Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

CÔNG tác đào tạo, bồi DƯỠNG cán bộ ở bạc LIÊU dưới ÁNH SÁNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH TRONG GIAI đoạn đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.48 KB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ Ở BẠC LIÊU DƯỚI ÁNH SÁNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI
Chuyên ngành : Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành

: 5214204

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S - GVC Trần Kim Trung

Nguyễn Giang Duy Quang
MSSV: 6086473
Lớp: SP. GDCD K34

CẦN THƠ, tháng 05 năm 2012

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................1
MỞ ĐẦU..................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................4


2. Mục đich và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................6
5. Kết cấu của luận văn:......................................................................................6
NỘI DUNG...............................................................................................................7
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁCH MẠNG..........................................................7
1.1. Khái niệm cán bộ và vai trò của người cán bộ trong cách mạng.....................7
1.1.1 Cán bộ là gì................................................................................................7
1.1.2. Đức tính của người cán bộ........................................................................8
1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ trong cách mạng.....................................................10
1.3. Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng...........15
Chương 2:VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ Ở BẠC LIÊU TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI...............27
2.1. Khái quát về tỉnh Bạc Liêu............................................................................27
2.1.1. Điều kiện tự nhiên:..................................................................................27
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội........................................................................28
2.2. Tình hình đội ngũ cán bộ tỉnh Bạc Liêu hiện nay..........................................29
2.3. Quan điểm của Đảng và chủ trương của Đảng bộ Bạc Liêu về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trong giai đoạn đổi mới..............................................................33

2


2.4. Thành tựu và hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Tỉnh
Bạc Liêu............................................................................................................52
2.5. Một số phương hướng và giải pháp thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ ở tỉnh Bạc Liêu.....................................................................................68
KẾT LUẬN.............................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................82


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng và rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam trở
thành một Đảng trong sạch, vững mạnh xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp
công nhân. Trong đó Người đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo, huấn luyện xây
dựng đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai
đoạn cách mạng. Tuy năm tháng đã qua đi nhưng những tư tưởng của Người vẫn
còn có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm cơ sở lý luận cho Đảng ta vận dụng vào
trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Ngày nay, khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp và những tri thức trong xã hội sẽ hợp thành một bộ phận quan trọng của
lực lượng lao động xã hội. Sự hưng thịnh của đất nước tùy thuộc vào phần lớn vào
việc nhà nước coi trọng và sử dụng cán bộ như thế nào. Ngày nay đào tạo xây dựng
đội ngũ cán bộ lớn mạnh và đề cao vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng
chính là tăng cường khối liên minh Công nhân – Nông dân – Trí thức.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành “ Một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với tiến độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Để đạt trạng thái hưng thịnh như thế, lực lượng cán bộ không
thể thiếu và không thể yếu kém. Vận động, phát huy hết tìm năng lao động và sáng
tạo của cán bộ đóng góp cho sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm
vụ lớn.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã và đang thực hiện có
hiệu quả ở các tỉnh trong cả nước. Tuy nhiên, đây là công việc khó khăn, phức tạp,
đòi hỏi phải phấn đấu bền bỉ, phải tìm ra những bước đi thích hợp cho từng địa

4


phương. Trong đó, Bạc Liêu là một tỉnh chủ yếu là nông nghiệp. Khi tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Nghị quyết Đảng bộ
tỉnh lần thứ XII đã xác định Bạc Liêu bắt đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó
cán bộ của các ban ngành của khoa học kỹ thuật, Văn hóa xã hội, phải là lực lượng
xung kích, đi đầu trong tiếp cận công nghệ, làm chủ công nghệ và năng cao năng
lực sáng tạo, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Để cán bộ tỉnh gánh vác nhiệm vụ
công nghiệp hoa, hiện đại hóa Bạc Liêu không thể không quan tâm thích đáng đến
công tác Đào tạo – Bồi dưỡng – Thu hút – Quản lý và sử dụng cán bộ của tỉnh.
Trước tình hình, Đảng bộ Bạc Liêu phải xây dựng đội ngũ cán bộ vừa có bản
lĩnh chính trị vững vàng, vừa có kiến thức, năng lực và uy tín để lãnh đạo tỉnh vượt
qua thử thách, tiến lên góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là lý do tác giả
chọn đề tài “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh Bạc liêu dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới” làm luận văn tốt nghiệp.

2. Mục đich và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nhằm làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ.
- Tiến hành nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn đổi mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. Hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề xây

dựng độ ngũ cán bộ trong thời kỳ đổi mới.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ ở tỉnh Bạc Liêu trong thời kỳ đổi mới, xác định được những đặc điểm cơ bản của
đội ngũ cán bộ tỉnh Bạc Liêu, phân tích những thành tựu, hạn chế, từ đó rút ra một
số kinh nghiệm trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh Bạc Liêu để từ đó đề
xuất một số giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, quản lý sử dụng cán bộ ở tỉnh.

5


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề cán bộ, quan điểm chỉ đạo của Đảng, sự vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở Bạc Liêu ở giai đoạn đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Đảng bộ Bạc Liêu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. Tiến
hành tìm hiểu những chủ trương chính sách của tỉnh Bạc Liêu về cán bộ, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ trong giai đoạn đổi mới.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được đề tài này tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sử
dụng các phương pháp khác như: phương pháp logic, lịch sử, tổng hợp, so sánh,
phương pháp thống kê........vv.

5. Kết cấu của luận văn.
Luận văn bao gồm: Phần mở đầu, kết luận và 2 chương, 8 tiết.


6


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁCH MẠNG.
1.1. Khái niệm cán bộ và vai trò của người cán bộ trong cách
mạng.
1.1.1 Cán bộ là gì.
Từ trước tới nay khái niệm cán bộ thường được dùng ở nhiều nước xã hội
chủ nghĩa. Việc nghiên cứu làm rõ khái niệm này còn ít, hoặc có đề cập đến nhưng
ý kiến lại khác nhau.Trong cuốn từ điển tiếng việt xuất bản năm 1993 thì cán bộ có
hai nghĩa: thứ nhất, cán bộ là người làm công tác nghiệp vụ trong các cơ quan nhà
nước. Thứ hai, cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với những người thường không có chức vụ.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ được hiểu là “Cái dây chuyền của bộ
máy”. Trong cổ máy công nghiệp, dây chuyền liên quan đến nhiều bộ phận, nếu dây
chuyền không tốt, không chạy, thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng bị tê
liệt. Sự chuyển động của xã hội được coi như một “Cổ máy” khổng lồ. Trong “Cổ
máy” đó cán bộ cán bộ là “Dây chuyền” đặt biệt. Bởi vì cán bộ phải đem chính sách
của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, giải thích cho dân chúng hiểu
và thi hành, đông thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính
phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Như vậy nếu cán bộ dở thì một mặt chính
sách không thể thực hiện được, mặt khác việc hoạch định chính sách sẽ sai lầm
hoặc không phù hợp. Bác đã khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi việc. Muôn
việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay cán bộ kém” [11,tr.273].
Theo luật công chức năm 2008 có quy định “Cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ

quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở

7


huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật”.

