, nhằm xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động… được
đúng đắn, khách quan” [15, tr. 21]. Đây là một khái niệm khá đầy đủ và hợp lý khi
xem xét “cấp xét xử” với các góc độ về thủ tục tố tụng, cách thức tổ chức tố tụng và
tổ chức hệ thống Tòa án để thực hiện việc xét xử một VADS. Từ khái niệm này, hai
cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm có thể được hiểu như sau:


10

Cấp sơ thẩm là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử lần đầu VADS. Bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại
một lần nữa ở cấp phúc thẩm.
Cấp phúc thẩm là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử lại VADS mà bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Bản án,
quyết định phúc thẩm có HLPL ngay sau khi tuyên.
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử không phải là một nguyên tắc
mới và chỉ có trong quy định của PLTTDS nước ta. Đây là một nguyên tắc được
quy định khá phổ biến trong hệ thống pháp luật tố tụng nói chung và PLTTDS nói
riêng của nhiều nước trên thế giới. Các nước theo truyền thống tố tụng xét xử như
Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga, Trung Quốc… áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng. Theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm sau khi tuyên chưa có HLPL
ngay và các đương sự có thể kháng cáo, VKS có thể kháng nghị một phần hoặc toàn
bộ bản án, quyết định trong thời hạn luật định để yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét
lại theo thủ tục phúc thẩm trừ một số trường hợp pháp luật có quy định khác. Ở các
nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng như Anh, Hoa Kỳ… lại không áp dụng
nguyên tắc hai cấp xét xử, mà ngược lại áp dụng nguyên tắc chung thẩm, nghĩa là
các bản án, quyết định sau khi tuyên sẽ có HLPL ngay. Nếu các đương sự không
thỏa mãn với bản án, quyết định sơ thẩm, cho rằng có những vi phạm về thủ tục tố
tụng hoặc những sai lầm về mặt pháp lý thì đương sự có kháng cáo yêu cầu Tòa
phúc thẩm xem xét lại. Tuy nhiên tòa phúc thẩm cũng chỉ xem xét lại về mặt pháp

lý và thủ tục chứ không xét xử lại những nội dung vụ án đã được quyết định tại Tòa
sơ thẩm.
Về khái niệm “chế độ”, theo từ điển Luật học, chế độ là “hệ thống các quy
định pháp luật cần phải được tuân thủ trong một quan hệ xã hội nhất định nhằm đạt
được mục đích nhất định” [56, tr. 122]. Chế độ hai cấp xét xử được hiểu là hệ thống
các quy định của pháp luật tố tụng về hai cấp xét xử trong tổ chức, hoạt động tố
tụng. Từ các khái niệm nguyên tắc TTDS, xét xử, cấp xét xử đã đề cập trên đây, có
thể đưa ra khái niệm nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử như sau:


11

Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự là tư
tưởng chỉ đạo, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của
Nhà nước trong việc thực hiện hệ thống quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tổ
chức tố tụng để xét xử các vụ án dân sự. Trong đó xác định một vụ án dân sự được
xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) có thể được xét xử lại ở cấp phúc
thẩm (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự, nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Bản án, quyết
định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố
tụng dân sự
1.1.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Thứ nhất, đối với Tòa án, việc quy định thực hiện chế độ hai cấp xét xử
nhằm bảo đảm tính chính xác và đúng đắn cho việc xét xử của Tòa án cũng như
đảm bảo tính chính xác, khách quan của các bản án, quyết định khi thi hành trên
thực tế.
Việc xét xử của Tòa án không phải lúc nào cũng hoàn toàn chính xác,
những sai lầm hoàn toàn có thể xảy ra. Việc quy định một VADS có thể được xét

xử hai cấp là tạo cơ hội cho Tòa án kịp thời sửa chữa những sai lầm của mình và
bảo đảm kết quả của việc xét xử đạt được sự khách quan, chính xác cao nhất. Khi
xét xử lại VADS ở cấp phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại nội dung vụ án
trên cơ sở nội dung của kháng cáo, kháng nghị; tìm ra những điểm sai, những thiếu
sót; Tòa án có thể sửa, hủy một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm, ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án, từ đó có thể kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi
phạm pháp luật trong quá trình xét xử ở cấp sơ thẩm, để bản án, quyết định cuối
cùng, có HLPL phải mang tính hợp pháp, công bằng, khách quan cao nhất. Không
chỉ vậy, ngay cả đối với bản án, quyết định đã có HLPL nếu phát hiện có sai lầm sẽ
được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Khi vụ án được xét xử lại ở
cấp phúc thẩm hay được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, có thể tìm ra


