Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Pháp luật việt nam hiện hành về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.79 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ VƢƠNG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.0107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh – Phó khoa
sau Đại học Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã tận tình hướng dẫn tác
giả hoàn thành luận văn này. Tác giả cũng xin cảm ơn các thầy, cô, bạn bè,
các cán bộ Cục quản lý cạnh tranh, gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ trong
suốt quá trình tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Vƣơng



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn
Thị Vân Anh.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Vƣơng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Cục QLCT

: Cục quản lý cạnh tranh

DN

: Doanh nghiệp

Luật Cạnh tranh

: Luật Cạnh tranh 2004

BHĐC

: Bán hàng đa cấp


NPP

: Nhà phân phối

TFTC

: Ủy ban thương mại lành mạnh Đài Loan

USFTC

: Ủy Ban thương mại liên bang Hoa Kỳ

SAIC

: Tổng cục thương mại và quản lý công nghiệp Trung Quốc


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1...................................................................................................... 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG
ĐA CẤP ……………………………………………………………………. 6
1.1. Khái quát về hoạt động bán hàng đa cấp và quản lý Nhà nƣớc đối với
hoạt động bán hàng đa cấp............................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm bán hàng đa cấp ............................................ 6
1.1.1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp ........................................................... 6
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động bán hàng đa cấp .................................... 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán
hàng đa cấp....................................................................................................... 9
1.1.2.1. Khái niệm quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ............................. 9

1.1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa
cấp………………………………………………………………………………..12
1.1.3. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa
cấp……………………………………………………………………….14
1.2. Sơ lƣợc sự phát triển của pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng
đa cấp ở Việt Nam ......................................................................................... 17
1.3. Sơ lƣợc lịch sử phát triển của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ............................................................. 20
1.3.1. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ .................................................... 20
1.3.2. Quy định của pháp luật Trung Quốc ............................................ 26
1.3.3. Quy định pháp luật của Hàn Quốc ............................................... 31
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 34
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
BÁN HÀNG ĐA CẤP ................................................................................... 34
2.1. Chủ thể kinh doanh hoạt động bán hàng đa cấp ................................ 34
2.1.1. Điều kiện đăng ký kinh doanh bán hàng đa cấp .......................... 34


2.1.2. Về quy định cấm đối với chủ thể kinh doanh bán hàng đa cấp .. 42
2.1.3. Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh hoạt động bán hàng đa
cấp……………………………………………………………………….43
2.2. Chủ thể tham gia hoạt động bán hàng đa cấp ..................................... 45
2.3. Đối tƣợng kinh doanh theo phƣơng thức bán hàng đa cấp và hợp
đồng tham gia bán hàng đa cấp ................................................................... 48
2.3.1. Đối tượng kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp ........ 48
2.3.2. Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp ........................................... 49
2.4. Cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động bán hàng đa cấp ....... 52
2.5. Xử lý vi phạm bán hàng đa cấp ............................................................ 55
CHƢƠNG 3. .................................................................................................. 57
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ

HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM ................................ 57
3.1. Thành tựu đạt đƣợc trong thực thi pháp luật quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp tại Việt Nam ............................................................................. 57
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý hoạt động bán hàng
đacấp……………………………………………………………………… 59
3.2.1. Hoàn thiện quy định về thủ tục đăng ký bán hàng đa cấp. ......... 60
3.2.2. Hoàn thiện về quy định hoa hồng và cách thức trả thưởng ........ 61
3.2.3. Hoàn thiện quy định về thông báo của các doanh nghiệp kinh
doanh bán hàng đa cấp............................................................................ 62
3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về hành vi bán hàng đa cấp vi
phạm pháp luật......................................................................................... 62
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nƣớc đối
với hoạt động bán hàng đa cấp trong thời gian tới .................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ và
hội nhập kinh tế quốc tế thì việc lựa chọn những phương thức kinh doanh hiệu
quả và phù hợp là vô cùng quan trọng. Những năm gần đây, người ta hay
nhắc tới mô hình kinh doanh “Bán hàng đa cấp” như một phương thức kinh
doanh mới hiệu quả nhưng cũng không ít người cho rằng phương thức kinh
doanh đó không phù hợp tại Việt Nam. Xuất hiện trên thế giới vào khoảng
thập niên 70 của thế kỷ XX. Bán hàng đa cấp du nhập vào Việt Nam vào
khoảng những năm 1998-1999. Mặc dù bản chất ngành nghề không sai,
nhưng do một số công ty vì lợi nhuận đã cố tình làm sai lệch mô hình này,