1.1.2. Đức tính của người cán bộ.
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng
viên đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước, người đã nêu rõ những đức tính mà
người cán bộ cách mạng cần phải có:
Một là đối với mình đầu tiên là không được “Tự túc, tự mãn”. Bởi vì khi con
người đã tự hài lòng với chính mình thì dễ dẫn đến tư tưởng sống kêu ngạo, xem
thường người khác, không chịu ra sức học tập để bổ sung kiến thức. Điều này thì
không thể chấp nhận được đối với một người cán bộ. Chính vì thế, một người cán
bộ cách mạng phải luôn ra sức học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn. Phải học lấy điều hay, điều phải từ người khác, học ở mọi lúc, mọi nơi

học suốt đời để không bị tụt so với xã hội loài người luôn luôn vận động, biến đổi
và phát triển. Mỗi người cán bộ phải biết siêng năng, tiết kiệm, làm tấm gương sáng
cho mọi người noi theo.
Hai là đối với đồng chí của mình phải biết yêu thương, giúp đỡ nhau, hỗ trợ
nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, đoàn thể giao phó, không tranh giành
quyền lợi làm ảnh hưởng tới uy tín của đoàn thể, của Đảng. Không nên ghen ghét,

8


đố kỵ và khinh rẽ kẻ không bằng mình. Đồng thời phải cởi mở, chân thành, chỉ ra
những sai sót, khuyết điểm để đồng chí mình sửa chữa, hoàn thiện bản thân, góp
phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Ba là đối với công việc phải xem xét, cân nhắc cho kỹ. Đối với người cán bộ
thì việc gì có lợi cho nhân dân dù khó khăn mấy cũng phải cố gắng làm, quyết tâm
làm cho bằng được, việc gì có hại cho nhân dân dù nhỏ cũng phải hết sức tránh. Khi
tiến hành bất cứ công việc gì cũng phải lập ra kế hoạch cụ thể. Có thế chúng ta
không gơi vào thế bị động khi giải quyết công việc. Người cán bộ phải cẩn thận
trong mọi công việc, mọi hành động, nhưng cẩn thận không phải là do dự, nhút
nhát. Phải có tính quyết đoán trong quá trình giải quyết công việc, đề phòng trước
những trường hợp không mong muốn có thể xảy ra, từ đó có một phương án giải
quyết nhằm đem lại kết quả tốt nhất.
Bốn là đối với nhân dân cán bộ là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành nhất với nhân dân. Người đem chính sách của Đảng, Nhà nước để phổ biến
trong dân, cho dân hiểu và thực hiện. Người cán bộ muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình thì trước hết phải làm tốt công tác vận động quần chúng. Đảng khẳng định
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải của cá nhân anh
hùng nào”. Người cán bộ cách mạng phải biết thương yêu, gần gũi, sâu sát thực tế,
lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu và đồng
thời người cán bộ phải làm cho dân tin tưởng thể hiện qua việc làm cụ thể của mình.

Có thế mới được nhân dân ủng hộ và tin yêu.
Qúa trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta cho thấy rằng, có nhân dân là
có tất cả “Trong trời đất không có gì quý bằng nhân dân”. Sức mạnh của nhân dân
là vô cùng to lớn “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Một điều quan trọng Bác muốn nhấn mạnh ở đây là muốn dân hiểu phải
được dân tin, muốn dân tin người cán bộ phải thanh khiết.
Năm là đối với đoàn thể phải nghiêm túc chấp hành mọi mệnh lệnh của đoàn
thể, luôn phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, mọi tự do cá nhân phải
dẹp bỏ. Khi bình thời thì hết sức làm việc, lúc nguy hiểm phải biết hy sinh vì đoàn
thể. Do đó, dù có hy sinh tính mạng để bảo vệ danh giá cho đoàn thể cũng phải làm.

9


Muốn giữ danh giá cho đoàn thể thì trước hết phải giữ danh giá cho chính mình.
Phải trung thực trước đoàn thể từ việc báo cáo thành tích đến việc đánh giá nhìn
nhận khuyết điểm. Phải luôn thực hiện tinh thần trách nhiệm của bản thân đối với
đoàn thể. Cán bộ phải là người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ trong cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa. Người còn nói: Cán bộ là gốc của mọi công việc. Điều đó
có nghĩa là cán bộ, công tác cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định
đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, đối với sự trưởng thành và
hoạt động của Đảng. “Cán bộ quyết định” nói cho cùng là chính sách cán bộ, công
tác cán bộ quyết định. “Muốn tổ chức công việc tốt, phải có người cán bộ đạt tiêu
chuẩn, vừa có tài, vừa có đức và phải là người biết học hỏi....Vì cán bộ được ví như
tướng mà tướng là kẻ giúp nước. Tướng giỏi thì nước mạnh, tướng xoàng thì nước
hèn” [t3, tr.519].
Đội ngũ cán bộ đó trong hoàn cảnh gay go, ác liệt và đầy thử thách của

những năm đấu tranh giành chính quyền và chiến tranh giải phóng, bảo vệ Tổ quốc,
đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đàn áp, tù đày, tra tấn, bom đạn của kẻ thù, sẵn
sàng hy sinh tính mạng của mình, lớp trước ngã xuống, lớp sau kế tiếp, để tuyên
truyền giác ngộ; tổ chức quần chúng đấu tranh; là người nhận phần gian khổ, nguy
hiểm về mình, xông lên đầu tiên dưới bom đạn của kẻ thù để mọi người noi theo
làm nên chiến thắng. Đội ngũ cán bộ đó đủ đức, đủ tài đảm đương nhiệm vụ ở mọi
cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực. Trên nền tảng đội ngũ cán bộ đó, đã hình thành tập
thể lãnh đạo bản lĩnh, sáng suốt, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tập thể
lãnh đạo kiên cường, sáng tạo, đầy tài năng thao lược, dày dạn kinh nghiệm từ
những năm đấu tranh giành chính quyền và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đã trở thành những người lãnh đạo tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ. Truyền thống đó không ngừng được nối tiếp, kế thừa và phát huy trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thế hệ
cán bộ do Bác đào tạo, rèn luyện không chỉ đủ tài năng và bản lĩnh chèo chống đưa

