Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo SỰNGHIỆP xây DỰNG và PHÁT TRIỂN nền văn HÓATIÊN TIẾN đậm đà bản sắc dân tộc THỜI kỳmới (1996 – 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 79 trang )

Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA: KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC THỜI KỲ MỚI (1996 – 2006)

Ngành: Sư phạm Giáo dục Công dân

Giáo viên hướng dẫn:
Th.S – GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THANH TRẠNG
MSSV: 6075729
Lớp: SP.GDCD2 - K33

Cần Thơ, 5/2011

GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 1 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN

Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài............................................................. 2
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 3
6. Kết cấu luận văn.................................................................................................... 3
B. PHẦN NỘI DUNG................................................................................................ 4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA.................... 4
1.1Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chức năng, vai trò và nhiệm vụ
của văn hóa .............................................................................................................. 4
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính chất, chức năng của
văn hóa................................................................................................................... 4
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhiệm vụ của văn hóa............... 10
1.1.3 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của văn hóa.................... 13
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa ........................................................... 16
1.2.1 Quan điểm về vị trí của văn hóa và người làm văn hóa trong đời sống
xã hội...................................................................................................................... 17
1.2.2 Quan điểm về chức năng của văn hóa ......................................................... 19
1.2.3 Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới............................................... 21
1.2.4 Quan điểm về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với hấp thụ tinh hoa văn
hóa thế giới................................................................................................................. 23
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC
DÂN TỘC THỜI KỲ MỚI 1996 - 2006.................................................................... 25
2.1 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của văn hóa trong đời sống

dân tộc........................................................................................................................ 25
2.1.1 Thế nào là văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.................................... 25
2.1.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của nền
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 2 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
văn hóa trong thời kỳ mới .......................................................................................... 29
2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới................................................. 42
2.2.1 Quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc trong giai đoạn (1996 – 2006)....................................................................... 42
2.2.2 Kết quả thực hiện .......................................................................................... 59
2.3 Một số giải pháp và bài học kinh nghiệm nhằm xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc........................................................................ 64
2.3.1 Một số giải pháp ............................................................................................ 64
2.3.2 Bài học kinh nghiệm ..................................................................................... 70
C. PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 76

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển và sự trường tồn của một dân tộc. Văn
hóa không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Chính vì vậy ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề văn
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 3 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

hóa, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng để giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng
tâm vào đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là quan điểm mới đánh dấu sự phát triển lý
luận của Đảng trên lĩnh vực đặc biệt quan trọng này. Nó phản ánh một quá trình tư duy lý
luận và tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta trong 80 năm lãnh đạo
văn hóa của Đảng.
Trải qua 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán và không
ngừng bổ sung đường lối xây dựng nền văn hóa mới phù hợp với tiến trình phát triển của
cách mạng nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII là Nghị quyết đầu tiên về văn hóa theo nghĩa rộng, sâu sắc và tập trung nhất
trong định hướng chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập chúng ta đã và đang tiếp cận với rất nhiều loại hình
văn hóa khác nhau của các nước trên thế giới nhưng không phải tất cả các nền văn hoá du
nhập vào nước ta đều là văn hóa “không độc hại”, trong quá trình tiếp thu nền văn hóa bên
ngoài chúng ta cần “Gạng đục khơi trong” cho thật kỹ, phải biết được văn hóa nào “độc
hại” và văn hóa nào “không độc hại”. Cho nên, việc nhận thức toàn diện và sâu sắc về vai
trò, chức năng, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc là một trong những yêu cầu cấp thiết để tạo sự thống nhất và đồng thuận
xã hội, tạo động lực cho việc triển khai các Nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong
thời kỳ đổi mới hiện nay. Đây là lý do tác giả đã chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc thời kỳ mới 1996 – 2006” để làm đề tài luận văn của mình với mong muốn góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc tìm hiểu quá trình lãnh đạo và xây dựng nền văn hóa của
Đảng ta.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Có thể nói mãng đề tài về văn hóa là mãng đề tài lớn, có nội hàm rất rộng nên đã có

