Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.29 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI NGUYỄN KHÁNH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ HOÀN TRẢ
TIỀN VAY NGÂN HÀNG BẰNG
HÌNH THỨC BẢO LÃNH

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2014





LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nƣớc ta. Nó đóng vai trò quyết định
đến sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế đất nƣớc. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho
nền kinh tế, Nhà nƣớc cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy động tối


đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong bối cảnh thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam còn rất nhỏ bé, nguồn vốn huy động bằng con đƣờng tài chính trực
tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn thực
của nền kinh tế thì việc huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại
vẫn là chủ yếu.
Để có thể tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, chủ thể vay vốn phải đáp
ứng đƣợc những điều kiện theo quy định của pháp luật nói chung và của từng
Ngân hàng cụ thể nói riêng, trong đó vấn đề đƣợc quan tâm nhất là sự bảo đảm
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt
cọc, ký cƣợc, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp (Điều 318). Đây là những biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực mà pháp luật Việt Nam quy định,
nhƣng trong hoạt động ngân hàng, các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả
tiền vay ngân hàng thƣờng áp dụng đó là cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo
lãnh, tín chấp.
Nhƣ vậy, theo quy định hiện hành thì TCTD có thể áp dụng rất nhiều
biện pháp bảo đảm tiền vay để bảo vệ quyền chủ nợ của mình. Tuy nhiên, việc
áp dụng biện pháp bảo đảm nào đối với mỗi khoản vay lại phụ thuộc vào các yếu
tố nhƣ kinh nghiệm của TCTD trong việc đánh giá rủi ro đối với khoản vay và
đánh giá tài sản bảo đảm, khả năng trả nợ của khách hàng… Tất cả các biện
pháp bảo đảm đó đều có ý nghĩa, tác dụng tốt nếu nó dẫn đến hệ quả là khách
hàng trả nợ đầy đủ đúng hạn theo nhƣ cam kết trong hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm tiền vay. Trong các hình thức đó, bảo lãnh là một trong những
hình thức đƣợc áp dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật ở
Việt Nam về nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình

1


thức bảo lãnh vẫn còn nhiều hạn chế. Điều đó đã dẫn đến một số bất cập trong

quá trình áp dụng các quy định này vào thực tiễn cho vay của ngân hàng.
Chính vì vậy, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu và chỉ ra những điểm còn hạn
chế, bất cập của chế định bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay ngân hàng bằng
bảo lãnh để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay
ngân hàng bằng bảo lãnh là việc làm cần thiết và hữu ích.
Xuất phát từ nhận thức nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu
vấn đề: “Pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động
ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến
các quy định của pháp luật về bảo lãnh, có thể là nghiên cứu về các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, hay đi sâu hơn là các biện pháp bảo đảm tiền
vay, bảo lãnh ngân hàng.
Trong số đó, đáng kể nhất là một số đề tài nghiên cứu ở cấp độ Luận văn
thạc sỹ dƣới đây:
- “Chế định bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng - thực trạng và giải
pháp” của tác giả Trần Thị Thu Thủy;
- “Bảo đảm tiền vay ngân hàng - thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc
sỹ Luật học của tác giả Lê Thu Hiền;
- “Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng”, Luận văn thạc sỹ Luật
học của tác giả Nguyễn Thành Long;
- “Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thƣơng mại Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Bùi Vân
Hằng…
Các công trình trên đây đều đã nghiên cứu những vấn đề pháp lý khác
nhau liên quan đến chế định bảo lãnh. Tuy nhiên, trong số đó có những đề tài
đƣợc nghiên cứu khi quy định mới về chế định bảo lãnh và giao dịch bảo đảm
chƣa đƣợc ban hành, hoặc có một số đề tài khác chỉ nghiên cứu về một trong

2



những vấn đề chuyên biệt nhƣ bảo lãnh ngân hàng. Do đó, việc nghiên cứu một
cách toàn diện hệ thống pháp luật về bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền
vay ngân hàng ở Việt Nam trong thời điểm hiện nay và phân tích những vƣớng
mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định này là rất cấp thiết, đảm bảo yêu cầu
về tính thời sự, tính mới và có ý nghĩa lớn về cả lý luận cũng nhƣ thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu làm rõ những đặc điểm của bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả
tiền vay trong ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh và các quy định pháp luật có
liên quan. Đánh giá khái quát thực trạng thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay
trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh theo quy định pháp luật Việt
Nam, những ƣu điểm, hạn chế, nguyên nhân tồn tại. Trên cơ sở đó, đề tài đƣa ra
một số giải pháp hữu hiệu, thiết thực góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả
tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh;
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng quy định pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh;
- Đánh giá khái quát những điểm đã đạt đƣợc, những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định pháp luật về
bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức
bảo lãnh;
- Đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật
về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức
bảo lãnh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài

3


Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các quy định về bảo lãnh của pháp luật
Việt Nam trên cơ sở so sánh với pháp luật nƣớc ngoài; những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay nói chung và về bảo đảm
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh
nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu, chỉ ra những bất cập và nghiên
cứu, để xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ hạn chế của một đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật,
tác giả luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận về bảo
đảm tiền vay ngân hàng bằng bảo lãnh, nội dung chế định bảo đảm tiền vay ngân
hàng bằng bảo lãnh, thực tiễn áp dụng chế định bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền
vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phƣơng pháp luận là phép duy vật biện chứng, tác giả triển
khai áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đây nhằm thực hiện đề tài:
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp;
- Phƣơng pháp so sánh, quy nạp;
- Phƣơng pháp thống kê, khảo sát thực tiễn;
Các vấn đề lý luận liên quan đến lĩnh vực bảo đảm tiền vay ngân hàng đã
đƣợc tổng hợp, đúc kết sẽ đƣợc sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu đề tài
cùng với việc vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên
quan đến hoạt động ngân hàng thƣơng mại để làm sâu sắc thêm các luận điểm
khoa học trong luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn

Thứ nhất, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh, gồm: khái
niệm, đặc điểm, vai trò, bản chất, chủ thể tham gia trong quan hệ bảo lãnh.
Thứ hai, luận văn đánh giá đƣợc thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm

4


nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó phân tích làm rõ những ƣu, nhƣợc điểm trong hoạt
động áp dụng pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động
ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh.
Thứ ba, luận văn đề xuất đƣợc một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế
định pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng
bằng hình thức bảo lãnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay
trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay
trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa
vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ HOÀN TRẢ

TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG BẰNG HÌNH THỨC
BẢO LÃNH
1.1. KHÁI LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ HOÀN TRẢ TIỀN VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG BẰNG HÌNH THỨC BẢO LÃNH
1.1.1. Khái niệm bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt động
ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh
1.1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay trong hoạt động ngân hàng
Ngay từ khi mới xuất hiện, ngân hàng đã hoạt động với vai trò nhƣ một
trung gian tài chính chuyển tiếp, thực hiện các nghiệp vụ trung gian về thanh
toán, tín dụng cho nền kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì nghiệp vụ ngân
hàng càng hiện đại, phong phú và phức tạp hơn, các hoạt động dịch vụ của ngân
hàng càng đi sâu vào tận cùng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con ngƣời,
mặc dù vai trò trung gian tài chính của các ngân hàng vẫn đƣợc giữ nguyên vị trí
của mình. Với mối liên hệ sâu sắc nhƣ vậy, hoạt động ngân hàng chịu ảnh hƣởng
sâu sắc và trực tiếp của các nhân tố trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các nhà
nghiên cứu đã ví hệ thống ngân hàng nhƣ là huyết mạch của nền kinh tế, trong
đó tồn tại những kênh lƣu thông vốn chủ yếu.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng liên kết toàn cầu hiện nay, hệ thống
ngân hàng lại càng thể hiện tính nhạy cảm của nó, điều này đƣợc thể hiện rõ nét
và trực tiếp trong mọi hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt động tín
dụng. Hiện nay, trên đà hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là
sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì cơ hội và thách thức đặt ra với các doanh
nghiệp Việt Nam là rất to lớn. Để có thể tham gia một cách chủ động vào “cuộc
chơi” kinh tế toàn cầu thì các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải nâng cao tính
cạnh tranh trong mọi lĩnh vực. Một trong những giải pháp cho vấn đề đó là phải
có vốn đầu tƣ cho các doanh nghiệp để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lƣợng
sản phảm, trình độ quản lý cũng nhƣ tay nghề của ngƣời lao động. Có nhiều
nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhƣ: vốn đầu tƣ từ ngân sách

6



nhà nƣớc, vốn tự huy động dƣới nhiều hình thức khác nhau (phát hành trái phiếu,
cổ phiếu, vay vốn bạn hàng…) và đặc biệt là vốn tín dụng ngân hàng.
Thực tế cho thấy, ngân hàng là nguồn vốn lƣu động ngắn hạn quan trọng,
hỗ trợ cho tổ chức kinh tế mua hàng tồn kho, trả thuế hoặc trang trải một phần
hay toàn bộ chi phí sửa chữa, lắp đặt… Để mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp thƣờng xuyên phải tìm đến nguồn vốn cho vay dài hạn
của ngân hàng, phục vụ mua trang thiết bị, nhà xƣởng và các tài sản cố định
khác. Không chỉ là nguồn vốn tín dụng hiệu quả của các doanh nghiệp, các tổ
chức chính quyền tìm đến ngân hàng nhƣ là một địa chỉ cấp tín dụng tin cậy khi
nguồn thu về thuế không đủ thực hiện các khoản chi tiêu. Ngay cả khi chính phủ
muốn đầu tƣ vào một dự án đầu tƣ xây dựng hạ tầng cơ sở hay thực hiện các
công trình công cộng, ngân hàng là ngƣời đầu tiên cùng chính phủ chia sẻ ý
tƣởng đó. Còn đối với ngƣời tiêu dùng – một bộ phận quan trọng chiếm đa phần
trong nền kinh tế, ngân hàng tài trợ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng khẩn cấp
dƣới hình thức các khoản vay có thể thƣơng lƣợng, việc đáp ứng nhu cầu sử
dụng tiền kịp thời tạo điều kiện cho ngƣời tiêu dùng nâng cao mức sống, cải
thiện điều kiện sinh hoạt.
Với những vai trò này, có thể thấy nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng
luôn giữ vai trò chủ đạo và chi phối trong nền kinh tế, góp phần thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Đối với bất kỳ ngân hàng nào, tín dụng là một
nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng. Trong quá trình tái sản xuất xã hội thƣờng
xuyên xuất hiện hiện tƣợng tạm thời thừa vốn ở tổ chức cá nhân này, trong khi
những tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung. Hiện tƣợng
thừa vốn đƣợc giải quyết bằng việc hình thành nên các khoản tiền gửi. Còn nhu
cầu về vốn của các tổ chức cá nhân sẽ đƣợc ngân hàng tài trợ từ những khoản
tiền gửi đó. Việc cho vay trên cơ sở nguồn vốn huy động đƣợc giúp ngân hàng
thực hiện chức năng là một tổ chức trung gian tài chính, phân phối lại vốn tiền tệ
để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội, hay nói cách khác, tín dụng là đầu ra chủ

yêu của các loại vốn mà ngân hàng đã huy động. Có thể thấy, tín dụng là nghiệp
vụ chính cũng nhƣ quan trọng nhất trong những nghiệp vụ sinh lời của ngân
hàng. Doanh thu từ hoạt động tín dụng thƣờng chiếm trên 70% doanh thu của
một ngân hàng. Lợi nhuận từ hoạt động này cũng chiếm một tỷ lệ tƣơng tự trong
7