10


con thuyền cách mạng Việt Nam tới đích mà ở mỗi con người đó là tấm gương sáng
về đức và tài được xã hội kính trọng.
Theo Người Đảng Cộng sản chân chính và đội ngũ cán bộ của nó là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, cần chăm lo xây dựng Đảng, chuẩn bị một
đội cán bộ ngang tầm với vị trí của Đảng. Hồ Chí Minh luôn nhận thức đúng vai trò
của tư tưởng tiên tiến, Bác bôn ba tìm đường cứu nước nhằm đánh giá đúng tình
hình: vận dụng tư tưởng tiên tiến, kinh nghiệm tiên tiến để thực hiện cách mạng
Việt Nam. Theo người chỉ có dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng
sáng tạo vào cách mạng Việt Nam thì kháng chiến mới thành công. Để giải quyết
nhiệm vụ đó phải có Đảng tiên phong, có đội ngũ cán bộ tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh
lúc nào cũng coi trọng việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của
cán bộ, đảng viên. Đó là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân

loại. Sự sáng suốt tài tình của người trong việc vận dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác –
Lênin, trí tuệ cao nhất của thời đại vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong hội nghị Trung ương 3 (Khóa VIII) khẳng định “Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Ngày nay, trung
thành với nguyên tắc đó, Đảng ta ra sức chăm lo xây dựng Đảng, đào tạo, giáo dục
đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng với bộ tham mưu của giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ các công tác
quan trọng trong xây dựng đảng bao gồm: giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, tiếp tục đổi mới công tác cán
bộ, xây dựng cũng cố tổ chức.... Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố đạo đức –
là yếu tố gốc để tuyển dụng, lựa chọn cán bộ, song không bao giờ người coi nhẹ tài
năng, năng lực của cán bộ. Vị trí của cán bộ, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
quần chúng nhân dân nhưng không phải là “vật mang”, là “dây dẫn” là chuyền tải
cơ học mà chính là con người đủ tư cách, tài năng và đạo đức để làm việc đó. Bởi lẽ
có thể đem chính sách của Đảng và Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và

11


thi hành đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ nhất định. Nếu không quá trình thực
hiện nhiệm vụ, người cán bộ sẽ làm sai lệch tinh thần, nội dung của chính sách và
khi đó thật là nguy hiểm.
Việc truyền đạt, giải thích và triển khai thực hiện chính sách của Đảng, Nhà
nước là một việc thật khó khăn và phức tạp hơn nhiều là nắm chắc được tâm tư, tình
hình, nguyện vọng chính đáng của người dân, cũng như phản ánh đúng thực chất
của tình hình để làm căn cứ cho việc tham mưu, hoạch định của chính sách. Công
việc này đòi hỏi người cán bộ phải đạt tiêu chuẩn ở mức cao để có tổng kết thực
tiễn, khái quát, nâng cao thành lý luận, Hồ Chí Minh đặt cán bộ ở vị trí có tính chất

quyết định. Chính sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai,
cán bộ yếu kém. Tức là “Khi là có chính sách đúng, thì sự thành công hay thất bại
của chính sách đó là nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm
tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
Đạo đức cách mạng của người cán bộ một trong những vấn đề Hồ Chí Minh
hết sức coi trọng. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người thường xuyên
quan tâm, chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ.Theo chủ tịch
Hồ Chí Minh “Người cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng thì mới có
thể trở thành người cán bộ cách mạng chân chính. Mọi việc thành công hay thất bại
chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Người khẳng
định “Người đảng viên, người cán bộ muốn trở thành cán bộ cách mạng chân chính
không có gì khó khăn cả, điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết
vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình tiến tới chỗ chí công vô tư”.
Người coi đạo đức cách mạng là gốc của cây, ngọn nguồn của suối, của
sông. “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì giỏi cách mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân” [t11, tr.251].
Đạo đức cách mạng còn là cơ sở, là điều kiện rất cơ bản để người cán bộ
công chức thực hiện mục tiêu lý tưởng và hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang của mình. Bởi lẽ theo Hồ Chí Minh muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa. Làm cách mạng để cải tạo xã hội

12


cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ
thật sự nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài gian khổ. “Sức có mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [t15, tr.283].
Người còn căn dặn: “Một điều rất quan trọng nữa là các đồng chí bộ trưởng, thứ

trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương
sáng về đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác
phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng trong
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh
đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”.
Muốn thực hiện tốt đạo đức cách mạng đòi hỏi người cán bộ phải nắm vững
chính sách của Đảng, của chính phủ, đi đúng đường lối phục vụ quần chúng. Quần
chúng có rất nhiều sáng kiến, họ hiểu rất mau, nhất là những cái thuộc về quyền lợi
của họ. Cán bộ phải hiểu biết quần chúng, phải học hỏi quần chúng để lãnh đạo
quần chúng. Cán bộ không nên bạo biện, phải giác ngộ cho quần chúng tự họ quyết
tâm đấu tranh giành quyền lợi của mình, lúc đó họ mới tự động. Cán bộ không thể
làm thay quần chúng được, ban ơn cho quần chúng.
Là cán bộ phải có sức mình, làm sao phải có người lãnh đạo, quản lí, phải
chống được tham ô lãng phí. Do đó phần lớn là phải ở cán bộ phải làm cho nhân
dân có công ăn việc làm để nâng cao đời sống của nhân dân, thì mức sống của cán
bộ được nâng lên.
Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những “Thạo về chính
trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn” không thể lãnh đạo chung chung. Lại phải biết
đoàn kết với những người ngoài Đảng, phải biết dựa vào quần chúng, phát huy sức
sáng tạo của quần chúng lao động, học tập kinh nghiệm, phải tạo điều kiện cho nhân
dân lao động có thể hiểu biết được những khoa học kỹ thuật, ra sức đào tạo thật
nhiều cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cần thiết cho sản xuất phát triển chỉ có như
thế mới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cán bộ phải biết tự phê bình và phê
bình, thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ đảng viên là quy
luật phát triển của Đảng, là điều kiện đảm bảo cho Đảng hoàn thành mọi nhiệm vụ