rất nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này: chẳng hạn như Phác thảo chân dung văn
hóa Việt Nam, Trần Đình Nghiêm (chủ biên); Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiến tiến
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 4 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
đậm đà bản sắc dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên); Góp phần tìm hiểu tư tưởng cơ
bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của văn hóa trong sự phát triển xã hội, TS
Hoàng Thị Hạnh (chủ biên); Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hóa, PGS.TS
Phạm Duy Đức (chủ biên); Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 Những vấn
đề phương pháp luận, PGS. TS Phạm Duy Đức (chủ biên); 60 năm đề cương văn hóa với
văn hóa và phát triển ở Việt Nam hôm nay, TS Đỗ Thị Minh Thuý (chủ biên); GS. TS Trần
Văn Bính, Tạp chí Tuyên giáo (1/2010) Đảng ta và sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới;
Đỗ Đình Hãng – Vũ Trường Giang, Tạp chí Khoa học xã hội (3/2002) Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa; Hồ Sĩ Quý, Tạp chí Triết học (4/1996) Về vai trò động lực của văn hoá
trong sự phát triển xã hội; Ngô Đình Xây, Tạp chí Cộng sản (2/2007) Thành tựu nổi bật
trong đổi mới tư duy của Đảng về văn hóa …Trên cơ sở lý luận của các công trình nghiên
cứu khoa học của các tác giả. Tác giả kế thừa và phát triển những nghiên cứu, hệ thống lại
các quan điểm, chủ trương của các nhà hiền triết, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong
giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu đề tài:
Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu là:
 Nghiên cứu các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
 Nghiên cứu quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc từ 1996 – 2006.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thực hiện đề tài luận văn này, tác giả tập trung giải quyết các vấn đề sau:

Thứ 1, làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò, chức năng của văn
hóa trong đời sống xã hội.
Thứ 2, làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa trong đời sống dân
tộc.
Thứ 3, làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò văn hóa trong đời
sống dân tộc.
Thứ 4, làm rõ quá trình chỉ đạo của Đảng để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc giai đoạn 1996 – 2006.
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 5 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Thứ 5, Rút ra một số giải pháp và bài học kinh nghiệm.
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trên cơ sở đó thấy được những thành tựu và hạn chế của
công tác này, để từ đó nêu lên một số giải pháp cơ bản và rút ra bài học kinh nghiệm trong
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Mặt không gian: Đề tài nghiên cứu quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Mặt thời gian: Đề tài được nghiên cứu trong thời gian cụ thể được giới hạn từ năm
1996 – 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp :
Phương pháp luận: đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: để thực hiện đề tài tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều

phương pháp: phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp lịch sử,
phương pháp logic, phương pháp thống kê…
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung gồm có 2 chương – 5 tiết.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chức năng, vai trò và nhiệm vụ cuả
văn hóa
1.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về tính chất, chức năng của văn hóa
Bằng những luận cứ và dẫn chứng khoa học đầy sức thuyết phục, C.Mác, Ph.
Ăngghen và V.I.Lênin đã khẳng định văn hóa là một trong những hình thái ý thức xã hội và
những quan hệ xã hội. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, văn hóa tác động tích
cực trở lại đối với đời sống xã hội. Từ đó, các ông cho rằng, “lao động được tiến hành
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 6 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong xã hội và do xã hội” là nguồn gốc của văn hóa. Đặc biệt, trong quá trình phân tích
mối quan hệ giữa văn hóa và đời sống xã hội, các nhà kinh điển đã vận dụng học thuyết
đấu tranh giai cấp để lý giải mọi hiện tượng văn hóa. Chính trong quá trình phân tích ấy,
các ông đã khẳng định văn hóa có tính chất giai cấp, nhân dân, dân tộc và nhân loại.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong mọi thời
đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là
giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần
thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi
phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những
người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”
[4; tr 66]. Tính giai cấp của văn hóa quy định quan điểm của các giai cấp trong phát triển
văn hóa. Các giai cấp cầm quyền đều sử dụng văn hóa như một vũ khí quan trọng để phục

vụ và bảo vệ cho quyền lợi của họ. Do đó, tính giai cấp của văn hóa luôn gắn liền với tính
đảng. Tính đảng của văn hóa không phải ở chỗ người làm văn hóa là đảng viên, mà ở lập
trường tư tưởng, sự nhiệt tình các mạng, ở mối liên hệ mật thiết với quần chúng, mức độ
thấm nhuần đường lối của đảng, tinh thần cách mạng tiến công vào hệ tư tưởng tư sản, bảo
vệ chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong khi khẳng định tính đảng, tính giai cấp của văn hóa, chủ
nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sự phát triển của văn hóa vô sản như một tất yếu: “thứ
đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai,
tức là đạo đức vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn
một sự tồn tại lâu dài” [6; tr 136].
Văn hóa không chỉ có tính chất giai cấp mà còn có tính nhân dân sâu sắc. Trong xã
hội tư bản, giai cấp tư sản đã biến những tri thức, nghệ sĩ… thành những người làm thuê.
Và họ, những người sáng tạo ra văn hóa, lại trở thành kẻ bóc lột và bị ngay những sản
phẩm văn hóa ấy thống trị, làm họ bị tha hóa. Giai cấp tư sản đã “tước đoạt” các giá trị văn
hóa của quần chúng lao động, biến những giá trị văn hóa ấy thành tài sản của giai cấp
thống trị. Chính sự mâu thuẫn ấy khiến cho quần chúng bị tách biệt với văn hóa.
Ngược lại, các nhà kinh điển khẳng định quần chúng nhân dân mới là người sáng tạo
ra văn hóa, là những người đích thực của văn hóa. Vì vậy, họ có quyền được hưởng những
thành quả của văn hóa. V.I. Lênin đề cao vai trò của quần chúng trong xây dựng xã hội
mới. Người cho rằng, chỉ khi nào quần chúng tự nguyện, nhiệt tình tham gia vào công việc
của nhà nước thì chế độ xã hội chủ nghĩa mới được xác lập.
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 7 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
C. Mác và Ph. Ăngghen hoạt động trong thời kỳ nhiều dân tộc hình thành và phát
triển cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do điều kiện tự nhiên và
lịch sử khác nhau nên các dân tộc hình thành đều mang trong nó những nét văn hóa rất
riêng, mang tính đặc thù, khu biệt với văn hóa của các dân tộc khác. Điều đó làm cho văn
hóa mang tính dân tộc độc đáo riêng có. Chính vì vậy mà mỗi trào lưu tư tưởng nảy sinh và
phát triển ở dân tộc nào sẽ gắn với điều kiện riêng của dân tộc đó.

