Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về kinh doanh công cụ hỗ trợ sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ TUYẾT THANH

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CÔNG CỤ HỖ TRỢ
SỬ DỤNG TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ TRẬT TỰ AN NINH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu, toàn thể quý thầy cô
Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ, nhân viên Thư viện
Trường Đại học Luật Hà Nội- những người đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu và viết luận văn tại Trường.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
đến Cô giáo - Tiến sỹ Vũ Thị Lan Anh - người đã tận tình hướng dẫn tôi
thực hiện công trình nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè- những người đã
luôn ở bên động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2014


Tác giả

Vũ Thị Tuyết Thanh


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

CCHT:

Công cụ hỗ trợ

Cục C64:

Cục Cảnh sát Quản lý Hành chính về Trật tự xã hội

Phòng PC64:

Phòng Cảnh sát Quản lý Hành chính về Trật tự xã hội


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH DOANH CÔNG CỤ
HỖ TRỢ SỬ DỤNG TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ TRẬT TỰ AN NINH
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ........................................................................... 6
1.1.

Khái quát về kinh doanh công cụ hỗ trợ sử dụng trong lĩnh vực

bảo vệ trật tự an ninh ................................................................................ 6

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của công cụ hỗ trợ ................................................. 6

1.1.2.

Hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ ....................................................... 10

1.1.3.

Ý nghĩa, vai trò của hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ ....................... 13

1.2.

Khái quát pháp luật về kinh doanh công cụ hỗ trợ .............................. 14

1.2.1.

Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh công cụ hỗ trợ ................................................................................. 14

1.2.2.

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng các quy định pháp luật
đối với hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ ............................................ 16

1.2.3.


Cấu trúc pháp luật về kinh doanh công cụ hỗ trợ ...................................... 19

1.2.4.

Nội dung cơ bản của pháp luật về kinh doanh công cụ hỗ trợ .................. 20

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CÔNG
CỤ HỖ TRỢ SỬ DỤNG TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ TRẬT TỰ AN
NINH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..................................................................... 23
2.1.

Những quy định về các loại công cụ hỗ trợ ........................................... 23

2.1.1.

Nhóm các loại súng dùng để bắn đạn nhựa, đạn cao su, hơi cay, hơi
ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, la-de, pháo hiệu và các loại đạn
sử dụng cho các loại súng này ................................................................... 24

2.1.2.

Nhóm các loại phương tiện xịt hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây
mê, chất gây ngứa ...................................................................................... 26

2.1.3.

Nhóm các loại lựu đạn khói, lựu đại cay, quả nổ ...................................... 27


2.1.4.


Nhóm các loại dùi cui điện, dùi cui cao su, dùi cui kim loại, khoá số
tám, bàn chông, dây đinh gai, áo giáp, găng tay điện, găng tay bắt dao,
lá chắn, mũ chống đạn ............................................................................... 27

2.1.5.

Nhóm động vật nghiệp vụ ......................................................................... 30

2.2.

Các quy định về chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh công cụ
hỗ trợ ......................................................................................................... 33

2.2.1.

Được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật ....................... 33

2.2.2.

Có đủ điều kiện về an ninh, trật tự và được cơ quan Công an có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự .................... 34

2.2.2.1. Đủ điều kiện về an ninh trật tự để làm ngành nghề kinh doanh có
điều kiện .................................................................................................... 34
2.2.2.2. Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự để làm ngành nghề
kinh doanh có điều kiện ............................................................................. 36
2.2.3.

Phù hợp với quy hoạch về cơ sở, doanh nghiệp nhập khẩu, xuất khẩu,

kinh doanh công cụ hỗ trợ theo quy định của Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an ...................................................................................................... 37

2.3.

Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh công cụ hỗ trợ...... 39

2.3.1.

Quyền của doanh nghiệp kinh doanh công cụ hỗ trợ ................................ 40

2.3.2.

Nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh công cụ hỗ trợ ............................ 41

2.3.2.1. Phải duy trì đầy đủ các điều kiện về an ninh, trật tự trong suốt quá
trình hoạt động ........................................................................................... 41
2.3.2.2. Thực hiện báo cáo định kỳ về tình hình, kết quả việc thực hiện các
điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định của pháp luật .......................... 43
2.3.2.3. Chỉ bán công cụ hỗ trợ theo Giấy phép mua do cơ quan Công an có
thẩm quyền cấp .......................................................................................... 44
2.3.2.4. Thực hiện đúng chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê và nộp thuế theo
quy định của pháp luật ............................................................................... 46
2.3.2.5. Chấp hành nghiêm chỉnh sự hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.............................................. 46
2.4.

Các quy định về triển khai hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ
sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh ...................................... 47



2.4.1.

Các quy định về hợp đồng ......................................................................... 47

2.4.2.

Các quy định về hoạt động xúc tiến thương mại ....................................... 50

2.4.3.

Các quy định về quản lý nhập kho – xuất kho công cụ hỗ trợ .................. 51

2.5.