13


nhân dân giao phó. Theo Bác người cán bộ phải “Xác định mục tiêu học tập, xác

định rõ thời gian học tập, tài liệu để học tập, phương pháp học tập, kết hợp học với
hành, phê bình và tự phê bình, kiểm tra kết quả học tập, báo cáo kết quả và vận
dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn” [t5, tr.234]
Các tư tưởng đề cập đến nhiệm vụ học tập đối với cán bộ đảng viên dưới
dạng phê bình sửa chữa không chỉ phản ánh sự nhận thức đúng đắn của Bác về vai
trò học tập để hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên, có tầm nhìn xa
trong rộng của Bác về yêu cầu càng cao của nhiệm vụ xây dựng bảo vệ tổ quốc của
người cán bộ. Bác viết “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế”, không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi. Hiện nay, phong trào cách mạng rất cao: Nhưng thử hỏi cán bộ, đảng viên ta có
mấy người biết rõ lý luận và biết áp dụng vào thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích rất sâu sắc tác hại của việc lười biếng,
không chịu học tập, tích lũy tri thức, nâng cao trình độ lý luận thì vai trò của người
cán bộ không xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân. Người viết “Khi gặp mọi
việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý khéo. Không biết nhận rõ
điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào thì làm thế ấy. Kết quả
thường thất bại” [t11, tr.234]. Đồng thời bác cho rằng bệnh chủ quan, kinh nghiệm
làm xuất hiện tư tưởng, coi thường tri thức, coi thường lý luận, chỉ đề cao kinh
nghiệm của bản thân. Tư tưởng học để biết, học để làm cán bộ, làm cách mạng, để
phụng sự nhân dân là một vấn đề có tính nguyên tắc của học tập. Để thực hiện mục
tiêu đó cần có tri thức khoa học toàn diện, là sự hiểu biết về khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội. Người viết “Tri thức là hiểu biết, thế giới có hai thứ hiểu biết: một là,
hiểu biết đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là, hiểu biết đấu
tranh dân tộc và đấu tranh xã hội. Khoa học xã hội ra đời.
Sự phân tích của Bác về sự cần thiết phải học tập, phương pháp học kết hợp
chặt chẽ với hành vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với học tập, giáo
dục đào tạo hiện nay. Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học tiên tiến, sự bùng nổ thông tin, sự xuất hiện của kinh tế trí thức, việc học tập và
phương pháp luận nước ta phát triển, mọi người không tích cực học tập, xã hội


14


không nhanh chóng trở thành xã hội học tập thì nguy cơ tụt hậu xa hơn càng rõ rệt.
Chính vì vậy Đảng đã xác định khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo là quốc
sách hàng đầu. Theo quan điểm cảu Bác thì quá trình học tập, công tác là điều kiện
để từng cán bộ, đảng viên tìm tòi các giá trị chân chính và nâng cao phẩm giá của
mình cho xứng đáng với người lãnh đạo quần chúng nhân dân. Các phẩm chất tốt
đẹp không hình thành tự phát mà do rèn luyện mà ra, cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong. Bác đã chỉ rõ những biểu hiện tập trung nhất của
đạo đức cách mạng: Vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, đồng chí. Muốn tổ chức và
phát triển lực lượng xây dựng giai cấp lớn mạnh thì cần có công đoàn mạnh và cán
bộ công đoàn tốt. Cán bộ phải gần gũi với nhân dân, phải nắm vững chính sách,
cùng với nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho.

1.3. Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách
mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò, tầm quan trọng của hiền tài đối với
việc xây dựng phát triển đất nước. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình Bác rất mực quan tâm đến cán bộ và công tác cán bộ, xem đây là công việc
hàng đầu có tính chất chiến lược trong giai đoạn cách mạng. Muốn có nhân tài,
muốn có cán bộ phải xây dựng. Trong thời kỳ đất nước tiến hành cuộc kháng chiến
xâm lược, hoàn cảnh đất nước vô cùng khó khăn, đời sống vật chất vô cùng thiếu
thốn, nhưng với trái tim nhân hậu và tấm lòng chiêu hiền đãi sỹ. Người đã huy tựu
được nhân tài bốn phương chiến đấu với lá cờ đại nghĩa dân tộc. Mặc dù đất nước
nghèo khó, cả dân tộc phải cầm súng, cầm gươm chiến đấu. Với tầm nhìn chiến
lược Người dành một phần nguồn nhân lực và kinh phí để gởi ra nước ngoài đào
tạo, bồi dưỡng nhân tài để phục vụ cho kháng chiến và dữ trữ cho công cuộc xây
dựng đất nước sau chiến tranh.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, con đường theo chủ nghĩa Mác –

Lênin, con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh tích cực chuẩn bị mọi mặt cho
sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, Người lập ra tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên từ năm 1925 và mở các lớp huấn luyện cho thanh niên Việt Nam