Tuy nhiên, không có nền văn hóa của dân tộc nào phát triển độc lập hoàn toàn với
văn hóa của các dân tộc khác. Sự tác động qua lại, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn
hóa là một quy luật khách quan. Sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa sẽ
giúp cho nền văn hóa của các dân tộc xoá đi những điểm khuyết thiếu và phát triển toàn
diện hơn.
Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển về tính dân tộc
của văn hóa trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới - nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Điều đó được thể hiện rõ nét ở thái độ của giai cấp vô sản trong việc đánh giá phê phán và
kế thừa di sản văn hóa dân tộc. Lần đầu tiên V.I.Lênin đã đề cập đến luận điểm về hai dòng
văn hóa trong một nền văn hóa dân tộc: dòng văn hóa chính thống của giai cấp thống trị và
những yếu tố của dòng văn hóa xã hội chủ nghĩa của quần chúng lao động. Người viết:
“Mỗi nền văn hóa dân tộc đều có những thành phần, thậm chí không phát triển, của một
nền văn hóa dân chủ và xã hội chủ nghĩa, vì trong mỗi dân tộc đều có quần chúng lao động
và bị bóc lột mà điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân
chủ và xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong mỗi dân tộc, cũng còn có một nền văn hóa tư sản
(nền văn hóa này thường mang tính chất Trăm đen và tăng lữ), không chỉ ở trong tình trạng
những “thành phần” mà là dưới hình thức nền văn hóa chiếm địa vị thống trị” [38; tr 154].
Có thể thấy những yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển trong chủ nghĩa
xã hội khi phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao. Đây là quan điểm hết sức cơ bản
để tiếp thu di sản văn hóa dân tộc.
Đứng trên lập trường khoa học và cách mạng, V.I.Lênin đã phê phán triệt để những
quan điểm sai lầm về kế thừa di sản văn hóa của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa hư vô, chủ
nghĩa phi chính trị,…V.I.Lênin thẳng thừng chỉ ra rằng: “Lối nói giáo dục “tách rời chính
trị”, hoặc “không cần đến chính trị” – đó là lối nói giả dối của giai cấp tư sản, đó không
phải cái gì khác ngoài sự lừa bịp quần chúng mà 99% bị giáo hội và chế độ tư hữu, v.v.
thống trị” [40; tr 473].
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 8 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngoài ra, V.I.Lênin cũng thẳng thắn bác bỏ chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chủ trương
thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc.
Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân
tộc của văn hóa có quan hệ mật thiết với nhau và với tính nhân loại phổ biến của văn hóa.
Ngay khi khẳng định bản chất của văn hóa là phát huy “năng lực bản chất người”, nói tới
văn hóa là nói tới con người, các nhà kinh điển đã khẳng định tính nhân loại của văn hóa.
Các ông cho rằng, khi những yếu tố văn hóa phản ánh hiện thực khách quan và
hướng đến sự tiến bộ xã hội thì chúng là tài sản của toàn dân, mang tính nhân loại phổ
biến, bất kể nó do giai cấp nào tạo ra. V.I.Lênin từng viết: “khẩu hiệu “tự do báo chí” đã có
ý nghĩa toàn thế giới từ thời trung cổ đến thế kỷ XIX. Tại sao? Vì nó nói lên tính chất tiến
bộ của giai cấp tư sản, tức là nói lên cuộc đấu tranh của giai cấp này chống bọn tu sĩ, bọn
vua chúa, bọn phong kiến và bọn chúa đất” [14; tr 42].
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định
“Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất
cả các dân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tài
được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy
nở ra một nền văn học toàn thế giới” [5; tr 602 ]. Điều đó cho thấy tính nhân loại phổ biến
ngày càng thể hiện rõ nét dù cho giai cấp tư sản có muốn hay không. Đặc biệt, với sự xuất
hiện của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của văn hóa theo chủ nghĩa quốc tế vô sản càng
khẳng định tính nhân loại của văn hóa.
Bên cạnh việc khẳng định những tính chất cơ bản của văn hóa, chủ nghĩa Mác –
Lênin cũng thấy chức năng xã hội của văn hóa. Các nhà nghiên cứu cho rằng, chức năng
xã hội của văn hóa được đề cập đến trong chủ nghĩa Mác – Lênin gồm: chức năng giáo
dục, chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng dự báo.
Có thể thấy, chức năng bao trùm và quan trọng nhất của văn hóa là chức năng giáo
dục. Thông qua chức năng này, văn hóa định hướng cho con người hành động phù hợp với
lý tưởng, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Với nó, văn hóa thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển xã hội. Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa thể hiện ở việc nó tác động và
huy động được tất cả năng lực tinh thần của con người. C.Mác đã khẳng định được tầm
quan trọng của chức năng này khi viết: “Sự ngu dốt, đó là cái sức mạnh quỷ sứ và chúng