tổng số lợi nhuận trƣớc thuế của ngân hàng. Ví dụ nhƣ: mức tăng trƣởng tín
dụng năm 2013 của ngân hàng Vietcombank tăng 14,5% so với năm 2012 cao
hơn mức tăng trƣởng tín dụng chung của toàn ngành góp phần làm cho lợi nhuận
hợp nhất của Vietcombank năm 2013 đạt 5727 tỷ đồng, đạt 100,4% kế hoạch;
hay ngân hàng BIDV có dƣ nợ tín dụng cho nền kinh tế 391 nghìn tỷ đồng, tăng
16,7% so năm 2012 góp phần làm cho lợi nhuận trƣớc thuế đạt 5.233 tỷ đồng,
tăng gần 21% so với năm 2012, đạt 110,8% kế hoạch Đại hội đồng cổ đông
giao.). Vì vậy, vị trí và tầm quan trọng của hoạt động tín dụng đối với một ngân
hàng là không thể phủ nhận.
Tuy là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng, song
tín dụng cũng là một hoạt động có thể mang lại nhiều rủi ro nhất. Tín dụng và rủi
ro giống nhƣ hai mặt đối lập của một vấn đề, chúng tồn tại dựa vào nhau, nếu
không có tín dụng thì không có rủi ro và rủi ro là một đặc trƣng cơ bản của tín
dụng. Hai mặt này cũng luôn đấu tranh với nhau, ngân hàng cấp tín dụng luôn sử
dụng mọi biện pháp để phòng ngừa rủi ro, còn rủi ro luôn tồn tại dƣới dạng tiềm
ẩn trực chờ bộc phát gây ảnh hƣởng lớn thậm chí làm đảo lộn kết quả kinh doanh
của một ngân hàng. Thậm chí, nếu hoạt động tín dụng ở một ngân hàng có bất ổn
dù chỉ ở một mức nào đó cũng sẽ gây nguy hiểm đến tính an toàn và ổn định của
toàn bộ hệ thống.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải xây dựng một hệ thống các biện pháp
phòng ngừa rủi ro tín dụng ở tầm vĩ mô, trong đó có các biện pháp pháp lý,
thông qua hệ thống pháp luật kinh tế để tránh phát sinh những tác nhân có thể
gây nên rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có thể đƣợc thể hiện dƣới nhiều hình

thức khác nhau nhƣ rủi ro về lãi suất, rủi ro về tỷ giá trong cho vay ngoại tệ…
Nhƣng tựu chung lại, bao giờ cũng đƣợc thể hiện một cách rõ nét nhất ở rủi ro
không thu hồi đƣợc nợ... Chính vì vậy, về bản chất có thể coi các biện pháp này
cũng đồng thời là những biện pháp bảo đảm tiền vay của ngân hàng.
Nhƣ vậy, có thể hiểu bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng (TCTD) là
việc các TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh
tế và pháp lý để thu hồi được vốn đã cho vay sau một thời gian xác định với đầy
đủ cả gốc và lãi.

8


Theo quan niệm trƣớc đây, bảo đảm tiền vay chỉ là việc bên cho vay yêu
cầu khách hàng vay phải có tài sản hữu hình đối ứng với món vay của mình.
Song thực tế đã chứng minh một khoản vay nếu chỉ đƣợc đảm bảo bằng tài sản
hữu hình thì đó vẫn chƣa phải là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm
dụng nếu tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lý
do nào đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản. Nhƣ vậy, các biện
pháp bảo đảm bằng tài sản có vị trí quan trọng, nhƣng bảo đảm tiền vay không
chỉ giới hạn ở những biện pháp bảo đảm bằng tài sản, mà theo nghĩa rộng hơn,
bảo đảm tiền vay là việc các ngân hàng cho vay thiết lập các biện pháp phù hợp
nhằm xác định khả năng trả nợ của khách hàng trên thực tế, nói đến bảo đảm tiền
vay là nói đến rất nhiều biện pháp, bảo đảm tiền vay tồn tại trong bất kỳ khâu
nào trong hoạt động cho vay (nhƣ xây dựng quy trình thẩm định tín dụng có hiệu
quả, giám sát quá trình sử dụng vốn…). Ngân hàng không nên coi nhẹ bất kỳ
biện pháp nào để bảo đảm tiền vay, tạo cơ sở hiện thực cho việc thu hồi nợ vay
một cách đầy đủ và đúng hạn.
Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng sử dụng kết hợp hài hòa tất cả những
biện pháp nói trên, nhƣng trên thực tế ghi nhận tại các ngân hàng, bảo đảm tiền
vay bằng tài sản vẫn có vị trí quan trọng nhất. Theo nghĩa hẹp, bảo đảm tiền vay

là việc các bên trong quan hệ bảo đảm thỏa thuận với nhau về việc nghĩa vụ trả
nợ vay của khách hàng đƣợc cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản thế chấp,
cầm cố, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng hoặc bảo lãnh của bên thứ
ba. Sự ghi nhận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ dân sự trong pháp
luật Việt Nam đƣợc thể hiện qua Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật đã quy định các
biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự gồm: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cƣợc,
bảo lãnh, tín chấp.
Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài này, tác giả chỉ đi sâu vào việc
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những quy định pháp lý về bảo đảm tiền vay
ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh.
1.1.1.2. Khái niệm bảo đảm tiền vay ngân hàng bằng bảo lãnh
Trƣớc hết, cần làm rõ nội hàm của khái niệm bảo lãnh.
Trong đời sống xã hội, con ngƣời bao giờ cũng luôn tham gia vào những
9


quan hệ rất đa dạng rất phong phú. Những quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đƣợc
hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, tƣ
tƣởng đạo đức văn hoá... là quan hệ xã hội. [29]
Sự tồn tại của các quan hệ xã hội là khách quan, con ngƣời không thể tách
mình ra khỏi xã hội hoặc đặt mình ra ngoài những mối quan hệ xã hội, theo C.
Mác “bản chất của con ngƣời là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Chính nhờ
mối quan hệ xã hội này, các nghĩa vụ dân sự phát sinh một cách khách quan [22,
tr.5]. Nghĩa vụ dân sự đƣợc xác lập và thực hiện trên cơ sở thoả thuận của các
bên hoặc do pháp luật quy định. Để đảm bảo cho việc thực hiện đúng các nghĩa
vụ dân sự nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho bên có quyền,
pháp luật các nƣớc trên thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều
có quy định theo hƣớng cho phép các bên tham gia giao dịch dân sự đƣợc thoả
thuận các biện pháp bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng cũng nhƣ việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự.