khiến Chính phủ, các cơ quan ban ngành và người dân hoài nghi về tính hiệu
quả của nó.
Bán hàng đa cấp dù không còn xa lạ đối với thị trường Việt Nam, song
bán hàng đa cấp (BHĐC) vẫn còn mới mẻ trong kinh nghiệm quản lý kinh tế
của Nhà nước và trong khoa học pháp lý. Trước khi có hành lang pháp lý cho
phương thức kinh doanh này, việc phát triển BHĐC ở Việt Nam diễn ra khá
lộn xộn và thường theo hình thức kinh doanh bất chính. Từ khi Luật Cạnh
tranh chính thức có hiệu lực và có sự điều chỉnh của các văn bản pháp lý để
quản lý hoạt động này thì chúng ta có thể thấy được thái độ của Nhà nước là
thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động BHĐC. Đồng thời văn bản pháp luật
ban hành cũng thiết kế trên một cơ chế quản lý riêng biệt đối với hoạt động
này. Cơ chế này bao gồm ba bộ phận cơ bản là: tiêu chuẩn hóa các điều kiện
của doanh nghiệp tổ chức BHĐC và người tham gia; quy định thủ tục cấp
giấy chứng nhận đăng ký tổ chức BHĐC; xác định các hành vi BHĐC vi
phạm pháp luật và trách nhiệm của người vi phạm. Tuy nhiên, nhận thức từ
phía các cơ quan quản lý nhà nước về bản chất kinh tế - pháp lý của hoạt động


2

này chưa thực sự đầy đủ và tại thời điểm ban hành Luật Cạnh tranh, chúng ta
chưa có kinh nghiệm trong việc quản lý nên còn tồn tại nhiều lúng túng trong
việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Sự chậm chân trong việc quản lý đã tạo
điều kiện cho một số kẻ lợi dụng sự cả tin để lừa đảo người dân, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính trong sạch của phương thức BHĐC.
Thực tế hoạt động của BHĐC tại Việt Nam hiện nay vẫn còn là một
vấn đề nhức nhối với cơ quan quản lý. Lợi dụng kẽ hở của pháp luật, các công
ty BHĐC bất chính đã lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng của hàng trăm
nghìn người dân, từ những người tri thức, những người đã có kinh nghiệm
làm việc lâu năm ở các cơ quan, doanh nghiệp, các sinh viên đại học…Thực

trạng đó làm nổi lên làn sóng bức xúc trong nhân dân, xuất hiện những ý kiến
trái chiều về ngành kinh doanh này. Một số người cho rằng đây là ngành kinh
doanh lừa đảo, gian dối, thậm chí còn cho rằng BHĐC không phù hợp ở Việt
Nam hay nên cấm tuyệt đối phương thức kinh doanh này ở nước ta. Một số
người khác hiểu biết hơn thì cho rằng BHĐC là phương thức ưu việt. Thực tế
tình trạng lộn xộn như hiện nay chỉ là do sự biến tướng của các doanh nghiệp
bất chính làm ăn phi pháp.
Trong bối cảnh nói trên, việc nghiên cứu pháp luật về quản lý hoạt
động BHĐC ở Việt Nam hiện nay là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam hiện hành về
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về BHĐC được rất nhiều nhà nghiên cứu luật học quan tâm,
trong đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam.
Tất cả các công trình này đều đã nêu lên bản chất pháp lý của BHĐC và
BHĐC bất chính. Tuy nhiên, các bài viết về vấn đề này chủ yếu mới dừng lại
ở các bài báo, tạp chí, báo mạng, khóa luận tốt nghiệp đại học. Có thể kể đến


3

một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về BHĐC bao gồm: Luận văn Thạc sĩ
“Một số vấn đề pháp lý về BHĐC ở Việt Nam” của tác giả Đoàn Văn Bình
(2006), Đại học Luật Hà Nội; Khóa luận tốt nghiệp “Một số nội dung pháp lý
về BHĐC ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh (2010),
Đại học Luật Hà Nội; Khóa luận tốt nghiệp “Những vấn đề pháp lý về hoạt
động BHĐC ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hằng (2011), Đại học Luật
Hà Nội; Khóa luận tốt nghiệp “Bán hàng đa cấp bất chính theo pháp luật
cạnh tranh Việt Nam” của tác giả Nghiêm Xuân Tuyên (2011) và một số bài
báo, tạp chí chuyên ngành cũng như rất nhiều công trình nghiên cứu về cạnh

tranh không lành mạnh, trong đó có đề cập đến vấn đề BHĐC bất chính.
Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ thì quản lý hoạt động BHĐC chưa có công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu. Do đó, trong luận văn này tác giả sẽ nghiên
cứu một cách toàn diện đến các vấn đề có liên quan đến pháp luật về quản lý
hoạt động BHĐC. Tác giả sẽ làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến
hoạt động BHĐC và quản lý hoạt động BHĐC; thực trạng những quy định
pháp luật về quản lý hoạt động BHĐC, trên cơ sở đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý hoạt động BHĐC tại Việt
Nam.
3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động
BHĐC với cái nhìn tổng quan từ đó giúp người đọc thấy được những hạn chế
nổi cộm nhất còn tồn đọng trong các quy định pháp luật hiện hành và sự cần
thiết phải hoàn thiện vấn đề này. Mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu đề
tài là đưa ra những phướng hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản
lý hoạt động BHĐC tại Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu


4

Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra; trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau
đây:
(i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
(ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như:
-


Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử… được sử

dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan về quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp.
-