12

những vi phạm pháp luật và những nguyên nhân dẫn đến sai lầm của cơ quan tố
tụng, từ đó tìm ra giải pháp khắc phục, sửa chữa sai lầm, đồng thời rút kinh nghiệm
và hoàn thiện hơn công tác xét xử cũng như các hoạt động tố tụng của Tòa án.
Thêm vào đó, việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
cũng đồng thời trao cho đương sự và Viện kiểm sát (VKS) quyền giám sát cũng như
nghĩa vụ hỗ trợ hoạt động xét xử của Tòa án thông qua quyền kháng cáo của đương
sự, quyền kháng nghị của VKS. Bản thân Tòa án không thể trong thời gian ngắn
nhìn ra sai lầm của chính mình. Kháng cáo của đương sự và kháng nghị của VKS
chính là cơ sở cho hoạt động xét xử ở cấp phúc thẩm, chỉ ra những sai sót trong quá
trình xét xử ở cấp sơ thẩm, từ đó mà Tòa án dễ dàng thấy được sai lầm trong hoạt
động xét xử của mình, kịp thời sửa chữa những sai lầm đó.
Thứ hai, đối với đương sự, việc bảo đảm tính chính xác, khách quan của
hoạt động xét xử cũng như của các bản án, quyết định của Tòa án cũng là đảm bảo
quyền và lợi ích cho đương sự. Đồng thời, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử cho phép đương sự thể hiện quan điểm, thái độ của mình đối với bản án, quyết

định của Tòa án, tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự không được Tòa án cấp sơ
thẩm bảo vệ hay nói cách khác, bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa
đảm bảo đúng đắn, chính xác, khách quan, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự, thì bản thân các đương sự có quyền kháng cáo bản án,
quyết định sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại một lần nữa những
phần, những nội dung mà các đương sự cho rằng chưa đúng, chưa chính xác. Tuy
quyết định cụ thể về việc giải quyết VADS của HĐXX phụ thuộc phần lớn vào khả
năng chứng minh của đương sự, nhưng quyền phán quyết vẫn thuộc về Tòa án, bản
án, quyết định của Tòa án mới là kết quả cuối cùng, có ý nghĩa pháp lý và được thi
hành trên thực tế. Việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử hay cụ
thể hơn là quy định quyền kháng cáo của các đương sự thể hiện quan điểm của Nhà
nước trong việc trao cho đương sự quyền năng cho phép đương sự tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc trực tiếp đánh giá, trực tiếp thể hiện


13

quan điểm, thái độ của mình đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết lại VADS.
1.1.2.2. Ý nghĩa chính trị, xã hội
Ý nghĩa chính trị: việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử trong TTDS đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với việc đảm
bảo các quyền và lợi ích của công dân, đảm bảo dân chủ, đảm bảo sự công bằng,
nghiêm minh, đúng đắn, khách quan của pháp luật, thể hiện nhận thức khoa học về
hoạt động của Tòa án phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về bản chất, hoạt động xét xử là hoạt động nhận thức thế giới khách quan,
qua các tài liệu thực tế, từ đó đánh giá và kết luận về bản chất của sự việc. Nhận
thức của con người là một quá trình vận động và phát triển, vì vậy không phải nhận
thức của con người luôn đúng từ lần đầu tiên. Dựa trên quy luật của nhận thức, pháp