Theo quy định tại Điều 318 Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005, có bảy biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký
cƣợc, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Mỗi biện pháp bảo đảm này đều có những
ƣu, nhƣợc điểm nhất định. Tuỳ thuộc vào nội dung và tính chất của từng quan hệ
nghĩa vụ cụ thể cũng nhƣ phụ thuộc vào điều kiện của các chủ thể tham gia quan
hệ ấy mà các bên lựa chọn biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho thích hợp.
Trong trƣờng hợp bên có nghĩa vụ không có uy tín trong việc trả nợ hoặc
không có tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền
thì biện pháp bảo đảm đƣợc nghĩ đến đầu tiên đó là bảo lãnh.
Có nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về bảo lãnh, tuỳ thuộc vào việc
bảo lãnh đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ kinh tế, xã hội hay dƣới góc độ pháp lý.
Mặt khác, ngay cả trong trƣờng hợp cùng góc độ tiếp cận là pháp lý thì pháp luật
các nƣớc cũng có những quy định tƣơng đối khác nhau về bảo lãnh, mặc dù có
thể có sự thống nhất về bản chất của bảo lãnh.
Về phƣơng diện ngôn ngữ, theo từ điển tiếng Việt, bảo lãnh đƣợc hiểu
theo hai nghĩa: Thứ nhất, bảo lãnh là bảo đảm ngƣời khác thực hiện một nghĩa
vụ và chịu trách nhiệm nếu ngƣời đó không thực hiện; thứ hai, bảo lãnh là việc
10


dùng tƣ cách, uy tín của mình để bảo đảm cho hành động, tƣ cách của ngƣời
khác. Định nghĩa này cho thấy bảo lãnh chính là việc một ngƣời đứng ra đảm
bảo về việc thực hiện nghĩa vụ của ngƣời khác. Trong trƣờng hợp ngƣời có
nghĩa vụ không thực hiện đƣợc thì ngƣời bảo lãnh phải chịu trách nhiệm cho
việc không thực hiện đó [26, tr.40].
Về phƣơng diện pháp lý, nhìn chung khái niệm bảo lãnh đƣợc quy định
tƣơng đối giống nhau về bản chất trong pháp luật của các nƣớc.
Theo quy định của pháp luật Mỹ, bảo lãnh đƣợc hiểu là thoả thuận trong
đó ngƣời bảo lãnh đồng ý sẽ thực hiện nghĩa vụ của con nợ khi ngƣời đó không
thực hiện nghĩa vụ của mình [25, Điều 217].

Theo pháp luật Cộng hòa Pháp, bản chất của bảo lãnh là một ngƣời ràng
buôc với chủ nợ để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khi ngƣời đƣợc bảo lãnh (con
nợ) không thực hiện nghĩa vụ của mình [24, Điều 2288].
Theo pháp luật Việt Nam, bảo lãnh là việc ngƣời thứ ba cam kết với bên
có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn
mà bên đƣợc bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các
bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi
bên đƣợc bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. [7, Điều
361]
Nhƣ vậy, mặc dù có những định nghĩa khác nhau, nhƣng khái niệm bảo
lãnh đƣợc hiểu chung nhất là cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về
việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đƣợc bảo lãnh nếu đến hạn mà bên đƣợc
bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của họ đối với bên nhận bảo lãnh. Điều đáng
lƣu ý là khái niệm bảo lãnh đƣợc quy định trong pháp luật các nƣớc đều thừa
nhận sự vi phạm của bên đƣợc bảo lãnh về nghĩa vụ đƣợc bảo đảm chính là điều
kiện để bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Thế nào là bảo đảm tiền vay bằng hình thức bảo lãnh?
Từ khái niệm bảo đảm tiền vay và khái niệm bảo lãnh nói chung nhƣ đã
phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận khoa học mang tính khái quát về bảo đảm
tiền vay bằng bảo lãnh nhƣ sau:

11


Bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hoàn
trả tiền vay ngân hàng, theo đó bên bảo lãnh cam kết với ngân hàng về việc sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên vay, nếu đến hạn mà bên vay không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với ngân hàng theo hợp đồng
tín dụng.
1.1.2. Đặc điểm của bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hoạt

động ngân hàng bằng hình thức bảo lãnh
Từ định nghĩa về bảo lãnh nói chung và bảo đảm tiền vay ngân hàng bằng
bảo lãnh nói riêng, có thể nhận thấy hình thức bảo đảm này có những đặc điểm
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể, quan hệ bảo đảm tiền vay ngân hàng bằng bảo lãnh
tuy có sự liên quan đến ba bên (bao gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên
đƣợc bảo lãnh) nhƣng xét về bản chất thì quan hệ bảo lãnh vay vốn ngân hàng
không phải là quan hệ ba bên (bên cho vay, bên vay và bên bảo lãnh) mà thực chất
chỉ là quan hệ song phƣơng giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh (bên cho
vay), bởi vì bản chất của bảo đảm tiền vay ngân hàng bằng bảo lãnh chỉ là một
hình thức cụ thể của bảo đảm nghĩa vụ dân sự, trong khi theo quy định tại Điều
361 Bộ luật dân sự 2005 thì bảo lãnh là cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận
bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên đƣợc bảo
lãnh), nếu đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện đƣợc nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, về đối tƣợng bảo lãnh, bảo đảm tiền vay ngân hàng bằng bảo
lãnh có đối tƣợng bảo lãnh là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay ngân hàng, bao gồm nợ
gốc, lãi và các khoản phí phát sinh trong hoạt động cho vay (nếu có). Đây chính
là điểm khác biệt cơ bản giữa bảo lãnh vay vốn ngân hàng với các hình thức bảo
đảm bằng bảo lãnh cho các nghĩa vụ tài sản khác.
Thứ ba, về hình thức của việc bảo đảm tiền vay ngân hàng bằng bảo lãnh.
Theo quy định tại Điều 362 Bộ luật Dân sự thì việc bảo lãnh phải đƣợc lập thành
văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, trong
trƣờng hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải đƣợc công chứng
hoặc chứng thực.