Phương pháp pháp so sánh luật học, phương pháp điều tra, thống kê

xã hội học, phương pháp trao đổi…được sử dụng trong Chương 2 khi tìm
hiểu về quy định pháp luật Việt Nam đối với quản lý hoạt động bán hàng đa
cấp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật Việt Nam hiện hành về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp là
một đề tài có phạm vi nghiên cứu khá chuyên sâu. Với mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu ở trên, phạm vi nghiên cứu sẽ tập trung chủ yếu vào những vấn đề
nổi cộm trong quy định pháp luật về quản lý hoạt động BHĐC, phân tích
những điểm mới của quy định pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa
cấp. Đánh giá thực trạng và những bất cập của pháp luật trong quá trình thực
thi thời gian vừa qua. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề như đã nêu trên, tác
giả sẽ đưa ra kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về các vấn đề đã được đề cập.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về pháp luật quản lý
hoạt động BHĐC ở Việt Nam và đã đạt được những điểm mới sau: làm rõ


5

thêm về mặt lý luận của phương thức BHĐC và vấn đề quản lý hoạt động
BHĐC, vai trò của hoạt động quản lý BHĐC, rà soát và đánh giá lại toàn bộ

các quy định có liên quan tới quản lý hoạt động BHĐC tại Việt Nam; đánh
giá và chỉ ra được những bất cập nảy sinh từ bản thân các quy định hiện hành;
đánh giá và chỉ ra những khó khăn phát sinh trong quá trình thực thi, một số
vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn cần bổ sung các quy định pháp lý để điều
chỉnh kịp thời qua đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý
hoạt động BHĐC tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
Chƣơng 2: Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp.
Chƣơng 3: Thực trạng thực thi và một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.


6

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.1. Khái quát về hoạt động bán hàng đa cấp và quản lý Nhà nƣớc
đối với hoạt động bán hàng đa cấp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm bán hàng đa cấp
1.1.1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp
Xét về bản chất, BHĐC là một hình thức bán hàng mới của phương
thức bán hàng trực tiếp. Cũng giống như trong phương thức bán hàng trực
tiếp, hàng hóa trong phương thức BHĐC được những người phân phối độc
lập bán trực tiếp tới tay người tiêu dùng không thông qua những địa điểm bán
lẻ cố định. Tuy nhiên, điểm tiến bộ của BHĐC so với phương thức bán hàng

trực tiếp là người phân phối không chỉ làm nhiệm vụtiêu thụ hàng hóa mà còn
được phép tự xây dựng cho riêng mình một hệ thống những người phân phối
cấp dưới. Như vậy, thù lao của người phân phối không chỉ dựa trên số lượng
hàng hóa mà người đó bán được mà còn được hưởng từ những nỗ lực xây
dựng mạng lưới phân phối. Phương thức kinh doanh này hoạt động dựa trên
nguyên lý chia sẻ thông tin về hàng hóa trong các mối quan hệ và xã hội của
khách hàng hoặc người phân phối trong mạng lưới tiêu thụ.
Đầu tiên hàng hóa được sử dụng bởi một người tiêu dùng nào đó. Nếu
người này thỏa mãn về chất lượng cũng như công dụng của hàng hóa thì người đó
sẽ giới thiệu về hàng hóa đó cho những người thân quen của mình. Nếu những
người thân của người tiêu dùng ban đầu cũng hài lòng về hàng hóa thì họ sẽ giới
thiệu cho những người khác trong mối quan hệ của mình. Cứ như vậy thông tin
về hàng hóa sẽ được lan truyền nhanh chóng và rộng khắp trong cộng đồng.


7

Đây là một nguyên lý tự nhiên trong cuộc sống. Nắm bắt được nguyên lý này,
những người sáng lập ra phương thức BHĐC đã vận dụng nó một cách linh
hoạt vào công việc kinh doanh của mình và đã thu được những kết quả khả
quan ngoài dự đoán. Để khuyến khích việc tuyên truyền về sản phẩm trong
cộng đồng, thay vì để quá trình này diễn ra một cách tự phát, các công ty
BHĐC hứa trả thù lao cho những khách hàng tuyên truyền cho sản phẩm.
Khoản thù lao này chiếm một tỷ lệ khá lớn (từ 20%-65%) giá trị sản phẩm.
Nhờ có số tiền thưởng hấp dẫn mà thông tin về sản phẩm được quảng bá
nhanh chóng và rộng rãi trong cộng đồng.
Xuất phát từ bản chất và nguyên lý hoạt động nói trên tại Khoản 11
Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 đã đưa ra khái niệm về BHĐC, theo đó BHĐC là
phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới

người tham gia BHĐC gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
- Hàng hóa được người tham gia BHĐC tiếp thị trực tiếp cho người tiêu
dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không
phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham
gia.
- Người tham gia BHĐC được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc
lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham
gia BHĐC cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được
doanh nghiệp BHĐC chấp nhận.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động bán hàng đa cấp
Từ nghiên cứu khái niệm của hoạt động BHĐC, có thể rút ra một số
đặc điểm của phương thức BHĐC như sau:


8

Thứ nhất, BHĐC là hoạt động kinh doanh bán hàng trực tiếp đến tay
người tiêu dùng thông qua phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa. Đặc điểm
này cũng được khẳng định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 42/2014/NĐ-CP.
Trước hết chúng ta khẳng định đây là phương thức bán lẻ hàng hóa, nói
cách khác thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng doanh nghiệp tổ
chức BHĐC sẽ thiết lập được mối quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với
người tiêu dùng mà không cần tốn các chi phí, khoản đầu tư, thành lập, duy trì
mạng lưới phân phối dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc đại lý
phân phối theo pháp luật thương mại. Doanh nghiệp BHĐC thường là doanh
nghiệp trực tiếp sản xuất hàng hóa được tiếp thị và bán lẻ bằng phương thức
đa cấp hoặc cũng có thể là doanh nghiệp phân phối hàng hóa do doanh nghiệp
khác sản xuất. Do vậy, thông qua phương thức BHĐC người tiêu dùng có cơ
hội mua được những sản phẩm từ chính gốc, tránh những rủi ro có thể phát
sinh trong quá trình phân phối như nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, giá cả

không trung thực.
Thứ hai, doanh nghiệp BHĐC tiếp thị hàng hóa thông qua những người
tham gia được tổ chức ở nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau. Có thể nói, người
tham gia BHĐC là những cộng tác viên trong việc tiếp thị và bán lẻ hàng hóa
cho doanh nghiệp và được gọi là NPP. Trong hoạt động của mình, NPP thực
hiện việc giới thiệu và bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng mà không
qua một cửa hàng hay đại lý nào. Hàng hóa được NPP tiếp thị tại nơi ở, nơi
làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán
lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hay của NPP. Họ trực tiếp gặp gỡ người
tiêu dùng để giới thiệu và bán lẻ sản phẩm và do đó, họ không phải đăng ký
kinh doanh khi tham gia BHĐC. Mỗi người tham gia BHĐC được tổ chức
một mạng lưới phân phối mới và việc này phải được sự đồng ý của doanh
nghiệp. Chính vì vậy, số người tham gia ở cấp sau luôn nhiều hơn so với cấp


9

trước nó, làm cho phương thức kinh doanh này tạo ra một hệ thống phân phối
theo hình tháp. Trong hoạt động của mình, NPP thực hiện việc giới thiệu và
bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng mà không qua một cửa hàng hay
đại lý nào cả. Hoạt động của hệ thống đa cấp được tổ chức thành mạng lưới
nhiều cấp, cấp dưới luôn có người tham gia nhiều hơn cấp trên. Trong quan
hệ nội bộ của mạng lưới, người tham gia ở cấp trên có vai trò tổ chức và điều
hành hoạt động của những người trong mạng lưới cấp dưới mình. Như vậy
phương thức kinh doanh này đã tạo ra một hệ thống phân phối theo hình tháp.
Thứ ba,người tham gia BHĐC được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng,
lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng của mình và của người tham gia khác
trong mạng lưới do họ tổ chức ra. Cách thức phân chia lợi ích như trên không
chỉ kích thích người tham gia tích cực tiêu thụ hàng hóa mà còn kích thích họ
tích cực tạo lập hệ thống phân phối cấp dưới. Khoản lợi nhuận hoa hồng của

các NPP sẽ phụ thuộc vào khoản tiền chênh lệch giá trị khi họ lấy hàng hóa từ
doanh nghiệp với giá sỉ và bán ra với giá lẻ đã được công ty ấn định và số hoa
hồng trích từ phần trăm hoa hồng của những người tham gia ở cấp dưới do
mình xây dựng nên.
Hoạt động kinh doanh đa cấp có những ưu điểm vượt trội so với
phương thức bán hàng truyền thống nếu hoạt động hợp pháp. Tuy nhiên hoạt
động này có thể biến tướng dưới hình thức kinh doanh đa cấp theo mô hình
kim tự tháp ảo.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán
hàng đa cấp
1.1.2.1. Khái niệm quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
Hoạt động BHĐC đòi hỏi phải có sự quản lý của nhiều chủ thể khác
nhau để đảm bảo cho hoạt động này có hiệu quả và hoạt động theo mục tiêu
nhất định. Không nằm ngoài xu thế hội nhập và phát triển của nước ta, từ


10

những năm cuối thế kỉ XX thì BHĐC cũng đã bắt đầu xuất hiện và phát triển.
Khởi đầu là những sự hợp tác phân phối rồi sau đó là sự hiện diện của các
công ty nước ngoài và các doanh nghiệp thuần Việt kinh doanh trong lĩnh vực
này. Thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XXI đã chứng kiến sự bùng nổ của BHĐC
nước ở nước ta. Hàng loạt doanh nghiệp ra đời trong đó có sự xuất hiện của
các tập đoàn kinh doanh đa cấp hàng đầu thế giới, các công ty này không
ngừng lớn mạnh, nhiều công ty trong số đó có cả mạng lưới phân phối quy
mô toàn quốc với số lượng người tham gia vô cùng lớn với đủ mọi thành
phần, đủ mọi lứa tuổi và doanh số bán của chúng là những con số khổng lồ.
Trong bối cảnh đó không ít các công ty đã lợi dụng sự mới mẻ, thiếu
hiểu biết của người dân và kẽ hở của pháp luật để tiến hành lừa đảo, kinh
doanh đa cấp bất chính. Những điều này tác động không nhỏ đến nền kinh tế.