Các quy định về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động kinh doanh
công cụ hỗ trợ sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh ............ 53

2.5.1.

Chủ thể quản lý đối với các doanh nghiệp kinh doanh công cụ hỗ trợ ..... 53

2.5.2.

Nội dung quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh
công cụ hỗ trợ ............................................................................................ 54

2.5.2.1. Các hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp kinh doanh công cụ hỗ trợ ............ 54
2.5.2.2. Quản lý việc cấp


iấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự để

làm ngành nghề kinh doanh có điều kiện .................................................. 55
2.5.2.3. Quản lý việc cấp phép mua công cụ hỗ trợ, cấp phép mang công cụ hỗ
trợ vào, ra khỏi lãnh thổ Việt Nam ............................................................ 56
2.5.2.4. Quản lý việc báo cáo định kỳ hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ .............. 57
2.5.2.5. Thực hiện việc lập danh sách các loại công cụ hỗ trợ hiện có, ây
dựng tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật của các loại CCHT ....... 58
2.5.2.6. Thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm đối với các
doanh nghiệp kinh doanh CCHT ............................................................... 58
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH CÔNG CỤ
HỖ TRỢ SỬ DỤNG TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ TRẬT TỰ AN NINH ........ 61
3.1.

Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về kinh doanh CCHT
sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh ...................................... 61

3.1.1

Phù hợp với đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam.................................................................................................... 61

3.1.2.

Đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật .................................. 62

3.1.3.

Đảm bảo giữ gìn trật tự an ninh và an toàn xã hội .................................... 62


3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh
CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh ......................... 63

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới, có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa bước đầu đã đem lại sự phát triển cho đất nước ta. Từ một
nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, ngày nay, nước ta đã trở thành một
nước có nền kinh tế năng động, không ngừng hội nhập và phát triển.
Trong kinh tế thị trường, khối doanh nghiệp là nhân tố chủ đạo, tích cực.
Nhận thức rõ doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế,
giữ vị trí chủ đạo tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP), góp phần vào công
cuộc giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào
phát triển kinh tế- xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng
kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, oá đói, giảm nghèo..., Nhà
nước ta đã dành sự quan tâm rất lớn đến chủ thể này, biểu hiện qua việc xây
dựng hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng nhằm bảo đảm lợi ích tối đa
cho các doanh nghiệp khi họ tiến hành hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh
doanh. Trong đó, phải kể đến các quy định của Hiến pháp, điều 33 Hiến pháp
2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành

nghề mà pháp luật không cấm”. Điều 51 Hiến pháp nhấn mạnh rằng: “Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ
chức khác đầu tư, sản xuất kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế,
góp phần xây dựng đất nước” và “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường”
(Điều 52). Hiện thực hóa các quy định này của Hiến pháp, Nhà nước đã mở
rộng phạm vi ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp được phép
đầu tư, cho phép doanh nghiệp thuộc khối tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực mà


2

các chủ thể này có thể làm tốt, thay vì chỉ cho phép các doanh nghiệp có vốn
Nhà nước được thực hiện. Nổi bật là việc Nhà nước cho phép doanh nghiệp
nói chung được kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an
ninh khi họ đáp ứng đủ các điều kiện nhất định, thay vì chỉ giới hạn trong các
đơn vị, cơ sở thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng.
Với bản chất là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng kinh
doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh có những đặc
trưng, đặc thù nhất định. Đây cũng là lĩnh vực kinh doanh còn khá mới, với sự
tham gia của hơn hai chục doanh nghiệp. Để giúp các doanh nghiệp hiểu biết
nhiều hơn pháp luật về hoạt động kinh doanh CCHT như: CCHT là gì, các
CCHT được phép kinh doanh, chủ thể được phép kinh doanh,…., trên cơ sở
đó doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực mới mẻ này, việc
nghiên cứu pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật
tự an ninh thực sự có ý nghĩa và cần thiết.
Chính vì những lí do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật
về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh” cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Lĩnh vực CCHT đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc
độ và cấp độ khác nhau, chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ khoa học quản lý
Hành chính nhà nước và khoa học luật hình sự. Dưới góc độ quản lý Hành
chính nhà nước có đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Nâng cao hiệu quả Quản lý nhà
nước về vũ khí, CCHT theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân, phục
vụ phòng ngừa, phát hiện tội phạm trong tình hình mới” Mã số:
B.C.2007.C13.016 năm 2010 do Đại tá Vũ Bá Dạc - Cục Phó Cục C64 - Tổng
cục Cảnh sát Quản lý Hành chính về Trật tự an toàn xã hội - Bộ Công an làm
chủ nhiệm đề tài. Dưới góc độ pháp lý, chỉ có một vài công trình đề cập tới