12


Trong trƣờng hợp một ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để bảo
đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền vay của tổ chức, cá nhân đối với một ngân hàng

khác thì hình thức bảo lãnh đƣợc thực hiện theo Thông tƣ số 28/2012/QĐNHNN ngày 03 tháng 10 năm 2012 của Ngân hàng Nhà nƣớc quy định về bảo
lãnh ngân hàng. Theo Thông tƣ này, hình thức của giao dịch bảo lãnh chính là
cam kết bảo lãnh (có thể là thƣ bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh hay hình thức cam
kết khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật Việt Nam).
[4, Khoản 9 Điều 3]
Tóm lại, dù đƣợc thể hiện bằng hình thức văn bản nào đi nữa (hợp đồng
bảo lãnh, thƣ bảo lãnh, quyết định bảo lãnh...) thì cam kết bảo lãnh (văn bản bảo
lãnh) cũng phải đƣợc nhìn nhận là một hợp đồng chứ không phải hành vi pháp lý
đơn phƣơng, vì nó kéo theo sự trao đổi, chấp thuận giao kết hợp đồng giữa bên
bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh - là các bên trong quan hệ bảo lãnh.
Trong khoa học pháp lý, có 2 quan điểm khác nhau về bản chất của hợp
đồng bảo lãnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng đơn
vụ vì chỉ có bên bảo lãnh là bên có nghĩa vụ [13]. Tuy nhiên, quan điểm thứ hai
lại cho rằng, hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng song vụ bởi lẽ, bên bảo lãnh chỉ
thực hiện nghĩa vụ khi bên nhận bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ cung cấp căn cứ
làm phát sinh bảo lãnh mà những căn cứ này đã đƣợc thoả thuận trong hợp đồng
bảo lãnh [17, tr.11]. Cần lƣu ý là nghĩa vụ này của bên nhận bảo lãnh không phải
là nghĩa vụ chứng minh quyền yêu cầu thanh toán, mà là nghĩa vụ xuất trình. Ví
dụ, trong trƣờng hợp các bên thoả thuận căn cứ phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh của
ngân hàng là khi bên nhận bảo lãnh xuất trình đƣợc một phán quyết hay một kết
quả thẩm định của bên thứ ba (là Toà án hay một tổ chức độc lập có chức năng
thẩm định). Thậm chí, kể cả trong trƣờng hợp hợp đồng bảo lãnh quy định cơ sở
để bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là tuyên bố đơn phƣơng của bên
nhận bảo lãnh về sự vi phạm của bên đƣợc bảo lãnh, thì bên bảo lãnh cũng phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh trình cho bên bảo lãnh tuyên
bố này. Nhƣ vậy, nếu bên nhận bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ xuất trình các
căn cứ để yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo đúng thoả thuận
trong hợp đồng thì bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Vì thế,
đây là một hợp đồng song vụ.
13



Thứ tư, về bản chất pháp lý, bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh là biện pháp
bảo đảm đối nhân. Bộ Luật Dân sự hiện nay không quy định theo hƣớng phân
biệt các biện pháp bảo đảm thành bảo đảm đối nhân hay đối vật. Tuy nhiên,
thông qua bản chất của các hình thức bảo đảm có thể thấy rằng đối với một số
biện pháp bảo đảm nhƣ thế chấp, cầm cố, ký quỹ thì một số quyền đối với tài sản
của bên có nghĩa vụ đã đƣợc chuyển giao cho bên có quyền, khi xảy ra rủi ro bên
có nghĩa vụ không thực hiện đƣợc nghĩa vụ của mình thì bên có quyền đƣợc
quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Nhƣ vậy, bên nhận bảo đảm đã có
một số quyền đối với tài sản bảo đảm, trên cơ sở đó có thể thấy rằng bản chất
của các biện pháp vay vốn nói trên mang tính chất bảo đảm đối vật. Còn đối với
biện pháp bảo lãnh nói chung và bảo lãnh vay vốn nói riêng, bên nhận bảo lãnh
chỉ đƣợc trao quyền đối với bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và
không đƣợc trao quyền đối với một hay một số tài sản cụ thể nào của bên bảo
lãnh, do đó biện pháp bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh là bảo đảm đối nhân.
Thứ năm, về việc đăng ký giao dịch bảo đảm. Các biện pháp bảo đảm đối
vật có bản chất là bảo đảm bằng tài sản cụ thể và bên nhận bảo đảm chỉ có quyền
đối với tài sản đó, nên các biện pháp này là đối tƣợng đăng ký GDBĐ, để qua đó
xác lập quyền đặc biệt là quyền ƣu tiên thanh toán bằng tài sản đó. Ngƣợc lại,
biện pháp bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân (nhƣ
đã trình bày ở trên), trong biện pháp bảo đảm đối nhân thì tài sản bảo đảm không
đƣợc xác định cụ thể mà bên bảo đảm phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình và bên nhận bảo đảm có quyền đối với toàn bộ tài sản đó, nên biện
pháp bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh không thuộc diện đăng ký GDBĐ.
1.1.3. Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng hình thức bảo lãnh
có mối quan hệ với nhau nhƣ thế nào? Đây là một vấn đề gây tranh cãi, có nhiều
ý kiến trái chiều nhau giữa các nhà làm luật, luật sƣ, và cả những ngƣời thi hành
pháp luật. [9]

Quan điểm thứ nhất cho rằng: mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng hình thức bảo lãnh là mối quan hệ giữa hợp
đồng chính và hợp đồng phụ.