BHĐC là một mô hình kinh doanh mới mẻ ở Việt Nam nhưng nó tồn tại rất
nhiều vấn đề nhạy cảm và nóng bỏng. Bán hàng đa cấp phát triển quá mạnh
mẽ khiến cho lợi nhuận từ việc quảng cáo của báo đài, truyền hình bị ảnh
hưởng, cộng thêm nhiều công ty lừa đảo núp bóng kinh doanh đa cấp và một
bộ phận không nhỏ nhà phân phối đa cấp thực hiện hành vi sai trái đã làm cho
dư luận bắt đầu lên tiếng phản đối kinh doanh đa cấp. Các phương tiện thông
tin đại chúng liên tục phản ảnh các hành vi lừa đảo, BHĐC bất chính của
doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Nhiều đại biểu Quốc hội còn đưa vấn đề
BHĐC bất chính ra chất vấn cơ quan quản lý Nhà nước trước Quốc hội.Một
số ý kiến còn cho rằng nên cấm hoàn toàn hoạt động BHĐC tại Việt Nam.
Thực tế trên đòi hỏi cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý hoạt
động BHĐC tạo nền tảng cho công tác quản lý BHĐC qua đó phân định rạch
ròi BHĐC và các hình thức kinh doanh lừa đảo núp bóng BHĐC, siết chặt
quản lý, góp phần tạo lòng tin cho người tham gia cũng như người tiêu dùng,
tạo môi trường thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp


11

BHĐC chân chính và góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh hơn và rộng hơn
của phương thức kinh doanh này.
Thực trạng của hoạt động BHĐC đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có
sự quản lý hoạt động của các tổ chức BHĐC. Vậy thì quản lý hoạt động
BHĐC cần phải được hiểu và định nghĩa như thế nào?
“ Quản lý hoạt động BHĐC là hoạt động quản lý của Nhà nước được
thực hiện hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
có nội dung là bảo đảm sự chấp hành pháp luật của chủ thể quản lí đối với
các đối tượng quản lí trong hoạt động BHĐC”.
Trong quá trình điều hành, cơ quan quản lí hoạt động BHĐC có quyền
nhân danh Nhà nước ban hành những văn bản pháp luật để đặt ra các quy

phạm pháp luật hay các mạnh lệnh cụ thể bắt buộc các đối tượng của hoạt
động BHĐC phải thực hiện.
Chúng ta có thể hiểu rằng hoạt động BHĐC dưới góc độ xã hội nó là
tổng thế các mối quan hệ giữa người với người. Điều đó có nghĩa con người
không thể tồn tại và phát triển nếu không quan hệ và hoạt động với người
khác. Khi con người cùng tham gia hoạt động với nhau thì tất yếu phải có “ý
chí điều khiển” hay là phải có tác nhân quản lý nếu muốn đạt tới trật tự và
hiệu quả. Mặt khác, con người thông qua hoạt động để thỏa mãn nhu cầu này
lại phát sinh nhu cầu khác vì vậy con người thường phải tham dự vào nhiều
hình thức hoạt động với nhiều loại hình tổ chức khác nhau. Chính vì vậy, hoạt
động quản lý BHĐC tồn tại như một điều tất yếu.
Như vậy, các chủ thể quản lý được sử dụng quyền lực Nhà nước để tổ
chức và điều khiển hoạt động của các đối tượng quản lý, qua đó thể hiện một
các rõ nét mối quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa chủ thể quản lý và các
đối tượng quản lý trong lĩnh vực quản lý hoạt động BHĐC.


12

1.1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa
cấp
Thứ nhất, quản lí hoạt động BHĐC biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể
quản lí và đối tượng quản lý.
Ở đây có thể nhận thấy rõ chủ thể quản lý hoạt động BHĐC là cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực BHĐC. Đối tượng quản lý ở đây là
các doanh nghiệp BHĐC, người tham gia BHĐC và cơ quan, tổ chức, các
nhân khác có liên quan đến hoạt động BHĐC. Cùng với sự phát triển của
phương thức BHĐC đã xuất hiện một phương thức kinh doanh lừa đảo theo
mô hình “kim tự tháp” mà Luật Cạnh tranh của Việt Nam gọi là “bán hàng đa
cấp bất chính” nên hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ thừa nhận BHĐC và

đều có các văn bản pháp lý để cấm phương thức kinh doanh theo mô hình kim
tự tháp, đồng thời để quản lý chặt chẽ phương thức BHĐC.Pháp luật về
BHĐC là công cụ quản lý hoạt động BHĐC cần thiết và hiệu quả, có vai trò
quan trọng trong việc chống lại các hành vi BHĐC bất chính, bảo vệ thị
trường, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng
của doanh nghiệp, người tiêu dùng và của toàn xã hội. Nhà nước và các cơ
quan quản lý hoạt động BHĐC quản lý các hoạt động sao cho các hoạt động
này thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời quản lý hoạt động
BHĐC của các doanh nghiệp khác tránh các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
Hoạt động quản lý được tiến hành trên cơ sở các công cụ, phương tiện
và cách thức tác động nhất định. Tuy nhiên, khác với các hoạt động khác,
hoạt động quản lý chỉ có thể tồn tại khi sử dụng quyền lực (có thể nói quyền
lực là một công cụ, phương tiện đặc biệt). Với tư cách là sức mạnh, quyền lực
hay nói chính xác quyền lực Nhà nước là nhân tố giúp chủ thể quản lý hoạt
động BHĐC tác động tới đối tượng quản lý BHĐC để điều khiển hành vi của