luật tố tụng quy định chế độ hai cấp xét xử nhằm đảm bảo tính đúng đắn, khách
quan của hoạt động xét xử. Tòa án là cơ quan được Nhà nước giao thực hiện chức
năng tư pháp, với thẩm quyền xét xử nhân danh Nhà nước. Hoạt động xét xử được
thực hiện một cách đúng đắn, khách quan là nhằm bảo vệ một cách triệt để nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, qua đó thể hiện bản chất của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong TTDS còn thể hiện sự
bảo đảm thực hiện quyền con người trong lĩnh vực tư pháp, thực hiện nhiệm vụ của
Tòa án theo Hiến pháp 2013 về bảo vệ quyền con người. Việc quy định hai cấp xét
xử tạo điều kiện để các chủ thể tham gia tố tụng bảo vệ các quyền và lợi ích của
mình một cách triệt để hơn. Những người tham gia tố tụng có khả năng trực tiếp bảo
vệ quyền, lợi ích của mình tại phiên tòa nhiều lần hơn, cũng có thể thể hiện thái độ
của mình đối với bản án, quyết định của Tòa án thông qua quyền kháng cáo. Bên
cạnh đó, việc quy định thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong TTDS cũng giúp cho
người tham gia tố tụng nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp, hợp tác tích cực với các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý và cũng
là để bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình.


14

Ý nghĩa xã hội: Việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
trong TTDS góp phần lớn vào việc đảm bảo công bằng xã hội, góp phần củng cố
lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của Tòa án,
các cơ quan tiến hành tố tụng và của Nhà nước. Việc xét xử là nhằm bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong một số trường hợp là lợi ích Nhà nước,
lợi ích chung của xã hội, thông qua việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án,
từ đó mà bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Khi sự công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp được đảm bảo thì sẽ giữ vững được
lòng tin của nhân dân vào Tòa án, các cơ quan tiến hành tố tụng và Nhà nước.

1.2. Cơ sở của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Tố
tụng Dân sự
- Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án được chính xác,
khách quan
Tòa án là cơ quan được Nhà nước giao thực hiện chức năng tư pháp, với
thẩm quyền xét xử nhân danh Nhà nước. Hoạt động xét xử của Tòa án là sự thể hiện
quan điểm, thái độ của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo vệ lợi ích công cộng và cả lợi ích của Nhà nước; bản án, quyết định
của Tòa án là “tuyên ngôn công lý” nhân danh Nhà nước. Thêm nữa, kết quả hoạt
động xét xử của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của công dân, các cơ
quan, tổ chức, lợi ích cộng cộng, lợi ích xã hội và cả lợi ích của Nhà nước. Bởi vậy
việc hoạt động xét xử nhất định phải đảm bảo tính chính xác, khách quan. Nguyên
tắc thực hiện chế độ hai cáp xét xử được ra đời cũng nhằm mục đích đảm bảo sự
chính xác, khách quan cho việc xét xử của Tòa án.
Thẩm phán mặc dù được đào tạo chuyên môn về luật pháp, có kinh nghiệm
xét xử nhưng dù sao vẫn là những con người bình thường, tức là cũng có thể mắc
những sai lầm do trình độ, nhận thức hoặc cảm tính cá nhân, thêm vào đó là những
nguyên nhân khách quan khác nữa khiến cho việc xét xử không phải lúc nào cũng
đạt được sự khách quan, chính xác ngay từ lần đầu tiên. Sẽ là rất tốt nếu như việc
xét xử đạt được kết quả “hoàn hảo” chỉ trong một lần, một cấp xét xử, chắc chắn


15

đây là điều mà bất cứ một thẩm phán, đương sự hay những người tham gia tố tụng
nào cũng mong đạt được. Tuy nhiên sức người có hạn, xã hội lại luôn biến đổi, cùng
với đó là những yếu tố khách quan không thể lường trước và nhiều những nguyên
nhân khác nữa làm cho việc xét xử không đảm bảo được sự chính xác, khách quan.
Vì lẽ đó, cần quy định cấp xét xử thứ hai nhằm mục đích cho Tòa án làm rõ, khắc
phục, sửa chữa kịp thời những sai lầm của mình, để bản án, quyết định có HLPL,