14


Trong một thời gian khá dài, do tồn tại những quy định của pháp luật dân
sự về hợp đồng chính và hợp đồng phụ (Điều 405 Bộ luật Dân sự 1995) nên
trong khoa học pháp lý và cả trong quá trình xây dựng pháp luật cũng nhƣ thực
thi pháp luật, đã xuất hiện quan điểm suy luận coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng
chính, trong khi hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng bảo đảm tiền
vay bằng bảo lãnh nói riêng có thể coi là hợp đồng phụ. Có lẽ quan điểm này dựa
trên lập luận cho rằng, sự bảo đảm chỉ có giá trị khi tồn tại nghĩa vụ đƣợc bảo
đảm (nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chính). Do nhìn nhận nhƣ vậy, nhiều ý kiến
cho rằng, có thể coi mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm
tiền vay nói chung và hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh nói riêng là mối
quan hệ giữa hợp đồng chính với hợp đồng phụ. Điều này không chỉ tồn tại trong
các diễn đàn khoa học mà thực tế đã trở thành những quy định của luật pháp có
giá trị bắt buộc thi hành ở Việt Nam trong những năm trƣớc đây. [9] 1
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, trong lịch sử pháp chế Việt Nam đã
từng tồn tại quan niệm cho rằng hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp
đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là hợp đồng phụ. Điều đó cũng có nghĩa rằng,
theo quan điểm này, nếu hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) bị vô hiệu thì hợp
đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh (với tính chất là hợp đồng phụ) cũng đƣơng
nhiên bị vô hiệu theo. Ngƣợc lại, nếu hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bị vô
hiệu thì không tất yếu hay chắc chắn làm vô hiệu hợp đồng tín dụng (hợp đồng
chính). Trải qua thời gian, quan điểm này đã từng đƣợc xem là “chính thống”
trong nhiều năm và đƣợc các luật sƣ, tòa án thƣờng xuyên viện dẫn nhƣ là một
trong những căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết các vụ tranh chấp về hợp

đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản ở Việt Nam. [9] 2
Tuy nhiên, trong thực tiễn pháp lý cũng nhƣ trong các diễn đàn trao đổi
1

Trƣớc đây, theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, hợp đồng cầm
cố, thế chấp, bảo lãnh phải đƣợc lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Quy
định này đã thể hiện quan điểm của ngƣời soạn luật cho rằng, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chỉ là hợp đồng phụ,
xét trong mối quan hệ với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ mà nó bảo đảm (gọi là hợp đồng chính).
2
Cũng theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính Phủ về giao dịch bảo đảm, ngƣời soạn luật cho
rằng “giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hƣởng đến hiệu lực của nghĩa vụ đƣợc bảo đảm, trừ trƣờng hợp giao
dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ đƣợc bảo đảm” (Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP).
Tƣơng tự, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 178/1999/NĐ-CPngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay cũng quy định theo hƣớng nhƣ vậy, tuy có
điểm khác biệt là trong mọi trƣờng hợp, sự vô hiệu của giao dịch bảo đảm không làm ảnh hƣởng đến hiệu lực của hợp
đồng tín dụng đƣợc bảo đảm bằng giao dịch đó (khoản 8 Điều 1 Nghị định số 85/2002/NĐ-CP). Sự thay đổi này có lẽ
xuất phát từ mục tiêu của nhà làm luật là muốn bảo vệ tối đa quyền lợi cho bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng.

15


học thuật, có ý kiến cho rằng, “HĐTD và hợp đồng bảo đảm cho khoản tín dụng
ấy chỉ có quan hệ hợp đồng chính - phụ khi và chỉ khi cả hai đều do cùng chủ thể
ký kết, và nhƣ thế nó chỉ hình thành khi ngƣời vay đồng thời là ngƣời có tài sản
để có quyền dùng tài sản ấy bảo đảm cho nghĩa vụ của chính mình trong HĐTD
(bao gồm cả phần tài sản của ngƣời vay trong trƣờng hợp là ngƣời vay là một
trong các đồng sở hữu tài sản bảo đảm), khi ấy nghĩa vụ bảo đảm mới chịu sự
chi phối bởi nghĩa vụ trả nợ của chính họ theo đúng quan hệ hợp đồng chính phụ” [18].
Theo ý kiến tác giả, nhận thức này không thật chính xác, bởi vì khi nói
đến mối quan hệ chính - phụ giữa hai hợp đồng nào đó, chủ yếu là nhằm xác

định mối quan hệ ảnh hƣởng, chi phối về hiệu lực giữa hai hợp đồng đó với
nhau, chứ không giới hạn ở khía cạnh chủ thể của hợp đồng. Nói cách khác, một
hợp đồng có thể đƣợc coi là hợp đồng chính và một hợp đồng khác có thể đƣợc
coi là hợp đồng phụ, xét trong mối tƣơng quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này
với nhau, bất luận chủ thể ký kết hai loại hợp đồng này có trùng nhau hay không.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với
hợp đồng bảo lãnh không hoàn toàn là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp
đồng phụ. Quan điểm này đã đƣợc thể hiện trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (thay thế cho Nghị định số
165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999). [1]
Trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, nhà làm luật đã
có sự thay đổi quan niệm theo hƣớng thực tế hơn, không hoàn toàn coi mối quan
hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp là mối quan hệ giữa hợp đồng
chính và hợp đồng phụ. Cụ thể là, Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 quy định:
“1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực
hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần
hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không
chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
16