13

họ. Quyền lực trong trường hợp này được thể hiện thông qua các quyết định
quản lý, các nguyên tắc quản lý, các chế độ quản lý, các chế độ, chính sách…
Nhờ có quyền lực Nhà nước mà các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản
lý hoạt động BHĐC mới đảm trách được vai trò của mình là duy trì kỷ cương,
kỷ luật và xác lập sự phát triển ổn định bền vững của các tổ chức. Điều đáng
lưu ý là cách thức sử dụng quyền lực của chủ thể quản lý có ý nghĩa quyết
định tính chất, đặc điểm của hoạt động quản lý, của văn hóa quản lý, đặc biệt
là của phong cách quản lý.
Thứ hai, quản lý hoạt động bán hàng đa cấp của Nhà nước là một nội
dung của quản lý Nhà nước về kinh tế.

Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp
quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được
các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở
rộng giao lưu quốc tế. Đối với quản lý hoạt động bán hàng đa cấp thì Nhà
nước cũng đã có sự quan tâm đúng đắn và cần thiết thể hiện bởi một hành
lang pháp lý quy định về các vấn đề như điều kiện gia nhập của chủ thể kinh
doanh bán hàng đa cấp, người tham gia bán hàng đa cấp, đối tượng của kinh
doanh đa cấp. Ngoài ra, Chính phủ cũng có những văn bản về xử lý vi phạm
đối với trường hợp bán hàng đa cấp bất chính, chính sách thuế cũng là một
vấn đề được quan tâm. Về Cơ quan quản lý Nhà nước đối với quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp cũng đã được hệ thống từ trên xuống dưới, đảm bảo
thực hiện tốt những vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình.
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đại
hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức Nhà


14

nước và tập thể là chủ yếu, đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tham gia vào quá trình quản lý kinh tế với
tư cách là nhà quản lý vĩ mô, Nhà nước điều tiết các hoạt động thị trường,
giữa cho nền kinh tế phát triển ổn định đi theo đúng hướng do Đảng, Nhà
nước đã vạch ra. Nhờ vậy, trong những năm qua hoạt động bán hàng đa cấp
đã có được những bước tiến quan trọng, qua đó góp phần thêm vào sự phát
triển của nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung.
Thứ ba, quản lý hoạt động BHĐC nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu

bảo vệ hoạt động BHĐC hợp pháp và ngăn chặn, xử lý hoạt động BHĐC bất
chính.
Hiệu quả của hoạt động này cụ thể được đo bằng kết quả cuối cùng mà
nó mang lại nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể quản lý hoạt động BHĐC và
đáp ứng được cả lợi ích của đối tượng quản lý hoạt động BHĐC. Nó là hoạt
động vừa phải đạt được hiệu lực, lại vừa phải đạt được hiệu quả.
Trong thực tiễn quản lý, không phải bao giờ mục tiêu cũng được thực
hiện một cách triệt để. Điều đó tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của
những giai đoạn lịch sử nhất định. Những xung đột về lợi ích giữa chủ thể
quản lý với đối tượng quản lý thường xuyên tồn tại. Vì vậy, hoạt động quản lý
BHĐC xét đến cùng là phải đưa ra các tác động nhằm khắc phục những xung
đột ấy.
1.1.3. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán hàng
đa cấp
Quản lý hoạt động BHĐC là hoạt động của chủ thể quản lý, bao gồm:
Nhà nước, các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, NPP, người tiêu dùng nhằm
mục đích phát hiện và ngăn chặn các hoạt động BHĐC vi phạm pháp luật
thông qua hệ thống các quy định và chế tài trong lĩnh vực BHĐC. Trong đó,


15

cơ quan quản lý hoạt động BHĐC quản lý các doanh nghiệp BHĐC, người
tham gia bán BHĐC, các cơ quan tổ chức có liên quan sao cho các hoạt động
được thực hiện theo đúng khuôn khổ pháp luật.
Có những bước phát triển tích cực sau hơn 12 năm xuất hiện tại Việt
Nam nhưng khi nhắc tới BHĐC, vẫn còn không ít người cho rằng đây chính
là hình thức “lừa đảo” bởi lẽ bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh chân
chính, vẫn còn không ít doanh nghiệp và cà NPP lợi dụng phương thức kinh
doanh này để thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho cả người tham gia và người