3

các quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với CCHT. Ví dụ: Nguyễn
Văn Cấn (1997), Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm vũ khí ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
Nguyễn Văn Huấn (2003), Đấu tranh phòng chống tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép và chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật trong quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ luật
hình sự. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc tìm
hiểu các quy định của pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực
bảo vệ trật tự an ninh như là một hình thức kinh doanh hợp pháp dưới góc độ
luật kinh tế.
Đây là công trình nghiên cứu độc lập và đầu tiên tìm hiểu pháp luật về
kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích mà tác giả hướng tới khi thực hiện luận văn là làm rõ những
vấn đề lí luận chung nhất về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ
trật tự an ninh và thực trạng các quy định pháp luật về vấn đề này, để từ đó đề

xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh CCHT.
Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết
gồm:
Một là, tìm hiểu một số vấn đề lí luận về kinh doanh CCHT sử dụng
trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh, ý nghĩa của hoạt động này, ý nghĩa của
việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động này, cũng như cấu trúc pháp
luật về hoạt động này ở Việt Nam hiện nay;
Hai là, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về kinh doanh
CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh. Trong quá trình tìm hiểu


4

quy định của pháp luật, luận văn lồng ghép một số thực tiễn về hoạt động
kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh, quản lý nhà
nước đối với hoạt động này. Đồng thời, đánh giá các ưu điểm và hạn chế của
các quy định này;
Ba là, từ việc nghiên cứu trên đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện và hiệu
quả thực thi pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật
tự an ninh, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lí luận chung và nội
dung cơ bản của pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo
vệ trật tự an ninh.
Hoạt động kinh doanh CCHT hiện được quản lý bởi Bộ Công an và
Bộ Quốc phòng. Luận văn chỉ nghiên cứu hoạt động kinh doanh CCHT sử
dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh cho các đối tượng được trang bị
CCHT chịu sự quản lý của Bộ Công an. Luận văn không nghiên cứu hoạt
động kinh doanh CCHT trang bị cho các đối tượng thuộc phạm vi quản lý của
Bộ Quốc Phòng.

Đây là đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về
kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh. Vì thế, tác
giả tập trung nghiên cứu các quy định của Luật thương mại năm 2005, các
quy định về lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nói chung và các quy định về
kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh nói riêng.
Việc dẫn chiếu đến các quy định khác (Luật doanh nghiệp 2005, pháp luật
thuế, hải quan, ngân hàng,...) chỉ nhằm so sánh, mở rộng, và làm sáng tỏ hơn
đối tượng nghiên cứu cũng như đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài này.


5

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
cũng như quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nhà nước và pháp luật
nói chung, về pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ
trật tự an ninh nói riêng.
Trên nền tảng phương pháp luận ấy, khi nghiên cứu từng vấn đề cụ thể,
tác giả có sử dụng các phương pháp như: logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp,…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh
vực bảo vệ trật tự an ninh và pháp luật điều chỉnh
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh
vực bảo vệ trật tự an ninh và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh
vực bảo vệ trật tự an ninh



6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH DOANH CÔNG CỤ
HỖ TRỢ SỬ DỤNG TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ TRẬT TỰ
AN NINH VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1. Khái quát về kinh doanh công cụ hỗ trợ sử dụng trong lĩnh vực
bảo vệ trật tự an ninh
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của công cụ hỗ trợ
Bảo vệ trật tự an ninh là bảo vệ trật tự, an toàn xã hội- trạng thái xã hội
bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các qui phạm pháp
luật, các qui tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lí ác định. Bảo vệ, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội bao gồm các nội dung: Đấu tranh phòng, chống tội phạm
(trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hoà bình, chống
loài người và tội phạm chiến tranh); Giữ gìn trật tự nơi công cộng; Đảm bảo
trật tự an toàn giao thông; Bài trừ các tệ nạn xã hội; Phòng ngừa tai nạn lao
động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh và Bảo vệ môi trường. Hỗ trợ có
hiệu quả cho các hoạt động nói trên, phải kể đến vai trò của các loại CCHT sử
dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh. Khái niệm CCHT có thể được tiếp
cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ ngôn ngữ học:
Từ điển Tiếng Việt không nhắc tới khái niệm CCHT mà chỉ đề cập tới
hai khái niệm là “công cụ” và “hỗ trợ”. Theo Từ điển Tiếng Việt, công cụ
được hiểu là “cái dùng để tiến hành một việc nào đó, để đạt đến một mục đích
nào đó” [18, tr.201]. Và “hỗ trợ” là “giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào”
[18, tr.441]. Như vậy, có thể hiểu, “công cụ hỗ trợ” là “cái giúp đỡ cho đối
tượng nhất định tiến hành một việc nào đó nhằm đạt được mục đích nhất