3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm
dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm
dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm
thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện
không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có

thoả thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo
đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
Theo quy định tại Điều 15 nói trên, nếu áp dụng cho hợp đồng tín dụng có
bảo đảm bằng bảo lãnh thì có thể hình dung mối tƣơng quan về hiệu lực giữa hai
hợp đồng này (hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh) nhƣ sau:
Trƣờng hợp thứ nhất, có hai khả năng xảy ra:
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc đã có
hiệu lực nhƣng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phƣơng
của một bên nhƣng chƣa đƣợc thực hiện thì hợp đồng bảo lãnh bị chấm dứt. Cần
lƣu ý rằng theo quy định của điều luật nêu trên thì trong trƣờng hợp này, hợp
đồng bảo lãnh bị chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi sau đó mới chấm dứt hiệu
lực do không cần thiết duy trì hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh nữa, chứ không
phải là hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu ngay từ khi ký kết. [9]
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc đã có
hiệu lực nhƣng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phƣơng
của một bên và đã đƣợc thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp đồng bảo lãnh
không bị đƣơng nhiên chấm dứt, trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận chấm dứt
hợp đồng bảo lãnh này vì thấy không cần thiết phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa.
Trong trƣờng hợp này, nếu hợp đồng bảo lãnh không bị chấm dứt trong khi ngân
hàng đã giải ngân cho khách hàng thì bên nhận bảo lãnh (ngân hàng) có quyền yêu
cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đƣợc bảo lãnh khi bên đƣợc bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.

17


Trƣờng hợp thứ hai, hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, chấm
dứt đơn phƣơng sẽ không ảnh hƣởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng, trừ

trƣờng hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng thỏa thuận hủy bỏ hay chấm dứt
hợp đồng này. [9]
Từ việc phân tích, bình luận và khảo cứu các quan điểm trên đây, chúng
tôi cho rằng: Xét trong mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo
đảm tiền vay thì không thể coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng
bảo đảm tiền vay (trong đó có hợp đồng bảo lãnh) là hợp đồng phụ. Do đó, cũng
không có cơ sở để khẳng định rằng, bản chất mối quan hệ giữa hợp đồng tín
dụng với hợp đồng bảo đảm là quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ, vì
các lý do sau đây:
Thứ nhất, về khía cạnh học thuật, tự thân mỗi hợp đồng này (tức hợp đồng
tín dụng và hợp đồng bảo lãnh) đều đã có đầy đủ các yếu tố để đƣợc coi là một
hợp đồng thực thụ. Vì thế, tự nó sẽ phát sinh hiệu lực nếu thỏa mãn các điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự (theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự
2005), chứ không cần phải phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng khác. Điều này
có nghĩa, hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh đều là
những hợp đồng độc lập, không hề ảnh hƣởng và chi phối đến hiệu lực của nhau,
cho dù mục đích của việc thiết lập hợp đồng thế chấp là nhằm đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng. [9]
Từ lập luận nhƣ vậy, có thể kết luận rằng, nếu hợp đồng tín dụng bị vô
hiệu hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không ảnh hƣởng gì đến hiệu lực của hợp
đồng bảo lãnh. Ngƣợc lại, nếu hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc bị chấm dứt,
hủy bỏ thì cũng không làm ảnh hƣởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và khi
đó, hợp đồng tín dụng trở thành hợp đồng không có bảo đảm bằng tài sản. [9]
Thứ hai, về khía cạnh pháp luật thực định, tại Điều 410 Bộ luật Dân sự
2005, tuy nhà làm luật vẫn mô tả rõ bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa hợp
đồng chính và hợp đồng phụ nhƣng đồng thời cũng khẳng định rằng, các quy
định về mối quan hệ này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
dân sự, trong đó có biện pháp bảo lãnh. Theo ý kiến chúng tôi, nhà làm luật lựa
chọn giải pháp này cho mối quan hệ giữa hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm


18


với hợp đồng bảo đảm là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ tránh đƣợc
những rủi ro về kinh tế trong trƣờng hợp hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị
vô hiệu mà bên chủ nợ (bên nhận bảo đảm) đã thực hiện hợp đồng này với ngƣời
đối ƣớc.
Từ nhận thức nhƣ vậy, tác giả cho rằng, cách tiếp cận về mối quan hệ giữa
hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo lãnh nhƣ Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm là hợp lý và có cơ sở khoa học.
1.1.4. Vai trò của bảo đảm nghĩa vụ bằng bảo lãnh trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại
Với tƣ cách là một biện pháp pháp lý đƣợc các bên áp dụng để đảm bảo
thu hồi vốn tín dụng cho ngân hàng, các biện pháp bảo đảm tiền vay có tác động
mạnh mẽ đến hành vi của các chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng.
Một cách khái quát, có thể cho rằng việc bảo đảm tiền vay ngân hàng
bằng bảo lãnh có những vai trò cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất, bảo đảm nghĩa vụ bằng bảo lãnh trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thƣơng mại có tác động tích cực tới ngƣời vay vốn, thúc đẩy ngƣời
vay vốn thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng.
Việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong hợp đồng luôn dựa trên
cơ sở tự nguyện, trung thực. Trong hợp đồng vay vốn, chủ thể nhận tiền vay vốn
phải có nghĩa vụ hoàn trả vốn vay cách đầy đủ đúng hạn theo hợp đồng. Nghĩa
vụ này của ngƣời vay vốn đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc là cơ sở để ngƣời
cho vay hƣởng các quyền của mình. Nhƣ vậy, việc ngƣời cho vay có thực hiện
đƣợc quyền thu gốc và lãi hay không phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của
ngƣời đi vay.
Khi đến hạn trả nợ, ngƣời vay phải tự giác và chủ động thu xếp nguồn tiền
để trả nợ. Song nếu việc tự nguyện, tự giác của ngƣời vay bị suy giảm sẽ đe dọa
trực tiếp tới việc hoàn thành nghĩa vụ với ngƣời cho vay. Trong trƣờng hợp bảo

lãnh vay vốn tại ngân hàng không chỉ có tác động từ bên cho vay mà còn có sự
tác động trực tiếp từ ngƣời bảo lãnh, nếu việc thực hiện nghĩa vụ đúng hạn sẽ tạo
niềm tin cho ngƣời bảo lãnh sẽ tiếp tục bảo lãnh cho những dự án sau này của