tiêu dùng. Đặc biệt, những vụ việc liên tiếp xảy ra gần đây như công ty Agel
sụp đổ hay MB24. Công ty cổ phần Đầu tư Tâm Mặt Trời và Công ty cổ phần
Đầu tư thương mại dịch vụ Cộng đồng Việt bị khởi tố vì có hành vi kinh
doanh lừa đảo lại càng tác động tiêu cực đến mô hình BHĐC chân chính.
Phần lớn các công ty đều có công ty nước ngoài núp bóng và chỉ đạo, đồng
thời cung cấp hàng hóa, chi phí quảng cáo, tiếp thị. Cách thức kinh doanh phổ
biến là không có trách nhiệm, sẵn sàng đóng cửa chuyển địa điểm, lập doanh
nghiệp mới. Phương thức kinh doanh này phức tạp về cách tổ chức nên việc
quản lý hệ thống phân phối đa cấp trở nên khó khăn, rất dễ bị lợi dụng để
phục vụ mưu đồ lừa đảo. Hình thức kinh doanh thường dùng là lấy hàng hóa
để che đậy hành vi lừa đảo của mình. Các doanh nghiệp bán hàng theo
phương thức BHĐC thường bán các sản phẩm không phổ biến. Để được tham
gia hệ thống (cộng tác viên, NPP…), người tiêu dùng phải bỏ ra số tiền rất lớn
để mua quyền được trở thành NPP bán sản phẩm và bảo trợ người khác tham
gia dưới hình thức mua sản phẩm với giá rất cao so với giá trị thực từ gấp 5-6
lần đến gấp 40-50 lần. Do vậy sản phẩm không thể bán cho người tiêu dùng
mà chủ yếu chỉ bán cho những NPP mới vì có mua sản phẩm mới được tham
gia hệ thống. Người tiêu dùng phải bỏ ra số tiền lớn đi mua giá trị ảo quá cao
so với giá trị thực của sản phẩm và cũng chính những người này tham gia


16

mạng lưới tuyên truyền sản phẩm có tác dụng mơ hồ, tự cho là chữa bách
bệnh. Để bán được nhiều sản phẩm, chiêu dụ được nhiều NPP, các công ty
kinh doanh theo theo phương thức BHĐC bất chính thường tổ chức các buổi
thuyết trình ấn tượng, được hưởng hoa hồng cao từ 5 – 40%, có tiền bạc, nhà
cửa, kim cương…mục đích là đánh vào lòng tham của những người muốn làm
giàu mà không cần phải cực nhọc[4, tr.12].
Đây là một thủ thuật kinh doanh BHĐC bất chính “đã tạo ra một tầng

lớp dịch vụ ảo, không tạo ra của cải cho xã hội, kinh doanh trái với đạo đức
không thể chấp nhận được. Nếu không được ngăn chặn sẽ gây hậu quả nặng
nề cho xã hội không chỉ về mặt kinh tế mà cả trên sức khỏe con người”[4].
Sự biến tướng của kinh doanh đa cấp cũng như những phức tạp trong
quản lý ngành kinh doanh này đang gây hệ lụy xấu cho phương thức BHĐC
tại Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam rất nhiều người dân bị lừa đảo chiếm
đoạt tiền trong đó chủ yếu là học sinh, sinh viên, những người không có công
việc ổn định. Gần đây, đối tượng bị nhắm đến là người dân vùng sâu vùng xa
nơi thông tin không được tiếp cận đầy đủ, kịp thời. Điều đó khiến cho dư luận
hết sức bất bình, rất nhiều người phản đối loại hình kinh doanh này. Bất cứ
khi nào nhắc đến BHĐC là họ lại nghĩ ngay đến lừa đảo, gian dối thậm chí có
người còn cho rằng không nên cho phép BHĐC có mặt tại Việt Nam. Có thể
nói đây là những phản ứng có phần thiếu kiến thức và thái quá, tuy nhiên
không phải là không có nguyên nhân.
Vậy nên thực trạng quản lý hoạt động BHĐC đặt ra yêu cầu bức thiết
cho cơ quan quản lý cần phải vào cuộc. Giúp cho những công ty BHĐC chân
chính không bị ảnh hưởng bởi những công ty BHĐC bất chính, lừa đảo, bôi
nhọ uy tín môi trường phát triển của những doanh nghiệp khác. Tạo dựng một
cơ chế pháp lí về quản lý chặt chẽ, không tạo ra kẽ hở để cho các công ty


17

BHĐC bất chính lợi dụng để lừa đảo các cá nhân khác và đặc biệt là người
tiêu dùng. Lấy lại lòng tin đã bị đánh mất bấy lâu nay từ phía các tầng lớp
người dân trong xã hội.
1.2. Sơ lƣợc sự phát triển của pháp luật về quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp ở Việt Nam
Bán hàng đa cấp du nhập vào Việt Nam từ những năm 1998, 1999. Đến
năm 2004, có khoảng 20 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Trong