7

định”. CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh, theo cách hiểu
này, là “cái giúp các chủ thể nhất định thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an
ninh của mình”.
Dưới góc độ quản lý Nhà nước:
Khái niệm CCHT được đề cập tới trong một công trình nghiên cứu khoa
học cấp Bộ: “Nâng cao hiệu quả Quản lý nhà nước về vũ khí, CCHT theo
chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân, phục vụ phòng ngừa, phát hiện
tội phạm trong tình hình mới” Mã số: B.C.2007.C13.016 năm 2010 do Đại tá
Vũ Bá Dạc - Cục Phó Cục C64 - Tổng cục Cảnh sát Quản lý Hành chính về
Trật tự an toàn xã hội - Bộ Công an làm chủ nhiệm đề tài. Trong nghiên cứu
này, CCHT được hiểu là “các loại phương tiện đặc biệt, chuyên dùng được
trang bị cho những đối tượng theo quy định của pháp luật nhằm giúp họ có
thêm điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao” [13, tr.13]. Cách định nghĩa
dưới góc độ này, xem xét CCHT theo nghĩa hẹp, chỉ đề cập đến các loại
CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh. Định nghĩa này quan tâm
đến hai nội dung cơ bản của CCHT là: Bản chất CCHT là một loại phương
tiện đặc biệt, chuyên dụng và đối tượng sử dụng là những chủ thể được pháp
luật quy định, sử dụng CCHT nhằm hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cách
định nghĩa này hạn chế ở chỗ chưa làm rõ được công dụng của CCHT sử
dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh- dấu hiệu cơ bản để phân biệt
CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh với các loại CCHT sử
dụng trong các lĩnh vực khác như: giáo dục, y tế, giao thông,… Công dụng
của CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh cần kể đến là khả
năng kiểm soát, khống chế, uy hiếp,… đối tượng chịu tác động.
Dưới góc độ pháp lý:
Các văn bản trước đây và văn bản hiện hành đều không đưa ra khái niệm
“công cụ hỗ trợ”. Các quy định này có điểm chung là cùng liệt kê các loại



8

công cụ được coi là CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh. Tại
điểm d khoản 1 và khoản 3 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và
công cụ hỗ trợ ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12 tháng 8 năm
1996 quy định CCHT bao gồm: Các loại roi cao su, roi điện, găng tay điện;
lựu đạn cay, súng bắn hơi cay, ngạt, gây mê; bình xịt hơi cay, ngạt, gây mê;
súng bắn đạn nhựa, cao su; súng bắn laze, súng bắn đinh, súng bắn từ trường
và các loại công cụ hỗ trợ khác.
Tuy nhiên, đến Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 về quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và CCHT (thay thế Nghị định số 47/CP ngày 12 tháng 8
năm 1996) là văn bản hiện hành điều chỉnh trực tiếp về CCHT sử dụng trong
lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh đã chia CCHT thành 5 nhóm, bao gồm:
“a, Các loại súng dùng để bắn đạn nhựa, đạn cao su, hơi cay, hơi ngạt,
chất độc, chất gây mê, từ trường, la-de, pháo hiệu và các loại đạn sử dụng
cho các loại súng này.
b, Các loại phương tiện xịt hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, chất
gây ngứa.
c, Các loại lựu đạn khói, lựu đạn cay, quả nổ.
d, Các loại dùi cui điện, dùi cui cao su, dùi cui kim loại, khoá số tám,
bàn chông đinh gai, áo giáp, găng tay điện, găng tay bắt dao, lá chắn, mũ
chống đạn.
đ, Động vật nghiệp vụ.”
Theo quy định này, CCHT là bất cứ phương tiện nào thuộc một trong các
nhóm theo quy định nêu trên. Từ bản chất chung của các phương tiện trên, có
thể hiểu: CCHT là một loại phương tiện đặc biệt, có khả năng sát thương, uy
hiếp và phòng vệ, chỉ được trang bị cho một số cơ quan, tổ chức, cá nhân nhất
định nhằm mục đích làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự an toàn xã hội.



9

Như vậy, theo cách chung nhất, có thể hiểu: “CCHT là một loại phương
tiện đặc biệt có tác dụng uy hiếp tinh thần làm tê liệt, hạn chế khả năng tấn
công của đối phương trong một khoảng thời gian nhất định và chỉ được trang
bị cho một số cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm mục đích làm nhiệm vụ bảo vệ
trật tự an ninh, an toàn xã hội”.
Từ định nghĩa nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm của công cụ hỗ trợ
như sau:
(i) Công cụ hỗ trợ là một loại phương tiện đặc biệt được quản lý chặt
chẽ theo quy định của pháp luật. Đặc điểm này xuất phát từ tính năng, cấu tạo
và mục đích sử dụng các loại CCHT. Nếu CCHT bị các cá nhân sử dụng
không đúng theo quy định hoặc sử dụng cho các mục đích ấu thì ảnh hưởng
rất lớn đối với trật tự an ninh, là nguyên nhân của các hành vi vi phạm pháp
luật. Vì vậy, các CCHT phải được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp
luật và là một nội dung của quản lý hành chính nhà nước về trật tự an ninh.
(ii) Công cụ hỗ trợ là phương tiện đặc biệt có tính năng sát thương cao.
Đặc điểm này xuất phát từ chức năng của CCHT là dùng để trấn áp, tấn công,
phòng vệ, làm tê liệt các các hành vi, vi phạm pháp luật của các đối tượng
ngay tức thì mà không gây tử vong.
(iii) Công cụ hỗ trợ là những phương tiện đặc biệt được sử dụng để bảo vệ
trật tự an ninh, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng
công an nhân dân và các lực lượng chuyên trách. Do đó CCHT chỉ được trang
bị cho một số đối tượng chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ cho việc phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội cũng như nhu cầu bảo vệ an toàn tính mạng tài sản của nhân dân.
(iv) Công cụ hỗ trợ là loại phương tiện đặc biệt với nhiều mẫu mã,chủng
loại đa dạng. Là kết tinh của thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ do