được đưa ra thi hành trên thực tế phải đạt được tính chính xác, khách quan cao nhất.
Bên cạnh việc cho phép Tòa án khắc phục, sửa chữa kịp thời những sai sót của
mình trong hoạt động xét xử đối với VADS đã có sai lầm đó, việc nhìn ra sai lầm
của mình cũng là cơ hội cho các Thẩm phán, các thành viên HĐXX có thêm kinh
nghiệm để từ đó hoàn thiện hơn chuyên môn của mình và hoàn thiện hơn hoạt động
xét xử của Tòa án. Không chỉ dừng lại ở đó, ngay cả khi bản án, quyết định đã có
HLPL vẫn có thể bị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm khi phát hiện có sai lầm, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án luôn chính
xác, khách quan, cũng như hoàn thiện hoạt động xét xử của Tòa án.
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của
đương sự.
Hoạt động xét xử diễn ra trên cơ sở giải quyết các tranh chấp theo yêu cầu
của các đương sự. Khi các tranh chấp dân sự xảy ra, quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự sẽ có nguy cơ bị xâm hại và họ cần Tòa án giải quyết các tranh chấp
này để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Các đương sự nhờ vào hoạt động xét xử
của Tòa án mà kết quả cuối cùng là bản án, quyết định của tòa làm cơ sở để bảo vệ,
để giành lại quyền, lợi ích của mình. Hoạt động xét xử, như đã nói ở trên, không
phải lúc nào cũng hoàn toàn chính xác, khách quan. Một khi hoạt động xét xử mắc
phải sai sót thì quyền, lợi ích của các đương sự không những không được đảm bảo
mà thậm chí bị xâm phạm. Việc quy định nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử trước
hết là nhằm mục đích để Tòa án kịp thời sửa chữa sai lầm của mình, từ đó đưa ra
được bản án, quyết định đúng đắn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
đương sự.


16

Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích cho các đương sự thông qua hoạt động xét xử,
mà kết quả là các bản án, quyết định của Tòa án. Đồng thời các đương sự không
hoàn toàn thụ động trong việc chờ Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Trong quá trình Tòa án xét xử VADS, đương sự cũng tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình thông qua hoạt động tự chứng minh, tuy nhiên, quyết định cuối
cùng vẫn phụ thuộc vào HĐXX. Kết quả này có thể không phải là kết quả mà
đương sự mong muốn, hoặc đương sự cho rằng bản án, quyết định của Tòa án chưa
bảo vệ được hay chưa bảo vệ toàn diện quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bởi vậy,
về phía đương sự, họ cần có quyền thể hiện quan điểm, thái độ của mình đối với
bản án, quyết định của Tòa án, và cũng cần phải có Tòa án có thẩm quyền xét xử lại
VADS khi đương sự không chấp nhận bản án, quyết định của Tòa án để đương sự
tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Để bảo vệ triệt để hơn quyền và lợi ích của các đương sự, nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử còn cho phép xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đảm bảo không có cũng như ngăn chặn bản
án, quyết định thiếu chính xác, thiếu khách quan thi hành trên thực tế gây ảnh
hưởng xấu, xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của đương sự.
- Xuất phát từ thực tiễn xét xử
Xã hội càng phát triển thì các quan hệ xã hội, các quan hệ pháp luật càng
nhiều hơn, phát triển phúc tạp hơn. Các tranh chấp dân sự cũng theo đó mà phát
triển cả về loại tranh chấp và tính chất phức tạp của các tranh chấp. Bởi vậy, việc
xét xử, giải quyết các VADS không phải vụ án cũng giống nhau, không phải tranh
chấp nào cũng giải quyết được một cách nhanh, gọn và không phải bao giờ cũng
đảm bảo được tính đúng đắn, chính xác, khách quan của các bản án, quyết định.
Thực tiễn xét xử nhiều năm cho thấy số lượng án hủy, án sửa vẫn luôn tồn
tại đáng kể. Điều này có nghĩa là hoạt động xét xử chưa đảm bảo tính chính xác,
khách quan, đi đôi với nó là bản án, quyết định của Tòa án cũng chưa đạt tính đúng
đắn, chính xác, chưa có sức thuyết phục đối với đương sự. Cùng với đó là tính chất
phức tạp của các VADS càng cao làm cho việc giải quyết vụ án càng trở nên khó