19


ngƣời vay vốn. Từ đó cho thấy, áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay cũng đồng
nghĩa với việc tạo ra một áp lực về phía ngƣời vay vốn, thúc đẩy ngƣời vay vốn
thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ trả nợ. Sự ràng buộc về áp lực này tạo cho
ngƣời vay vốn thực hiện tốt những dự án hay mục đích khác của họ và cái lợi
đầu tiên và lớn nhất chính là lợi ích cho chính họ.
Thứ hai, kích thích hoạt động cho vay của các TCTD. Việc nhận bảo lãnh
không chỉ có tác động trực tiếp đến ngƣời vay, ngƣời bảo lãnh mà còn tác động
rõ rệt đến việc cho vay của ngân hàng. Những tác động này thể hiện chủ yếu ở
những khía cạnh sau:
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và bảo lãnh nói riêng tạo
thêm khả năng và cơ hội cho ngân hàng để thu hồi nợ, bảo đảm an toàn cho hoạt
động tín dụng ngân hàng. Nhƣ đã phân tích ở phần trên, nguồn thu nợ chính của
ngân hàng không phải bao giờ cũng từ tài sản bảo đảm mà phải chính từ phƣơng
án sử dụng đƣợc triển khai trên thực tế thu đƣợc lợi nhuận. Hoặc trong trƣờng
hợp cho vay vốn phục vụ tiêu dùng, nguồn thu nợ có thể từ nguồn thu nhập hợp
pháp của ngƣời vay vốn. Tuy nhiên, khi những nguồn thu nợ hợp pháp trên
không có hoặc không đủ thì việc xử lý tài sản của ngƣời bảo lãnh là một nguồn
thu nợ hết sức quan trọng của ngân hàng. Thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm
ngân hàng sẽ thu hồi đƣợc nợ tránh đọng vốn.
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay còn có tác dụng giúp ngân hàng thực
hiện mở rộng tín dụng đối với những nhóm khách hàng còn nhiều rủi ro. Thông
thƣờng quá trình thẩm định cho vay ngân hàng phải xem xét kỹ càng những rủi
ro. Nếu rủi ro này đƣợc khẳng định và khó có các biện pháp phòng ngừa phù hợp

trên thực tế thì các ngân hàng phải từ chối cho vay. Trên thực tế, không phải bao
giờ ngƣời cần vốn cũng chứng minh đƣợc khả năng trả nợ ngân hàng của mình.
Nói cách khác, họ không có đủ cơ sở để ngân hàng đặt niềm tin mà giao phó tiền
vay mặc dù có thể họ sẽ thực hiện rất thành công phƣơng án vay. Tuy nhiên, nếu
bên đi vay đƣợc bảo lãnh bởi bên thứ ba có uy tín thì ngân hàng có thể xem xét
chấp nhận cấp tín dụng cho khách hàng. Trong những trƣờng hợp này, bảo đảm
tiền vay bằng bảo lãnh có thể giúp cho ngân hàng mở rộng việc cấp tín dụng đối
với nhóm khách hàng mới. Việc tăng trƣởng tín dụng sẽ mang lại nhiều lợi

20


nhuận hơn cho ngân hàng. Ngoài ra, trong trƣờng hợp ngân hàng thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh cho một khách hàng vay tiền ở một ngân hàng khác, ngân
hàng cũng sẽ thu đƣợc một khoản lợi nhuận không nhỏ từ việc thực hiện nghiệp
vụ bảo lãnh này. Do đó, ý nghĩa thực tế của việc bảo đảm tiền vay là rất lớn đối
với việc phát triển tín dụng an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, tác động vĩ mô đến nền kinh tế. Các TCTD là một chủ thể quan
trọng thực hiện kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trƣờng. Việc các TCTD
cho vay có bảo đảm nhằm tăng khả năng trả nợ của khách hàng vay, đảm bảo
duy trì lợi nhuận tránh những rủi ro về tài sản cho mình. Bảo lãnh còn có vai trò
chu chuyển vốn trong nền kinh tế thông qua quan hệ hàng - tiền giúp cho sản
phẩm trong xã hội đƣợc tiêu thụ dễ dàng hơn, góp phần làm ổn định nâng cao giá
trị hàng hoá và nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, bảo lãnh còn là công
cụ tài trợ, tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế kém phát triển, các ngành
kinh tế mũi nhọn theo định hƣớng chính sách của nhà nƣớc hoặc làm thay đổi cơ
cấu nền kinh tế theo một hƣớng có lợi. Áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay
nói chung và biện pháp bảo lãnh nói riêng là một nghiệp vụ cần thiết và quan
trọng của các TCTD. Bảo đảm tiền vay nói chung và biện pháp bảo lãnh nói
riêng không những có tác động trực tiếp đến việc hoàn trả nợ vay, bảo đảm an

toàn vốn vay mà còn gián tiếp bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền vào TCTD, từ
đó góp phần tạo ổn định cho hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Thông qua
việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay, tài sản bảo đảm đƣợc xử lý kịp
thời góp phần làm cho ngân hàng nhanh chóng thu hồi đƣợc vốn vay, tránh đọng
vốn, đồng thời đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn trong nền kinh tế. Điều này càng
có ý nghĩa hơn đối với một nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu vốn đầu tƣ
nhƣ Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và biện
pháp bảo lãnh nói riêng tạo điều kiện cho các TCTD thu hồi vốn nhanh chóng, là
cơ sở cho thúc đẩy các luồng vốn lƣu thông trong nền kinh tế đƣợc thông suốt.
1.2. CẤU TRÚC PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ HOÀN TRẢ
TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG BẰNG BẢO LÃNH
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật bảo đảm tiền vay ngân
hàng bằng hình thức bảo lãnh
21


×