tôi sợ rằng nó sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch” [14; tr 43].
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp, tác dụng giáo
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 9 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
dục của văn hóa cũng mang đầy tính mâu thuẫn. Có hiện tượng đó là do trong xã hội ấy
không có nền văn hóa thống nhất, các giai cấp đối lập nhau đã tạo nên những giá trị văn
hóa đối lập nhau. Văn hóa của giai cấp thống trị có những giá trị dành riêng cho đại biểu
của nó, khác với giá trị văn hóa của quần chúng lao động bị áp bức. Mặt khác, trong xã hội
ấy cũng có sự tách biệt giữa những điều được giáo dục và thực tiễn. Do đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen chủ trương xóa bỏ lối giáo dục của giai cấp tư sản, thay vào đó là nền giáo
dục của giai cấp vô sản. “Người cộng sản không bịa đặt ra tác động xã hội đối với giáo
dục, họ chỉ thay đổi tính chất của sự giáo dục ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của
giai cấp thống trị mà thôi” [5; tr 620].
Nhấn mạnh đến chức năng giáo dục của văn hóa không có nghĩa là biến các hoạt
động văn hóa thành sự giáo huấn khô khan. V.I.Lênin luôn nhắc nhở người cán bộ làm văn
hóa không thể tiến hành hoạt động văn hóa giống như các hoạt động diễn ra trên lĩnh vực
khác, không thể tiến hành bằng “một hoạt động liều lĩnh hay một cuộc xung phong”.
Người chỉ ra rằng, trong văn hóa, nếu chúng ta “hấp tấp và phóng tay” quá là hết sức có
hại.
Có thể nói, giáo dục là chức năng của văn hóa, nhưng không phải là duy nhất. Chức
năng này được thực hiện thông qua các chức năng khác, trong đó có chức năng nhận thức
và cải tạo xã hội.
Chức năng nhận thức nằm trong mọi hoạt động văn hóa, gắn bó chặt chẽ với giáo dục
– đào tạo và khoa học - kỹ thuật. Nó nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết
để khám phá và làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Đây là cơ sở quan trọng
để con người xác định phương hướng hoạt động trong xã hội, tiến hành các hoạt động thực
tiễn.
Nâng cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những tiềm năng sáng