10

vậy CCHT luôn luôn đổi mới cả về mẫu mã, công nghệ và ứng dụng để đạt
được hiệu quả cao nhất. Vì vậy, trong u hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, các nhà quản lý, các nhà làm luật phải thường xuyên cập nhật thông tin
về CCHT để kịp thời có biện pháp quản lý cho phù hợp tránh việc CCHT bị
lạm dụng gây hậu quả nghiêm trọng tới vấn đề trật tự an ninh.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ
Bảo vệ trật tự an ninh là hoạt động thường xuyên, tồn tại ở bất kỳ quốc
gia nào, thậm chí bất kỳ khu vực địa lý nào trong cùng một quốc gia. Trợ giúp
cho hoạt động bảo vệ đó là các CCHT để uy hiếp hoặc khống chế đối tượng
nào đó tại một thời điểm nhất định. Thực tiễn xã hội đặt ra vấn đề sử dụng các
loại CCHT. Theo quy luật “cung- cầu” trong nền kinh tế thị trường, khi có
nhu cầu, sẽ có nhà cung cấp để đáp ứng nhu cầu đó. Vì vậy, pháp luật các
quốc gia khác trên thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều
thừa nhận hoạt động kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự
an ninh. Đồng thời, thừa nhận quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh, cho phép họ tiếp cận lĩnh vực kinh doanh mới và không kém phần
phức tạp này khi đáp ứng những điều kiện nhất định.
Vấn đề đặt ra là “Hoạt động kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực
bảo vệ trật tự an ninh” cần được hiểu như thế nào? Hoạt động kinh doanh đó
bao gồm những hoạt động thương mại cụ thể nào?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005, kinh doanh
“là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch
vụ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa các chủ thể kinh doanh



11

với người tiêu dùng cuối cùng, với mục đích là thu được lợi nhuận hoặc nhằm
mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy hoạt động kinh doanh được
hiểu là một quá trình liên tục từ nghiên cứu thị trường đến tìm cách đáp ứng
nhu cầu đó thông qua việc thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng để đạt được mục
đích kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh CCHT được hiểu là hoạt động kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh được phép kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt có sự quản
lý của nhà nước cho một số đối tượng được phép sử dụng nhằm mục đích bảo
vệ trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Theo quy định tại Nghị định 72/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
03/09/2009 quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện và Thông tư 33/2010/TT-BCA của Bộ Công an ngày
05/10/2010 quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện thì kinh doanh CCHT là hoạt động kinh doanh có
điều kiện. Hoạt động này chỉ được tiến hành bởi một số doanh nghiệp thuộc
Bộ công an, Bộ Quốc Phòng và một số doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân
thỏa mãn các điều kiện luật định. Từ đây, có thể đưa ra một số đặc điểm của
hoạt động kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh
như sau:
(i) Kinh doanh công cụ hỗ trợ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
“Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải
thực hiện khi kinh doanh ngành nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép
kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề,
chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định
hoặc yêu cầu khác” (khoản 2 Điều 7- Luật Doanh nghiệp). Đối với các doanh
nghiệp, đơn vị, cơ sở kinh doanh CCHT phải có Giấy chứng nhận đủ điều
kiện về an ninh trật tự để làm ngành nghề kinh doanh có điều kiện do Cục