những năm đầu mới xuất hiện ở Việt Nam, hoạt động BHĐC chưa có hành
lang pháp lý điều chỉnh. Năm 2004, lần đầu tiên thuật ngữ “bán hàng đa cấp”
được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam tại Khoản 11 Điều 3 Luật
Cạnh tranh. Tiếp sau đó, Chính phủ và Bộ Công Thương cũng ban hành các
văn bản pháp luật điều chỉnh một cách tương đối toàn diện đối với hoạt động
này.
Theo số liệu thống kê từ Cục quản lý cạnh tranh của Bộ Công Thương,
từ khi được nhận và điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật, ngành
BHĐC phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của hàng loạt doanh nghiệp. Tính
đến năm 2013, ngành BHĐC có hơn 100 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với
hơn một triệu người tham gia trên cả nước[12].
Tuy nhiên, do mới vào Việt Nam trong thời gian ngắn, lịch sử hoạt
động còn non trẻ, BHĐC bị một số chủ thể lợi dụng để thực hiện các hành vi
lừa đảo, gây dư luận xấu trong xã hội và ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngành.
Hiện nay, nhắc đến BHĐC, không ít người tỏ ra thiếu thiện cảm và quan niệm
đó là một lĩnh vực kinh doanh không lành mạnh.
Trước ngày 01 tháng7 năm 2014, bên cạnh Luật Cạnh tranh 2014,
BHĐC được điều chỉnh bởi Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 08
năm 2005 về quản lý hoạt động BHĐC, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày
30 tháng 09 năm 2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh,


18

Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08 tháng 11 năm 2005 hướng dẫn một số nội
dung quy định tại Nghị định số110/2005/NĐ-CP và Thông tư số 35/2011/TT-BCT
ngày 23 tháng 09 năm 2011 sửa đổi bổ sung Thông tư số 19/2005/TT-BTM.
Mặc dù là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên và cao nhất điều chỉnh
đối với hoạt động BHĐC nhưng Luật Cạnh tranh chỉ đưa ra khái niệm về
BHĐC và quy định cấm một số hành vi BHĐC bất chính bị cấm mà chưa đưa

ra cơ chế quản lý đối với hoạt động này.
Nghị định 110/2005/NĐ-CP chính thức thiết lập một cơ chế quản lý đối
với hoạt động BHĐC từ trung ương đến địa phương với sự tham gia của Bộ
Công Thương (thông qua Cục quản lý cạnh tranh) và Ủy ban nhân dân các
tỉnh thông (thông qua Sở Công Thương). Theo Nghị định 110/2005/NĐ-CP,
các doanh nghiệp muốn tổ chức BHĐC thì phải đăng ký với Sở Công Thương
và sau đó mở rộng hoạt động ra địa bàn nào thì thông báo với Sở Công
Thương tỉnh đó. Một trong những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp được
đăng kí hoạt động BHĐC đó là phải ký quỹ tối thiểu 5% vốn điều lệ nhưng
không thấp hơn một tỷ đồng.
Để đảm bảo hiệu quả của cơ chế quản lý tại Nghị định 110/2005/NĐCP, Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định chế tài xử lý đối với hành vi BHĐC
bất chính với mức tiền phạt cao nhất là 100 triệu đồng.
Thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động BHĐC và các vấn đề cụ
thể chưa được quy định tại Luật Cạnh tranh và các Nghị định nêu trên được
quy định tại Thông tư số 19/2005/TT-BTM và Thông tư số 35/2011/TT-BCT.
Sau gần 10 năm thực hiện, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
BHĐC đã bộc lộ một số bất cập, hoạt động BHĐC xuất hiện nhiều biến tướng
theo chiều hướng tiêu cực, nhiều chủ thể lợi dụng các khe hở của pháp luật để
thực hiện các hành vi bất chính khiến cho hoạt động bán hàng đa cấp ngày
càng trở nên xấu đi trong mắt cộng đồng xã hội và gây khó khăn cho công tác


19

quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Từ thực tiễn đó, năm 2014 Chính
phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế cho hệ thống
văn bản cũ để tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Ngoại
trừ Luật Cạnh tranh, các Nghị định và Thông tư cũ điều chỉnh hoạt động bán
hàng đa cấp đều bị thay thế với cơ chế quản lý chặt chẽ hơn, chế tài xử lý
nghiêm khắc hơn.

Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động BHĐC, được ký
ban hành ngày 14 tháng 5 năm 2014, chính thức có hiệu lực từ 01 tháng 7
năm 2014. Nghị định này thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý
hoạt động BHĐC với những thay đổi cơ bản, nâng cao trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với hoạt động của người tham gia, bổ sung nhiều quy định cấm,
tăng cường sự tương tác giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý cũng như
giữa các cơ quan quản lý, kiểm soát chặt chẽ hơn công tác đào tạo người tham
gia của doanh nghiệp.
Cùng quan điểm thắt chặt quản lý hoạt động BHĐC của Nghị định
42/2014/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh (thay thế Nghị định số 120/2005/NĐ-CP) cũng nâng
cao mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động bán hàng
đa cấp lên tối đa 200 triệu đồng và bổ sung quy định xử lý đối với nhiều hành
vi mới được quy định tại Nghị định 42/2004/NĐ-CP.
Thủ tục hành chính trong hoạt động BHĐC được quy định chặt chẽ tại
Thông tư số 24/2014/TT-BCT để thay thế cho các quy định tại Thông tư số
19/2005/TT-BTM và Thông tư số 35/2011/TT-BCT sửa đổi bổ sung một số
nội dung về thủ tục hành chính tại Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08
tháng 11 năm 2005.


×