tạo của con người. Chính vì vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều quan tâm đến sự nhận
thức của con người nói chung, của giai cấp công nhân nói riêng. Thông qua sự phê phán
hiện thực của chủ nghĩa tư bản, C.Mác nhấn mạnh: “Phải làm cho họ cảm thấy bị áp bức
hơn là họ đang bị áp bức thực tế bằng cách gây cho họ ý thức về sự áp bức, và phải làm
cho họ cảm thấy nhục nhã hơn là họ đang bị nhục nhã bằng cách nêu sự nhục nhã đó trước
công chúng… Cần phải tập trung cho nhân dân biết kinh khủng đối với bản thân họ để đem
lại can đảm cho họ” [14; tr 45]. Không chỉ giúp họ nhận thấy được sự áp bức, bóc lột đang
diễn ra tràn làn trong xã hội tư bản, các ông còn thổi vào ý chí hành động nhằm xoá bỏ mọi
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 10 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
áp bức và bất công trong xã hội. “An ủi người nô lệ là một việc làm lợi ích cho chủ nô, còn
người bạn chân chính của người nô lệ là người dạy cho họ biết phẫn nộ, biết vùng dậy, biết
đánh đổ áp bức, chứ tuyệt đối không an ủi họ” [14; tr 46].
Do đó, trong khi phê phán chủ nghĩa lãng mạn phản động, C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đã lên án thái độ tiêu cực, quay lưng lại với thực tại của xã hội hay tô điểm cho
bộ mặt xấu xa của nó. Các ông cho rằng việc làm đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm lợi cho
giai cấp thống trị. Các ông đã đề cao những tác phẩm vạch trần thực trạng xấu xa và gợi
lên ý thức phủ định mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình đấu tranh, các ông đã đánh
giá cao những mặt tích cực của chủ nghĩa hiện thực, chỉ ra những mặt còn hạn chế của nó.
Trên cơ sở đó, các ông đã chỉ ra phương hướng phát triển của nền văn nghệ cách mạng của
giai cấp vô sản. Trong thời kỳ hoạt động cách mạng của V.I.Lênin, nền văn nghệ cách
mạng đã phát triển theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc tính đảng. Từ
nhận thức được hiện thực và quy luật phát triển khách quan, con người sẽ có những hành
động tích cực nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và con người.
Như vậy, chức năng nhận thức và cải tạo xã hội đã giúp con người nhận ra và hành
động theo đúng quy luật của tự nhiên.
Chức năng giáo dục cũng được thể hiện thông qua chức năng thẩm mỹ của văn hóa.
Chức năng thẩm mỹ có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã hội. Trước đây, các học giả tư

sản thường không chú ý đến chức năng này của văn hóa. Họ cho rằng cái đẹp chỉ là thứ
trang sức cho cuộc sống của họ, làm cho cuộc sống của họ thêm màu sắc và thú vị. Trái lại,
C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định và đề cao tính thẩm mỹ của văn hóa. Theo C.Mác,
con người luôn có nhu cầu nhào nặn hiện thực theo quy định của cái đẹp.
Trong tự nhiên có muôn vàn cái đẹp, con vật cũng biết tạo nên vẻ đẹp. Nhưng con vật
chỉ tạo ra vẻ đẹp do bản năng của nó và được di truyền bằng con đường sinh học. Theo chủ
nghĩa Mác – Lênin, con vật chỉ tạo ra những sản phẩm theo kích thước và nhu cầu của bản
thân nó; còn con người thì có thể tạo ra những sản phẩm theo kích thước của bất kỳ giống
loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng. Như vậy,
chỉ có con người mới có năng lực thẩm mỹ và được di truyền bằng con đường xã hội. Chỉ
có con người mới chủ động tác động vào tự nhiên và cải biến nó theo nhu cầu thẩm mỹ của
mình. Chính vì vậy, văn hóa là cái để phân biệt con người với con vật.
Chính cái đẹp, cái hay của văn hóa, đã làm con người đẩy lùi bản năng để ngày càng
trở nên “Người” hơn. “Mắt chim đại bàng nhìn thấy xa hơn mắt người rất nhiều, nhưng
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 11 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mắt người nhận thấy trong sự vật được nhiều hơn mắt đại bàng rất nhiều” [14; tr 47].
Những giác quan của con người được bồi đắp trong môi trường xã hội giúp con người nảy
nở những cảm xúc thẩm mỹ. Cảm xúc thẩm mỹ không chấp nhận những yếu tố bản năng,
tính thực dụng, vụ lợi tầm thường. Chính những cảm xúc thẩm mỹ, sự rung động trước cái
đẹp tạo nên phẩm chất đạo đức của con người. Một trong những nhân tố góp phần vào sự
phát triển những cảm xúc thẩm mỹ, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ là những tác phẩm nghệ
thuật. Các tác phẩm này đánh thức và hoàn thiện những cảm xúc thẩm mỹ của con người,
tạo nên sự hòa hợp giữa chủ thể và khách thể. Tính thẩm mỹ của văn hóa giúp con người
cảm nhận được cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp trong con người, nhận diện được cái ác trong
xã hội. Từ những nhận thức đó, con người sẽ vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Do đó, chức
năng thẩm mỹ của văn hóa gắn liền với chức năng nhận thức. Có thể nói, thiếu đi khát
vọng thẩm mỹ, con người sẽ không có trí thông minh, tài năng, thiên tài và lòng trắc ẩn;