12

C64 thuộc Tổng cục Quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội- Bộ Công
an cấp.
(ii) Hàng hóa trong hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ là nhóm sản
phẩm đặc biệt đã được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật.
Hàng hóa của hoạt động kinh doanh CCHT bị giới hạn về chủng loại,
yêu cầu chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Các sản phẩm này thuộc
danh mục quản lý của nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn chất
lượng, quy chuẩn kỹ thuật. Cụ thể, trên mỗi sản phẩm do doanh nghiệp nhập
khẩu hoặc sản xuất phải đóng số series, model, thời hạn sử dụng, hãng sản
xuất cũng như uất xứ sản phẩm và báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền.
(iii) Chủ thể hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ bị hạn chế.
Chủ thể kinh doanh là các cơ sở, doanh nghiệp của Bộ Công an, Bộ
quốc phòng và các tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo đủ các điều kiện:
Được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; Có đủ điều kiện về
an ninh trật tự và được cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
đủ điều kiện về an ninh trật tự để làm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện;
Các chủ thể này tiến hành các hoạt động kinh doanh CCHT từ khâu sản xuất
đến phân phối sản phẩm hoặc chỉ thực hiện một trong hai khâu sản xuất hoặc
phân phối nhằm mục đích lợi nhuận. Riêng hoạt động phân phối, chủ thể kinh
doanh CCHT có thể thực hiện thông qua một hoặc nhiều cách thức: Phân phối
hàng do mình sản xuất; Phân phối hàng do mình mua từ nhà sản xuất; Mua để
bán lại cho người sử dụng.
Chủ thể kinh doanh CCHT còn bị giới hạn bởi Giấy phép mua vũ khí thô
sơ và CCHT. Theo đó họ chỉ được phép mua hoặc bán đúng số lượng, chủng
loại CCHT tại đơn vị được ghi trên giấy phép mua do cơ quan công an có

thẩm quyền cấp.


13

Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật, các doanh nghiệp kinh doanh CCHT cũng chịu sự tác động và chi phối
của các quy luật kinh tế, hệ thống chính sách và luật pháp của nhà nước cũng
như các yếu tố môi trường kinh doanh khác. Doanh nghiệp cũng tiến hành các
hoạt động mua bán CCHT, cung ứng dịch vụ sửa chữa CCHT và các hoạt
động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện chính sách
an ninh xã hội.
(iv) Chủ thể mua sử dụng công cụ hỗ trợ cũng bị giới hạn theo quy định
của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, chỉ một số đối tượng được phép trang bị
CCHT như: Quân đội nhân dân; Dân quân tự vệ; Công an nhân dân; An ninh
hàng không; Kiểm lâm; Lực lượng bảo vệ chuyên trách của cơ quan tổ chức,
doanh nghiệp, đơn vị hải quan cửa khẩu; Đội kiểm tra của lực lượng Quản lý
thị trường,... Tuy nhiên các lực lượng này cũng chỉ được trang bị một số
chủng loại CCHT nhất định phụ thuộc vào tính chất, yêu cầu nhiệm vụ của
đơn vị đó. Ví dụ: Nhân viên bảo vệ của các công ty dịch vụ bảo vệ được sử
dụng các loại dùi cui điện, dùi cui sắt; Lực lượng kiểm lâm được sử dụng tất
cả các loại CCHT.
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ
CCHT có vai trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, góp phần không nhỏ vào quá trình xây dựng đất nước.
CCHT liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tính
mạng và tài sản của nhân dân.
Các hoạt động kinh doanh CCHT là cơ sở trang bị cho các lực lượng
chức năng các loại CCHT mới, hiện đại, với nhiều tính năng tác dụng đáp ứng

yêu cầu giữ gìn, bảo vệ trật tự an ninh trong tình hình mới. Nhờ có hoạt động
này, nhiều sản phẩm công nghệ mới đã được nhập khẩu hoặc chuyển giao


14

công nghệ cho các đơn vị sản xuất trong nước góp phần kiện toàn hệ thống
phương tiện bảo vệ trật tự an ninh ngày một hiện đại và đồng bộ.
Hoạt động kinh doanh CCHT được kiểm soát chặt chẽ, giúp các cơ quan
quản lý nhà nước thống kê các loại CCHT hiện có, điều tra tình hình sử dụng
CCHT, từ đó đề ra định hướng phát triển hay thu hẹp đối tượng sử dụng, chủng
loại sản phẩm đồng thời giúp các cơ quan chức năng trong việc điều tra phá án
đối với các vụ án có sử dụng CCHT thông qua việc truy tìm nguồn gốc của
CCHT. Thông qua quản lý hoạt động kinh doanh CCHT, cơ quan quản lý nhà
nước nắm được yêu cầu sử dụng của từng ngành, từng cấp, từng địa phương về
các loại CCHT, cũng như kế hoạch trang bị cho các đối tượng sử dụng, phục vụ
cho việc sản xuất, vận chuyển, xuất nhập khẩu các loại CCHT một cách hợp lí,
đảm bảo yêu cầu chính xác, khách quan nhằm phục vụ tốt cho yêu cầu quản lí
của nhà nước, thỏa mãn các nhu cầu của công dân, đồng thời góp phần tích cực
vào công tác bảo vệ an ninh trật tự và phát triển kinh tế - xã hội.
Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh CCHT có vị trí đặc biệt trong nền kinh
tế. Các hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận, phát triển sức sản xuất, huy
động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định
vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách, tham gia giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, thực hiện chính sách an sinh xã hội cũng như các nhiệm vụ mục tiêu
chính trị của Đảng và nhà nước về an ninh trật tự.
1.2. Khái quát pháp luật về kinh doanh công cụ hỗ trợ
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động

kinh doanh công cụ hỗ trợ
CCHT là loại phương tiện đặc biệt, chuyên dùng được trang bị cho
những đối tượng theo quy định của pháp luật nhằm giúp họ có thêm điều kiện