15


yêu nước cho tổ chức đó ở Quảng Châu. Người trực tiếp giảng bài và sau này năm
1927 những bài giảng đó được tập hợp thành tác phẩm “ Đường Cách Mệnh”.
Ngoài việc đào tạo, huấn luyện ở các lớp của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
Hồ Chí Minh còn lựa chọn một số thanh niên yêu nước gửi đi học ở trường quân sự
Hoàng Phố, một số sang hoạt động, rèn luyện ở Đảng cộng sản Trung Quốc, một số
sang trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản tại Liên Xô. Người còn
biên soạn nhiều tài liệu, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng các loại cán bộ.Những lời dạy
tâm huyết của Bác đã thực sự trở thành mục tiêu phấn đấu của nhiều thế hệ cách
mạng tiền thân của Đảng. Nhờ vậy trong những thời điểm khó khăn nhất của cách
mạng, nhiều cán bộ đảng viên bị bắt, bị tù đày, tra tấn, đến tận lúc hy sinh vẫn một
lòng trung kiên nêu cao phẩm chất trong sạch, khí tiết bất khuất của người cộng sản.
Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến phương pháp đào tạo, bồi dưỡng lý luận Mác –
Lênin cho cán bộ. Người rất thấm qua trải nghiệm thực tế của bản thân về sự tiếp
nhận và vận dụng những điều đã học và tự học chủ nghĩa Mác – Lênin trong cuộc
đời.
Ngay từ đầu quá trình hình thành tổ chức và hoạt động, Đảng cộng sản Việt
Nam đã được sự lãnh đạo của nhà lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới – Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong hơn hai năm (1925 - 1927)
tại Quảng Châu, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã mở nhiều lớp huyến luyện cho
khoảng 200 thanh niên trí thức yêu nước của tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh
niên từ trong nước cử sang. Nhiều thanh niên yêu nước tốt nghiệp lớp huấn luyện
“Đường Cách Mệnh” của Người sau này đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc
của Đảng như: Trần Phú, Hà Huy Tập, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong,....vv. Đây là

lớp đảng viên đầu tiên được học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh; về đường
lối cách mạng Việt Nam.
Thời kì đó chưa có điều kiện và có nhiều lý do khiến Bác không làm công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trên lý luận nhưng chắc chắn có dự trù nhất định về
nhân sự của tập thể lãnh đạo để tránh tình trạng hụt hẫng hoặc chọn lầm người đứng
đầu. Như vậy nguồn cán bộ đầu tiên chủ yếu xuất thân từ tầng lớp trí thức yêu nước
được Bác bồi dưỡng lý luận cách mạng, với chủ nghĩa yêu nước kết hợp chủ nghĩa

16


Mác – Lênin, Hồ Chí Minh thông qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng và hoạt động
thực tiễn của cán bộ để chọn lọc ra lớp cán bộ lãnh đạo cách mạng. Vào năm 1928
Hội nghị của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thống nhất chủ trương “Lực
lượng các mạng phải lấy liên minh công nông làm nồng cốt. Nên để phát triển
phong trào vô sản hóa. Nên để phát triển phong trào cách mạng, Hội nghị đã quyết
tâm thực hiện phong trào vô sản hóa đưa các thanh niên trí thức “bốn cùng”: cùng
ăn, cùng ở, cùng lao động và cùng đấu tranh với công nhân để thấu hiểu và chia sẻ
với họ đồng thời tôi luyện, thử thách bản thân trong gian khổ.
Bác chỉ muốn học tập, rèn luyện chất công nhân cho các cán bộ, lãnh đạo
cách mạng đã hoàn thành xuất nhiệm vụ đồng thời tuyên truyền sâu rộng về chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong đội ngủ cán bộ và giai cấp công
nhân, tổ chức nhiều cơ sở cách mạng để đào tạo cán bộ phục vụ trong đấu tranh.
Trước hết Hồ Chí Minh lưu ý đến đào tạo, bồi dưỡng lý luận Mác – Lênin
phải phù hợp với đối tượng. Người có trí thức uyên bác chủ yếu là do tự học trong
cuộc sống. Người rất chú ý tới đối tượng người học, cách giảng cho người nghe,
bao giờ Bác cũng xem người nghe là ai. Đọc lại tác phẩm “Đường Cách Mệnh”,
chúng ta thấy toát lên mẫu mực tuyệt vời về phương pháp huấn luyện cho người đọc
hiểu được về con đường cách mạng Việt Nam, phù hợp với đối tượng thanh niên trí
thức Việt Nam yêu nước khi mới bất đầu tiếp xúc với con đường cách mạng vô sản.

Nhằm mục đích, tuyên truyền, huấn luyện cho cán bộ cách mạng làm cho người ta
hiểu được, hiểu được rồi thì hành động theo những điều đã hiểu, đúng như Hồ Chí
Minh đã nêu.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp có nhiều biến cố phức tạp,
gian khổ, vô cùng quyết liệt nhưng hết sức vẻ vang. Trong lò lửa của cuộc kháng
chiến, đã thể hiện rõ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần đoàn
kết và sức sáng tạo vĩ đại của quần chúng nhân dân “Dưới sự lãnh đạo của đội ngũ
cán bộ, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, nắm vững và sử dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, có sức lôi cuốn, có uy tính cao,
có sự gắn bó chặt chẽ với quần chúng, đưa dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách
hiểm nghèo tiến tới kháng chiến thắng lợi. Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám

17


năm 1945, chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Khi
ấy, yêu cầu về phẩm chất năng lực của người cán bộ đảng viên đòi hỏi ngày càng
cao và bức thiết hơn. Chính vì vậy, ngay sau khi cách mạng thành công, ngày
14/11/1945, trên Báo Cứu Quốc, Bác đã viết bài “Nhân tài và kiến quốc”, kêu gọi
người có tài, có đức ra giúp nước. Tiếp đến trong lễ ra mắt Hội Liên hiệp Quốc dân
Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) ngày 28/5/1946, đề cập đến công tác cán bộ, Bác
khẳng định: “Những công việc của nước, của dân không thể giao cho những kẻ bất
tài, thất đức. Vì vậy, phải tập hợp được những người tài đức, những nhân tài để
gánh vác việc chung”. Tiếp đến ngày 20/11/1946, trên Báo Cứu Quốc, Bác viết bài
“Tìm người tài đức”, kêu gọi các địa phương trong cả nước giới thiệu những người
tài đức có thể làm được những việc ích nước, lợi dân: “Trong 20 triệu đồng bào,
chắc không thiếu người tài đức, e vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp,
đến nỗi những người tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin nhận”.
Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Bác đã tập hợp quanh mình nhiều nhân tài
của đất nước, không phân biệt thành phần xuất thân, nhưng đều hết lòng vì Tổ quốc,

vì nhân dân, như Chí sỹ Huỳnh Thúc Kháng, Thượng thư triều Nguyễn Bùi Bằng
Đoàn, Phan Kế Toại, Đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hoè… và các nhân sỹ trí thức
như Phan Anh, Phạm Quang Lễ, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Tạ Quang Bữu…
Trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ mà Bác rất quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài phục vụ kháng chiến bằng các quan điểm, hệ thống, đường lối chủ trương
và phường pháp đào tạo , bồi dưỡng cán bộ của Đảng tập trung chủ yếu trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947.
Thời kỳ cách mạng, Bác không sử dùng khái niệm quy hoạch cán bộ như
hiện nay, chỉ dùng các từ “Kế hoạch, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ, phân phối cán
bộ”. Người viết “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì
vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng cây cói quý báu.
Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trong mỗi một người có ít cho công việc chung
của chúng ta” [t5, tr.273].
Thực chất công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là tạo nguồn cán bộ, là phát
hiện, bồi dưỡng nhân tài trong Đảng và ngoài Đảng, là tạo ra những điều kiện, cơ