thay vào đó là sự tính toán nhỏ nhen.
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhiệm vụ của văn hóa
Vấn đề đầu tiên mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin quan tâm là xác định
tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- một nền văn hóa khác hẳn về chất so với các nền văn hóa trước đó. Khác với những
nhiệm vụ chính trị, quân sự có thể thực hiện trong thời gian nhanh chóng và có thể có được
kết quả ngay, đối với một lĩnh vực thuộc về đời sống tinh thần như là văn hóa, nhất là nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa thì việc xây dựng nó không phải là chuyện ngày một, ngày hai.
Các ông đã cảnh báo những người cộng sản về sự nôn nóng muốn có ngay một nền văn
hóa mới “nhiệm vụ văn hóa không thể thực hiện nhanh được như nhiệm vụ chính trị và
nhiệm vụ quân sự, cần hiểu rằng hiện giờ, điều kiện tiến lên không giống như trước kia.
Trong thời kỳ khủng hoảng gay gắt trong vòng một vài tuần, có thể giành thắng lợi về
chính trị. Trong một cuộc chiến tranh, trong vài tháng có thể giành được thắng lợi, nhưng
trong lĩnh vực văn hóa thì thời gian không thế, không thể giành thắng lợi, vì chính do bản
chất của sự vật nên cần phải một thời gian dài hơn, và phải thích ứng với thời gian dài hơn
đó, phải tính toán công việc của mình, phải tỏ ra hết sức kiên quyết, bền bỉ và có kế hoạch”
[14; tr 98].
Các ông kiên quyết đấu tranh với những nhận thức không đúng của những người tự
nhận là mácxít. Họ phủ nhận khả năng xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa, cho rằng giai
cấp vô sản sau khi giành được chính quyền sẽ phá hoại văn hóa và làm cho tiêu vong,
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 12 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
không thể nào sáng tạo ra giá trị văn hóa mới. Họ cũng cho rằng giai cấp vô sản trong giai
đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải tập trung toàn lực của mình vào
cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp quyết liệt cho nên không thể xây dựng được
nền văn hóa của mình. Bản thân giai cấp vô sản cũng chưa đạt đến một trình độ văn hóa
nhất định để có thể bắt tay vào xây dựng nền văn hóa mới, “làm một việc điên rồ là định
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước không đủ trình độ văn hóa” [14; tr 99].

V.I.Lênin khẳng đinh: “Nếu để thiết lập chủ nghĩa xã hội, cần có một trình độ văn hóa nhất
định, thì tại sao chúng ta lại không thể bắt đầu trước hết bằng biện pháp cách mạng mà
giành lấy những tiền đề nhất định đó đã; rồi sau đó mới dựa trên cơ sở một chính quyền
công nông và chế độ Xôviết mà chuyển bước để đuổi kịp được những dân tộc khác”[14; tr
99].
Nhiệm vụ thứ nhất, để xây dựng nền văn hóa là phải kế thừa, tiếp thu những di sản
của những nền văn hóa cũ mà trực tiếp là nền văn hóa tư sản. Từ đó V.I.Lênin đã nêu lên
một nguyên tắc đối với những người mácxit là trong những công việc sau này phải “dựa
trên cơ sở đó và hướng đó” “không phải là nghĩ ra một thứ văn hóa vô sản mới, mà là phát
triển những kiểu mẫu ưu tú, những kết quả tốt đẹp của nền văn hóa hiện tồn...” [40; tr 548]
và chỉ có như vậy “mới gọi được là làm phát triển một nền văn hóa thực sự vô sản” [40; tr
549] . Như vậy, rõ ràng trong tư tưởng của các nhà kinh điển, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
với tư cách là mục tiêu, là phương tiện, là “vật liệu” không thể thiếu được trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
những giá trị của văn hóa dân tộc cũng như của nhân loại, đặc biệt là những thành quả của
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Nhiệm vụ mà các nhà kinh điển đặt ra cho giai cấp vô sản là
phải tiếp thu và cải biến toàn bộ di sản văn hóa truyền thống và thành tựu văn minh nhân
loại. Đó là điều kiện tiên quyết để tạo nên những giá trị văn hóa mới trong nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa và chính những giá trị mới đó là cơ sở, động lực để thúc đẩy xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Với một thái độ cương quyết, Lênin đã yêu cầu những người cộng
sản Nga “phải tiếp thu toàn bộ nền văn hóa do chủ nghĩa tư bản để lại và dùng nền văn hóa
đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ khoa học, kỹ thuật, tất cả những
kiến thức, tất cả những nghệ thuật. Không có cái đó, chúng ta không thể xây dựng cuộc
sống của xã hội cộng sản được” [39; tr 67].
Nhiệm vụ thứ hai, được các nhà kinh điển đặc biệt quan tâm trong quá trình xây
dựng nền văn hóa mới đó chính là giáo dục. Các ông đã sớm nhận thấy vai trò của giáo dục
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 13 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