15

thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. CCHT mang tính đặc thù liên quan đến trật
tự an ninh. Kinh doanh công cụ trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh nhất thiết
phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, kinh doanh CCHT là hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp, các cơ sở kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp
này được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật và được pháp
luật điều chỉnh theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, xuất phát từ tính sát thương của CCHT nên hoạt động kinh
doanh CCHT phải được điều chỉnh và quản lý bằng pháp luật mang tính đặc
thù. Việc ban hành các văn bản pháp luật về quy trình quản lý chất lượng, tiêu
chuẩn kỹ thuật là cơ sở để các đơn vị sản xuất và kinh doanh CCHT áp dụng
khi đưa vào thị trường những sản phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó, các
hoạt động xuất nhập khẩu, vận chuyển, bảo quản và xuất bán CCHT của các
doanh nghiệp phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo một quy trình, thủ tục
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để tránh tình trạng cháy nổ, tai
nạn, thất lạc,..., gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh
và sự phát triển của nền kinh tế đất nước cũng như ảnh hưởng đến môi trường
(trường hợp thanh lý tiêu hủy CCHT).
Thứ ba, CCHT có vai trò hết sức quan trọng liên quan trực tiếp đến tình
hình trật tự an ninh và là công cụ cần thiết để phục vụ yêu cầu bảo vệ thành
quả kinh tế- xã hội của đất nước. CCHT chỉ được trang bị cho một số đối
tượng chức năng làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự an ninh theo luật định và nhu
cầu hợp pháp khác của công dân. Vì vậy, để tránh tình trạng sử dụng sai mục

đích cũng như lạm quyền sử dụng CCHT thì nhất thiết phải có các quy định
pháp luật điều chỉnh đối với lực lượng này. Các quy định của pháp luật là cơ
sở để các đơn vị quản lý, các đơn vị sử dụng, chấp hành đầy đủ nghiêm túc
các quy định về sử dụng, bảo quản, vận chuyển CCHT tránh tình trạng thất
lạc ra ngoài không thể kiểm soát được.


16

Thứ tƣ, CCHT là phương tiện mà tội phạm có thể sử dụng để hoạt động
tội phạm, là khách thể của hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế, bọn tội phạm
và các phần tử xấu thường lợi dụng CCHT như phương tiện để hoạt động
phạm tội như giết người, khủng bố, gây rối trật tự công cộng. Trong nhiều vụ
án, tội phạm sử dụng CCHT để thực hiện hành vi phạm tội để lại hậu quả rất
nghiêm trọng, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình điều tra làm rõ của cơ
quan chức năng. Mặt khác, CCHT còn là khách thể của các hành vi: buôn
bán, chế tạo, tàng trữ, chiếm đoạt, sử dụng trái phép làm phương hại đến tình
hình trật tự an ninh, sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vì thế CCHT
nói chung và hoạt động kinh doanh CCHT nói riêng nhất thiết phải được quản
lý và điều chỉnh bởi pháp luật.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, xu thế hội nhập
mở cửa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhiều lĩnh vực, ngành,
nghề kinh doanh được mở rộng, kinh doanh CCHT được xếp vào danh mục
các ngành hàng “nhạy cảm”. Vì vậy, các hoạt động kinh doanh như: uất
nhập khẩu, mua bán, sản xuất, bảo quản, vận chuyển, sử dụng CCHT phải
được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật để tránh việc sản xuất, buôn bán,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép nhằm gây án, quấy phá trật tự an ninh
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, tính
mạng và tài sản của nhân dân.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng các quy định pháp

luật đối với hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ
Thứ nhất, việc xây dựng các quy định pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh phụ thuộc vào
những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ; chủ trương, đường lối phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước.


17

Bản chất của pháp luật luôn mang tính giai cấp và tính xã hội. Pháp luật
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Tùy vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế- chính trịxã hội mà những lợi ích được pháp luật bảo vệ có sự thay đổi. Ở Việt Nam,
sau khi đất nước mới giành độc lập, Nhà nước ta chủ trương ây dựng nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Do đó, thời kỳ này, pháp luật tập trung bảo vệ
các quan hệ sở hữu tập thể, các quan hệ sở hữu tư nhân bị hạn chế phát triển.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp luật đã có những thay đổi đáng kể rõ rệt.
Pháp luật hướng tới tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường, thừa
nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và ghi nhận rộng rãi quyền tự do
kinh doanh của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Các chủ thể kinh doanh thời
kỳ này được phép đầu tư, kinh doanh vào tất cả các lĩnh vực, các ngành, nghề
mà pháp luật không cấm. Đồng thời, Nhà nước đã “mạnh dạn” cho phép các
doanh nghiệp được tham gia nhiều hơn vào nhiều lĩnh vực kinh doanh nhạy
cảm, trong đó có kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực trật tự an ninh.
Thứ hai, việc xây dựng các quy định pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh phụ thuộc vào tính
chất đặc trưng của CCHT.
CCHT có khả năng sát thương và được dùng để khống chế sức mạnh của
đối phương. Đây là loại hàng hóa đặc biệt, chỉ một số chủ thể nhất định mới
được phép sử dụng và chỉ một số chủ thể đáp ứng các điều kiện luật định mới