17


khăn, thực tế có những vụ án mà việc xét xử kéo dài trong nhiều năm, bản án của
Tòa án bị hủy đi, xét xử lại nhiều lần. Bởi vậy, yêu cầu hàng đầu là phải làm sao để
bản án, quyết định của Tòa án đạt được tính chính xác, khách quan cao nhất.
Một khi bản án, quyết định của Tòa án có HLPL và được thi hành sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của các đương sự, những người có liên quan,
trong nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, lợi ích xã hội và lợi
ích Nhà nước. Không thể cứ xét xử, cứ đưa bản án, quyết định ra thi hành rồi thấy
sai mới sửa, thấy sai mới hủy. Kể cả khi bản án, quyết định chưa được đưa ra thi
hành nhưng việc bản án, quyết định của Tòa án thiếu tính chính xác, khách quan
cũng thể hiện sự yếu kém của cơ quan tố tụng, làm mất lòng tin của nhân dân đối
với hoạt động xét xử của Tòa án, đối với Tòa án và đối với Nhà nước. Chính vì vậy,
việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử rất quan trọng và hết sức
cần thiết trong hoạt động xét xử của Tòa án.
1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử với các
nguyên tắc khác trong của luật tố tụng dân sự
Để việc tổ chức và thực hiện xét xử của Tòa án đạt hiệu quả cao đòi hỏi
phải thực hiện tốt các nguyên tắc tố tụng. Các nguyên tắc tố tụng luôn được đặt
trong mối liên hệ với nhau, không thể tách rời và cùng nhau điều chỉnh các hoạt
động tố tụng. Mối liên hệ giữa nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử với các
nguyên tắc cơ bản khác của luật TTDS được thể hiện rõ nét nhất như sau:
- Mối liên hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là vấn đề cơ bản của
TTDS, là quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích của mình
và tự lựa chọn những biện pháp để bảo vệ các quyền, lợi ích đó. Nội dung của
nguyên tắc này là việc xác định quyền của đương sự trong việc “tự quyết định việc
tham gia tố tụng, tự quyết định quyền và lợi ích của họ trong TTDS theo quy định
của pháp luật và trách nhiệm của Tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của
đương sự, trừ trường hợp pháp luật có yêu cầu khác” [52, tr.48]. Mối liên hệ giữa



18

nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và nguyên tắc quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, VADS được xét xử trên cơ sở khởi kiện của đương sự. Đương sự
tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền xét xử VADS. Toà án
chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện, và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn
khởi kiện đó. Khi có kháng cáo, kháng nghị, vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm
và khi xét xử, Tòa án cấp chỉ xét xử lại những nội dung trong phạm vi kháng cáo,
kháng nghị, không được vượt quá nội dung kháng cáo, kháng nghị và nội dung khởi
kiện ban đầu. Đồng thời, trong quá trình xét xử, đương sự có quyền chấm dứt, thay
đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận về việc giải quyết vụ án.
Thứ hai, sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, đương sự có quyền kháng cáo bản
án, quyết định chưa có HLPL của Tòa án cấp sơ thẩm. Việc kháng cáo của đương
sự dựa trên thái độ, quan điểm của đương sự đối với bản án, quyết định sơ thẩm và
hoàn toàn do đương sự tự quyết định, tự định đoạt việc kháng cáo.
- Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự xác định việc bảo đảm
đương sự có thể tự bảo vệ hoặc ủy quyền cho người khác bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình; Toà án có trách nhiệm thực hiện các biện pháp, hoạt động cần
thiết bảo đảm cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên tắc
bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự được thể hiện trong thực hiện chế độ hai cấp
xét xử qua quy định đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có HLPL và Tòa án có thẩm quyền phải xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Khi đương sự cho rằng bản án, quyết định sơ thẩm chưa bảo vệ đầy đủ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay không đồng tình, không “thỏa mãn” với bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, đương sự có thể tự bảo vệ quyền, lợi ích của
mình thông qua quyền kháng cáo. Quyền kháng cáo của đương sự cho phép đương
sự thể hiện quan điểm, thái độ của mình đối với bản án, quyết định sơ thẩm; đồng

thời yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét xử lại vụ án hay cụ thể là những nội dung,
những phần của bản án theo kháng cáo của đương sự. Việc xét xử phúc thẩm tạo