trong việc cải tạo chế độ cũ và xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể khẳng
định được vị trí của mình khi có năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, mà điều đó
chỉ có được khi lực lượng sản xuất phát triển mạnh hơn, trong đó yếu tố con người – người
lao động là quan trọng hàng đầu. Trong điều kiện xây dựng xã hội chủ nghĩa ở trình độ
thấp kém thì nhiệm vụ giáo dục hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự
thành công của quá trình xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Trong
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản viết năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến giáo dục
là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình giai cấp vô sản làm cách mạng, thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, “giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ
em. Xóa bỏ việc dùng trẻ em làm trong công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với
sản xuất” [5; tr 628]. Đưa ra nhiệm vụ này, các ông cũng đồng thời phát họa nên mô hình
của một nền giáo dục mới – hệ thống giáo dục dành cho tất cả mọi người, gắn lý thuyết với
thực hành. Về sau, C.Mác còn đưa ra một triết lý về một vấn đề giáo dục toàn diện.
“Phải hiểu giáo dục:
Thứ nhất là trí dục.
Thứ hai là thể dục với mức độ như học trong các trường thể dục và như những môn
tập quân sự.
Thứ ba là học tập kỹ thuật làm quen với những nguyên tắc chủ yếu của tất cả những
công cụ đơn giản nhất của mọi ngành sản xuất” [40; tr 370].
Nhiệm vụ đầu tiên trong công tác giáo dục là tổ chức lại hệ thống giáo dục. Hệ thống
giáo dục cũ nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp bóc lột. Cho nên sản phẩm của nền giáo dục
đó là những con người bị nhiễm phải một tâm lý hoặc là chủ nô, hoặc là tiểu chủ, hoặc là
của người viên chức “chỉ lo nghĩ về của riêng của mình chứ không quan tâm đến người
khác” [40; tr 371]. Nền giáo dục đó mang nặng tính chất giai cấp, chỉ quan tâm đến con cái
của giai cấp tư sản mà “ít chú trọng đến việc giáo dục thế hệ trẻ của công nhân và nông
dân. Cho nên, nhiệm vụ của chính quyền mới là phải tổ chức lại hệ thống giáo dục nhân
dân, xây dựng một hệ thống các cơ quan văn hóa – giáo dục và tiến hành giáo dục cho
nhân dân lao động hiểu rõ tính chất của chính quyền mới và tính hơn hẳn của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Bên cạnh đó, trong việc xây dựng hệ thống giáo dục mới, V.I.Lênin cũng nhấn
mạnh vai trò của người giáo viên hết sức quan trọng, ông đã nhận xét rằng “Chúng ta

không quan tâm hoặc quan tâm rất không đầy đủ đến việc tạo hoàn cảnh cho giáo viên,
nâng người giáo viên lên một trình độ đầy đủ, mà không có trình độ đó thì không thể nói
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 14 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
đến một nền văn hóa nào cả, dù là văn hóa vô sản hay là văn hóa tư sản đi nữa. Mà chỉ có
thể nói đến trạng thái dốt văn hóa kiểu nữa Á châu mà đến nay chúng ta vẫn chưa thoát
khỏi và không thể nào thoát khỏi được nếu không cố gắng đến nơi được, tuy rằng chúng ta
có khả năng thoát khỏi được” [14; tr 105].
Nhiệm vụ thứ hai là thực hiện công tác giáo dục đối với các tầng lớp trong xã hội.
V.I.Lênin cho đó là nhiệm vụ quan trọng nhất và là trách nhiệm của các tổ chức đảng nhằm
sử dụng tích cực và đầy đủ hơn mọi phương tiện giáo dục tư tưởng như cổ động, tuyên
truyền báo chí, phát thanh, các tổ chức và cơ quan văn hóa, giáo dục, khoa học, văn học và
nghệ thuật. Giáo dục đã vượt qua khỏi phạm vi của nhà trường và là công việc chung của
cả hệ thống chính trị và xã hội. Thanh toán nạn mù chữ là nhiệm vụ cấp bách lúc này, làm
cho mọi người đọc, biết viết bởi vì “không thể xây dựng một xã hội cộng sản trong một
nước toàn người mù chữ” [14; tr 106].
Không chỉ tiến hành giáo dục với giai cấp vô sản nói chung mà ngay đối với những
người cộng sản, những người ưu tư nhất của giai cấp vô sản cũng phải được giáo dục.
Trong bài phát biểu trước Đại hội XI Đảng Cộng sản Nga ngày 27/ 3/1922, V.I.Lênin đã
chỉ ra cái thiếu của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa chính là trình độ văn hóa của
người cộng sản lãnh đạo. Do đó, đối với những người cộng sản, các nhà kinh điển yêu cầu
là phải tự mình đặt nhiệm vụ: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi mãi mà học
tập ở đây là học tập chủ nghĩa cộng sản.
Trí thức là một trong những yếu tố của nền văn hóa tư bản mà giai cấp vô sản phải
giành lấy từ bộ máy của giai cấp tư sản, lôi cuốn họ vào công cuộc xây dựng nền văn hóa
mới. Tuy nhiên, các nhà kinh điển cũng nhắc nhở rằng: trí thức không phải là “đày tớ của
bọn bóc lột, mà đó là những nhà hoạt động văn hóa trong xã hội tư sản” họ quen với công
việc có văn hoá cho nên giai cấp vô sản không thể nào sử dụng bạo lực để bắt họ làm việc