18


hội để cán bộ phấn đấu, trở thành những người đi tiên phong trong cách mạng. Qua
đó thấy được vai trò của Bác trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người viết
“Nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng
phát triển càng thêm nhiều”[t4, tr.99]. Hồ Chí Minh tiến hành lựa chọn cán bộ, đánh
giá cán bộ; tiêu chuẩn đức – tài; phương pháp, nguyên tắc; quy trình, mục tiêu; sử
dụng và huấn luyện cán bộ. Người rất coi trọng công tác đào tạo cán bộ bằng cách
tự đào tạo, rèn luyện, trưởng thành trong thực tế, còn học ở trường lớp rất dang dở.
Cơ sở đảm bảo cho sự thành công của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và sự
nghiệp cách mạng của dân tộc là lý tưởng nước nhà độc lập, thống nhất, nhân dân
được tự do, ấm no và hạnh phúc; cái gốc của người cán bộ là không ngừng rèn
luyện, tu dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân.

Ngay trong những ngày đầu tiên của chính quyền cách mạng Hồ Chí Minh
đã đề cập đến vấn đề xây và chống; cần đấu tranh chống những nhận thức, tư tưởng,
tập quán, thói quen, cách làm không đúng. Người chỉ ra nhiều bệnh; địa phương cục
bộ, bè phái, quan liêu, chủ quan, kém lý luận, lười biếng hiếu danh, thiếu kỷ luật,
tham lam, tham nhũng, quy tựu lại là chủ nghĩa cá nhân Bác gọi là “Kẻ thù bên
trong, nguy hiểm, hung ác, sấu xa” của chủ nghĩa xã hội, của người cán bộ cách
mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến, lớp cán bộ lãnh đạo chủ chốt được người trực
tiếp bồi dưỡng đã hoàn thành xuất nhiệm vụ trọng đại của đất nước như: Võ
Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng...vv. Theo Hồ Chí Minh phải mở rộng nguồn cán bộ
tới toàn xã hội, không chỉ đề bạt, sử dụng nguồn cán bộ từ nguồn đảng viên và hệ
thống chính trị mà còn tới những người có tài đức trong dân chúng, không phân biệt
tầng lớp, giai cấp, dân tộc. Bác từng nói bất kỳ ai có lòng yêu nước và có khả năng
đều cần tham gia gánh vác việc nước. Làm cán bộ không phải là “Làm quan phát
tài” mà chính là “Công bộc, đầy tớ” của nhân dân.
Với tinh thần “Cầu nhân tài như khác nước”, Hồ Chí Minh đã tập hợp được
những nhân tài trẻ tuổi tham gia vào Ban lãnh đạo Chính phủ. Trong Chính phủ lâm
thời 1945 do Người làm chủ tịch để tập trung xây dựng và thực cách mạng một cách
thành công. Trong tư tưởng và việc làm của Hồ Chí Minh luôn mong muốn thu hút

19


và sử dụng nhiều nhân tài làm cán bộ và nguồn cán bộ cần mở rộng toàn xã hội, đến
cả những người tài đức ngoài Đảng. Đây là cách thức có hiệu quả để Đảng quy tụ
được mọi tầng lớp, giai cấp, giới, lứa tuổi và lãnh đạo toàn thể nhân dân, dân tộc
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất.
Ngay trong hoàn cảnh rất khó khăn và ác liệt của chiến tranh, Bác đã chú ý
đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tương lai; thành lập ba trung tâm đào tạo đại
học tại Việt Bắc, Liên khu IV – Thanh Hóa, Khu học xá Trung ương tại Quảng Tây,

Trung Quốc. Từ các lò đào tạo này, nguồn nhân lực bậc cao – cán bộ tri thức hóa –
được trưởng thành, tạo nên nguồn cán bộ nồng cốt về giáo dục, khoa học, quân sự,
quản lý cho giai đoạn sau.Theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, nhiều trí thức tài giỏi
đang sống và làm việc nước ngoài từ bỏ cuộc sống giàu sang, điều kiện và cơ hội
phát triển tốt, để về tích cực tham gia công cuộc “ Kháng chiến, kiến quốc” gian
khổ. Ngay trong cuộc kháng chiến và sau đó, họ không chỉ là những nhà chuyên
môn giỏi mà còn trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất sắc của Đảng và
Nhà nước.
Chính sách đào tạo nhân tài cho đất nước và nguồn cán bộ chất lượng cao
bằng con đường đi du học cũng được bất đầu từ giai đoạn này. Năm 1951, đoàn lưu
học sinh đầu tiên gồm 21 người được cử sang Liên Xô học tập, tạo nên những nhân
tố mới, chất lượng mới cho thế hệ cán bộ. Thời kỳ cách mạng sau năm 1954, nhiều
cán bộ của Trung ương, của địa phương, các nghành được đào tạo, bồi dưỡng theo
cách này. Hệ thống đào tạo của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng đối với quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hình thức này.
Sau khi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp. Hồ Chí Minh
lãnh đạo toàn dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Tiến hành
kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh biên chế và điều chỉnh cán bộ, đặt cơ sở cho việc đổi
mới toàn diện, đồng bộ xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu của hai
nhiệm vụ chiến lược. Đó là việc điều chỉnh, sắp xếp cán bộ trong việc kiện toàn tổ
chức, kiện toàn bộ máy và cải tiến lề lối làm việc của cán bộ ở các cấp, kiện toàn
chính quyền địa phương, tăng cường sự thống nhất và lãnh đạo của Đảng về công

20


tác chuyên môn và lề lối làm việc. Công tác cán bộ được sự quan tâm đặt biệt Bác
hướng vào việc hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thay cho
đội ngũ cốt cán theo quan niệm cũ.