được phép kinh doanh. Điều này giúp Nhà nước kiểm soát được các đầu mối
kinh doanh CCHT, tránh tình trạng CCHT được sản xuất, bày bán tràn lan và
bị lợi dụng sử dụng không đúng mục đích, gây phương hại đến tính mạng, sức
khỏe và tài sản của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.


18

Cũng căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các CCHT, pháp luật quyết
định phương tiện, công cụ thế nào được coi là CCHT và cho phép kinh doanh.
Ví dụ: Pháp luật chưa có định nghĩa khi nào súng là một loại vũ khí và khi
nào thì súng là một loại CCHT. Tuy nhiên căn cứ vào tính năng tác dụng thì
ta có thể phân biệt: Súng là một loại vũ khí khi mang tính hủy diệt sự sống,
phá vỡ kết cấu vật chất. Súng là một loại CCHT khi mang tính sát thương,
ngăn chặn và huy hiếp đối phương. Theo pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12
của Ủy Ban thường vụ Quốc hội ngày 30/06/2011 thì căn cứ để phân biệt đó
là loại đạn được sử dụng cho súng đó. Súng là CCHT khi súng đó sử dụng
đạn nhựa, cao su, hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, la-de,
pháo hiệu. Các loại đạn này khi được bắn bằng súng chỉ mang tính sát thương,
uy hiếp, khống chế đối phương không mang tính hủy diệt sự sống.
Như vậy, có thể nói, tính chất đặc thù của CCHT ảnh hưởng rất lớn đến
việc xây dựng các quy định pháp luật về kinh doanh CCHT.
Thứ ba, việc xây dựng các quy định pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh phụ thuộc vào các
yếu tố chủ quan và khách quan khác.
Các yếu tố chủ quan và khách quan khác ở đây bao gồm: điều kiện kinh
tế- xã hội, khả năng lập pháp, ảnh hưởng của tư tưởng pháp luật truyền thống,
ảnh hưởng của các hệ thống pháp luật khác,…. Để xây dựng được hệ thống
pháp luật phù hợp với thực tiễn, cần dựa trên các quan hệ xã hội, các hiện
tượng xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng của thực tiễn khách quan để từ đó rút

ra những giá trị chuẩn mực từ trong nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó, trong quá
trình xây dựng pháp luật quốc gia về kinh doanh CCHT, các nhà lập pháp cần
nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế giới, đánh giá mức
độ tương thích và có sự vận dụng phù hợp.


19

1.2.3. Cấu trúc pháp luật về kinh doanh công cụ hỗ trợ
Kinh doanh CCHT sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an ninh có bản
chất là một hoạt động thương mại. Do đó, hoạt động này được điều chỉnh
trước tiên bởi các quy định của Luật Thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp
2005 và các văn bản hướng dẫn. Các luật chuyên ngành này điều chỉnh chủ
yếu các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thành lập doanh nghiệp,
đăng ký kinh doanh ngành nghề có điều kiện, các quan hệ phát sinh trong quá
trình mua bán, xuất nhập khẩu CCHT, giải quyết tranh chấp trong hợp đồng.
Bên cạnh đó, các quy định của Bộ luật Dân sự với tư cách là luật chung cũng
góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh
vực thương mại nếu Luật Thương mại không điều chỉnh; hoặc được áp dụng
đối với các hợp đồng ký giữa một bên là thương nhân với một bên không phải
là thương nhân, mà bên không phải là thương nhân lựa chọn áp dụng Bộ luật
Dân sự.
Luật đấu thầu và các văn bản hướng dẫn có liên quan cũng là văn bản
quan trọng mà các chủ thể kinh doanh CCHT cần lưu ý. Một số hợp đồng
mua bán CCHT có giá trị, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được thiết lập chủ yếu
sau khi bên mua đã tổ chức đấu thầu và lựa chọn thành công người bán.
Đặc biệt, các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động kinh doanh
CCHT được điều chỉnh chủ yếu bởi các văn bản luật chuyên ngành liên quan
đến kinh doanh CCHT. Quan trọng nhất phải kể đến đó là: Pháp lệnh số
16/2011/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quản lý, sử dụng vũ

khí, vật liệu nổ và CCHT; Nghị định số 25/2012/NÐ-CP của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ và CCHT; Thông tư số 30/2012/TT-BCA ngày 29/5/2012 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và
CCHT; Nghị định 26/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục,


×