19

điều kiện cho đương sự được tham gia tố tụng một lần nữa ở Tòa án để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trách nhiệm của cơ Tòa án khi đương sự có kháng
cáo, không thỏa mãn với bản án, quyết định sơ thẩm là tiếp nhận, xem xét và xét xử
lại VADS theo thủ tục phúc thẩm.
- Mối liên hệ với nguyên tắc giám đốc việc xét xử
Nội dung của nguyên tắc giám đốc việc xét xử xác định Toà án cấp trên
giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao (TANDTC)
giám đốc việc xét xử của Toà án các cấp. Hoạt động xét xử muốn thực hiện tốt cần
có sự giám sát, đôn đốc của những người, của cơ quan có thẩm quyền.
Trong quá trình Tòa án xét xử VADS, dù là xét xử ở cấp sơ thẩm hay phúc
thẩm, luôn chịu sự giám sát của Tòa án cấp trên nhằm đảm bảo hoạt động xét xử
chính xác, khách quan, trên cơ sở đó bảo vệ tốt quyền, lợi ích chính đáng của các
đương sự. Đồng thời, trong nội dung nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
cũng quy định rõ: bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL mà phát hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm. Việc xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm cũng thể hiện hoạt động giám sát của Tòa án.
1.4. Khái quát lịch sử nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong
Tố tụng Dân sự Việt Nam
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án. Ngày 24/1/1946, Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 13/SL quy định về “Tổ
chức của Tòa án và các ngạch Thẩm phán”. Cũng quy định về tổ chức hệ thống Tòa

án bấy giờ, Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định như sau: “Các cơ quan tư pháp
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có:
a)

Tòa án tối cao.

b)

Các Tòa phúc thẩm.

c)

Các Tòa đệ nhị cấp và sơ cấp”. [18]


20

Hiến pháp năm 1946 và Sắc lệnh 13/SL cũng đã quy định các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, trong thời kì này, chế độ hai cấp
xét xử chưa chính thức được quy định thành một nguyên tắc tố tụng cụ thể mặc dù
nó đã xuất hiện trong hệ thống tổ chức Tòa án và các quy định về thẩm quyền xét
xử của Tòa án lúc đó. Với việc tổ chức Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa phúc
thẩm và quy định thẩm quyền xét xử cho các Tòa án này theo các thủ tục tố tụng xét
xử khác nhau cho thấy chế độ hai cấp xét xử đã bước đầu được thực hiện.
Ngày 17/4/1946 Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh
số 51/SL “Ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên
trong Tòa án”. Sắc lệnh 51/SL đã quy định khá rạch ròi về thẩm quyền xét xử của
các Tòa án thời kì này. Sắc lệnh này quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Tòa
án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm; đồng thời quy định rõ thẩm quyền
xử của Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp đối với các loại việc khác nhau như về hình

sự, về dân sự và thương sự, thẩm quyền của Tòa thượng thẩm là quyền xét xử
những việc kháng cáo án sơ thẩm của các toà đệ nhị cấp. Như vậy qua quy định Sắc
lệnh 51/SL về thẩm quyền của các Tòa án có thể thấy rõ hệ thống xét xử theo hai
cấp của Tòa án lúc đó.
Ngày 19//8/1955, Bộ Tư pháp ra thông tư số 1459/HCTP trong đó có xác
định “Nguyên tắc hai lần xét xử là một trong các nguyên tắc tố tụng của nhân dân
cần phải được bảo đảm” [41, tr. 41]. Đây là một trong những quy định đầu tiên tạo
tiền đề cho việc đưa nguyên tắc hai cấp xét xử trở thành một nguyên tắc tố tụng
trong hệ thống pháp luật tố tụng nước ta. Ở thời kì này, tuy chưa có quy định cụ thể
nhưng chế độ hai cấp xét xử đã bước đầu được thực hiện trong pháp luật nước ta.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
Hiến pháp năm 1959 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1946 đã xác định lại vị
trí của TAND và VKS nhân dân trong bộ máy nhà nước. Theo quy định Điều 104,
Điều 108 Hiến pháp năm 1959, TAND và VKS nhân dân trở thành cơ quan Nhà
nước độc lập, thực hiện quyền lực của Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, chịu trách
nhiệm trực tiếp và báo cao công tác trước Quốc hội.


×