Trong thực tế công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ này được
Nhà nước tuyển chọn, tuyển cử những người trẻ tuổi đi học đại học, cao đẳng chính
ở trong và ngoài nước. Không phải ai tốt nghiệp đại học đều trở thành cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhưng nếu học sinh nào không đủ tiêu chuẩn làm cán bộ thì có ít cơ
hội làm cán bộ. Bác chú trọng tạo điều kiện thuận lợi cho con em gia đình nghèo,
trước hết là thành phần giai cấp công nhân và nông dân, được nhà nước trợ cấp và
đào tạo miễn phí để trở thành cán bộ và trí thức mới. Hồ Chí Minh tiến hành thành
lập Trường học sinh nội trú miền Nam tại Miền Bắc năm 1955. Với chủ trương đào
tạo của con em cán bộ, chiến sĩ miền Nam và vì tương lai của đất nước, hàng chục
ngàn em nhỏ từ miền Nam đã được Nhà nước nuôi ăn học tập trung và đào tạo toàn
diện trong các trường phổ thông nội trú ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Sau khi
học hết phổ thông, họ lại được Bác tuyển chọn đi vào đại học ở trong và ngoài
nước. Hầu hết học sinh miền Nam tốt nghiệp đại học đều trở thành cán bộ của
Đảng, Nhà nước và có sự cống hiến to lớn cho tổ quốc.
Hồ Chí Minh tiếp tục tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Người xây dựng,
rèn luyện một đội ngũ cán bộ có phẩm chất cách mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”, có tinh thần chiến đấu, “Đồng cam cộng khổ” với nhân dân, lãnh đạo
nhân dân “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành cách mạng giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh chủ trương ưu tiên phát triển
nguồn nhân lực tài năng là con em công nhân, nông dân, quân nhân.
Với ý thức muốn đất nước phát triển bền vững và toàn diện cần phải có một
chiến lược trồng người, chiến lược cán bộ, Hồ Chủ tịch khẳng định “Chúng ta phải
đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nhà nước.... Đó là một trách nhiệm
nặng nề nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người cố gắng làm tròn nhiệm vụ”.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là kết tinh truyền
thống dùng người của ông cha ta trong lịch sử, là đỉnh cao của “Nghệ thuật, phương
sách” dùng người - bí quyết thành công của sự nghiệp Cách mạng. Đó là tư tưởng

21



vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học. Ngày nay, những tư tưởng đó đã trở thành
những bài học, những nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Nhờ đó mà Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được hiền tài, đã thu hút được các nhân sỹ yêu
nước, đã thu hút được tất cả các lực lượng đoàn kết xung quanh Đảng, đưa đến
thành công trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.Tư tưởng
Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người, chiến lược cán bộ đến nay và mãi mãi
muôn đời vẫn mang tính thời sự nóng hổi. Lãnh đạo các cấp, các ngành phải luôn
luôn thấu triệt về vai trò quyết định của cán bộ trong mọi công việc.
Huấn luyện cán bộ: Chủ tịch Hồ Chí Minh thường sử dụng thuật ngữ huấn
luyện với nghĩa bao quát, từ đào tạo, bồi dưỡng trình độ chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ, văn hóa, tư tưởng....đến vấn đề rèn luyện, thực hiện trong công tác thực
tiễn. Người nhấn mạnh, phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho
sạch sẽ những vết xấu xa trong đầu óc. Người coi công tác huấn luyện là nền tảng
của Đảng.
Qua từng giai đoạn cách mạng Người luôn chú ý đến việc huấn luyện cán bộ
để đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng đặt ra. Người trực tiếp mở
các lớp huấn luyện, đề ra mục tiêu, phương pháp, nội dung huấn luyện cán bộ.
Người cho rằng, cán bộ vừa là công bộc, vừa là người lãnh đạo, tập hợp nhân dân
làm cách mạng nên phải có kiến thức trên nhiều lĩnh vực. Huấn luyện cán bộ không
chỉ chú ý đến kiến thức chuyên môn mà cả về lý luận chính trị, văn hóa.
Huấn luyện công tác chuyên môn: Chủ tịch Hồ chí Minh yêu cầu “Riêng về
cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về ngành
ấy”[t12, tr.47]. Cán bộ có nhiều loại: Cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể, cán bộ ở
Trung ương, địa phương và cơ sở.... Mỗi loại cán bộ ngoài có phẩm chất về đức, tài
nói chung, thì cần có những yêu cầu phù hợp với lĩnh vực hoạt động của mình,
nhằm đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Huấn luyện chính trị: Người lưu ý việc cập nhật những vấn đề thời sự và
chính sách cho cán bộ, để họ vận dụng trong công tác. Với công tác huấn luyện lý
luận, Người nêu và phê bình và phê phán cách học nhòi sọ, lý thuyết suông, đồng

thời yêu cầu trong lúc học lý luận phải nghiên cứu thực tế, đem những kiến thức đã

22


học vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, thực hiện đúng phương châm học đi đôi với
hành. Một quy trình đào tạo có tính thiết thực sau khi học xong, người cán bộ không
chỉ hiểu về khoa học mà còn biết nên làm gì và làm như thế nào. Người còn chỉ rõ,
“Có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mới cũng cố được đạo đức cách
mạng, giữ vững lập trường, nâng cao trình độ chính trị, mới làm tốt được công tác
Đảng, nhân dân đã tin tưởng và giao phó cho minh”. [t16, tr. 292].
Huấn luyện về văn hóa: Ngoài huấn luyện về lý luận, dạy văn hóa, nâng cao
trình độ cán bộ, để giúp họ tiến bộ về lý luận và công tác. Đối với những cán bộ còn
kém văn hóa thì việc huấn luyện này rất cần thiết. Người chỉ rõ “Những cán bộ
trong những lớp này, phải theo trình độ văn hóa cao hay thấp mà đặt lớp, chứ không
theo cấp bậc cán bộ cao hay thấp”.
Hồ Chí Minh còn yêu cầu “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”. Người
học phải biết tự động, tự giác học tập, xác định đúng mục đích, động cơ học tập.
Học tập lý luận “Theo nguyên tắc: kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”. Cách
học tập “ Lấy tự học làm cốt” và coi trọng học ở các kênh chủ yếu sau “ Học ở
trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân, không học nhân dân là một
thiếu sót rất lớn”. Có lẽ chưa bao giờ nhiệm vụ chính trị lại đặt ra yêu cầu rất cao về
chất lượng đội ngũ cán bộ như giai đoạn cách mạng hiện nay. Đất nước ta là thành
viên chính thức của WTO, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về đào tạo, huấn luyện cán bộ càng có ý nghĩa thực
tiễn cấp bách, là định hướng quan trọng giúp Đảng ta tạo bước chuyển quan trọng,
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cán bộ - cơ sở để chuẩn bị đội ngũ cán bộ “Vừa
hồng, vừa chuyên” đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.
Trong khâu đánh giá người cán bộ Bác nhấn mạnh “Cần phải hiểu rõ và
đánh giá đúng cán bộ” là việc hết sức quan trọng. Bởi vì muốn hiểu rõ và đánh giá

đúng cán bộ chúng ta mới phát hiện ai xấu, ai tốt, ai có tài, không có tài, từ đó mới
bố trí, sử dụng đúng và có hiệu quả đội ngũ cán bộ.
Tuy nhiên, đánh giá đúng cán bộ lại là một việc không đơn giản. Người trực
tiếp làm công tác cán bộ trước hết phải sửa chữa những khuyết điểm của mình;
mình mang ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng. Bởi lẽ “Đã không tự

23


biết mình thì khó biết người”. Người trực tiếp đánh giá làm công tác đánh giá cán
bộ phải là người liêm chính, vô tư, đối sử công bằng với tất cả mọi người. Nếu
không thì chẵng khác gì người đã mang kính có màu thì không thể nhìn rõ bản chất
của sự vật, hiện tượng. Điều đó rất nguy hiểm nhất là đối với những người trược
tiếp làm công tác đánh giá cán bộ. Người chỉ rõ trong thế giới cái gì cũng biến hóa,
tư tưởng con người cũng vậy. Khi đánh giá cán bộ không chỉ xem xét ở một việc,
một lúc, một giai đoạn mà cần phải xem xét đánh giá một cách thường xuyên,
khách quan, công tâm và phải gắn điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng người, đánh
giá trên toàn bộ quá trình hoạt động và cống hiến của họ.
Công tác cán bộ không chỉ có việc đánh giá cán bộ mà trên cơ sở đánh giá
đúng mà cần phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và sử dụng họ một cách
hiệu quả nhất. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không thể tiến hành trong chốc lát
mà đây là công việc phải được thực hiện một cách thường xuyên, tỉ mỉ, thận trọng
trong một quá trình lâu dài. Người nói “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu” [t11, tr.273]. Mục đích yêu cầu của công
tác đào tạo, theo Hồ Chí Minh là phải nâng cao nhận thức của cán bộ về chuyên
môn cũng như đạo đức cách mạng, học phải đi đôi với làm, phải vận dụng những
kiến thức đã học vào trong thực tiễn.Vì vậy, việc bồi dưỡng, đào tạo phải thiết thực,
phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Về công tác đào tạo, Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc đào tạo cán bộ là nhằm
tạo được một đội ngũ những người có đủ đức, đủ tài, đủ phẩm chất nâng lực, bản

lĩnh để hoàn thành xuất nhiệm vụ được giao. Người khẳng định “Phải đào tạo một
mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc, có thế Đảng mới thành
công”[t11, tr.281]. Còn ngược lại “Nếu đào tạo một mớ cán bộ, nhát gan, dễ
bảo....không giám phụ trách. Như thế là một việc thất bại của Đảng” [t11, tr.281].
Để khai thác và phát huy hết khả năng, thế mạnh của người cán bộ, giúp họ
hoàn thành tốt nhiệm vụ thì phải “Biết dùng cán bộ”. Nó thể hiện ở chỗ phải đặt
người đúng việc, vì việc mà đặt người, chứ không phải vì người mà đặt việc. Người
căn dặn, chúng ta phải nhớ rằng: Người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở. Dùng người
như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều dùng được. Người phê

24


phán “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người. Thí dụ thợ rèn thì bảo đi
đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu tùy tài
mà dùng người thì hai người đều thành công” [t11, tr. 276].
Ngoài việc “Biết dùng người”, người làm công tác cán bộ cần phải “Khéo
dùng người”. Đều này cần thể hiện ở chỗ kết hợp các thế hệ cách mạng một cách
đúng đắn. Cán bộ già có kinh nghiệm, được rèn luyện thử thách nhiều trong thực tế
đấu tranh, còn lớp thế hệ trẻ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó học tập,
tiến bộ nhanh. Vì thế: “Coi thường cán bộ trẻ là không đúng. Còn cán bộ trẻ không
được kiêu ngạo, phải khiêm tốn học hỏi các đồng chí già có kinh nghiệm” [t18,
tr.211].
Muốn dùng cán bộ cho đúng phải hết sức khách quan, công tâm và đặc biệt phải
chống những căn bệnh “Địa phương chủ nghĩa, óc địa phương, óc hẹp hòi, vì tình”
bởi vì mắc phải những căn bệnh đó sẽ “Ham dùng bà con, anh em, quen biết, bầu
bạn, ham dùng những kẻ nịnh hót minh”.
Trong việc sử dụng cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu của công việc, từ phẩm
chất đạo đức, năng lực của người cán bộ. Không nên sử dụng “Vì tình cảm, vì thân
thích, vì nể nang”. Bởi làm như vậy “Nhất định không ai phục, mà còn gây thêm

mối lôi thôi trong Đảng” và “Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”. Bác
còn chú ý nhiều đến việc cất nhắc cán bộ vào những cương vị lãnh đạo. Theo người,
cần phải thận trọng và chính xác khi cất nhắc cán bộ “Nếu cất nhắc không cẩn thận,
không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm vào những địa vi lãnh
đạo. Như thế rất có hại” [t14, tr.236]. Thận trọng quá cũng không tốt mà phải “Có
gan cất nhắc cán bộ”. Có gan không có nghĩa là làm vội, làm ẩu, làm liều, mà phải
thấu hiểu họ để từ đó giao cho họ những trọng trách phù hợp với họ và khi đã đề
bạt, bổ nhiệm, bố trí họ vào các vị trí thích hợp rồi thì cần phải tiếp tục bồi dưỡng,
giúp đỡ họ để họ hoàn thành tốt công việc với những yêu cầu ngày càng cao mà tổ
chức để giao cho họ. Về vấn đề này chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: “Cất nhắc cán bộ,
không nên làm như “Giả gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi
cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá lại

25


×