mà “phải vây quanh họ bởi bầu không khí hợp tác đồng chí, tạo cho họ khả năng làm việc
trong những điều kiện tốt hơn dưới thời chủ nghĩa tư bản” [14; tr 110].
Nhiệm vụ thứ ba trong việc xây dựng nền văn hóa mới là công tác văn hóa nông dân.
V.I.Lênin đã chỉ ra một trong những vấn đề “nghiêm trọng” trong công cuộc xây dựng nền
văn hóa mới chính là “vấn đề nông thôn”. Người khẳng định: “Tổ chức toàn thể nông dân
vào hợp tác xã bao hàm trình độ văn hóa nhất định của giai cấp nông dân, nếu không có
trình độ văn hóa đó thì không thể nào thực hiện được việc tổ chức một cách phổ biến nông
dân vào trong hợp tác xã” [14; tr 111]. Công tác văn hóa nông thông trước hết là thanh toán
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 15 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ văn hóa của nông dân để tự họ có thể tiếp được
những thành tựu khoa học, học hỏi được các chuyên gia tư sản. Nó còn giúp nông dân
thoát khỏi những “thiên kiến tiểu tư sản” cái đang trở thành các hợp tác xã ảnh hưởng xấu
đến khối liên minh công nông.
1.1.3 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của văn hóa
Từ trong quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph. Ăngghen đánh giá cao vai trò của
tư tưởng, của văn hóa và của khoa học. Các thành tựu về tư tưởng, nghệ thuật, khoa học
được xem xét chủ yếu ở bình diện tạo ra những động lực nhằm phát triển tư duy, đạo đức,
qua đó thúc đẩy lịch sử tiến lên. Những giá trị văn hóa lớn của thời đại có những giá trị
như những cuộc cách mạng nhằm giải phóng trí tuệ, tư tưởng và đạo đức, dọn đường cho
sự xuất hiện các chế độ xã hội mới. Cũng như vậy hai ông nhìn thấy vai trò quan trọng của
khoa học tự nhiên và triết học duy vật thế kỷ XVIII ở chỗ nó giải phóng tư duy con người
khỏi siêu hình học và chuẩn bị các tiền đề lý luận cần thiết để xây dựng một xã hội mới
trong tương lai. Từ các luận điểm triết học duy vật thế kỷ XVIII, hai ông rút ra một luận
điểm cực kỳ quan trọng: “Nếu như tính cách con người do hoàn cảnh tạo nên thì do đó
phải làm cho hoàn cảnh phù hợp với tính người”. Nói hoàn cảnh phù hợp với tính người
có nghĩa là phải tiến hành lật đỗ chế độ tư bản - một chế độ đầy bất công, một chế độ
thường xuyên đẻ ra sự tha hóa con người, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản

chủ nghĩa.
Có lẽ nội dung chủ yếu của vai trò văn hóa trong phát triển xã hội ở trong các công
trình lý luận của C. Mác – Ăngghen là ở chỗ đó, ở chỗ nó phóng chiếu ánh sáng tư tưởng
mới, đạo đức mới, ở chỗ nó giải phóng tư duy con người khỏi những ràng buộc của tư duy
cũ, qua đó cỗ vũ cho cuộc đấu tranh nhằm thiết lập chế độ xã hội mới thích ứng với nhu
cầu phát triển và hoàn thiện con người. Vai trò to lớn của văn hóa xét cho cùng là ở chỗ đó.
Đến V.I.Lênin, sự nghiệp xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa đã trở thành hiện
thực. Đó là một công việc cực kỳ khó khăn và mới lạ. Trong sự nghiệp đó chúng ta luôn
đụng phải một vấn đề trực tiếp: đó là vấn đề con người. Chúng ta phải làm gì để xây dựng
chủ nghĩa xã hội với những con người do lịch sử để lại? Tình hình đó phải quan tâm đến
vấn đề văn hóa, vì nói văn hóa là nói đến con người. Con người và văn hóa gắn với nhau
một cách chặt chẽ như hai trang của một tờ giấy. Sự quan tâm đặc biệt đến văn hóa đã làm
cho V.I.Lênin đi tới nhận định: “Bây giờ chúng ta chỉ cần hoàn thành cuộc cách mạng văn
hóa thì sẽ có ngay chủ nghĩa xã hội…, phải hướng trọng tâm công việc vào tổ chức xây
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 16 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
dựng văn hóa…” [14; tr 83].
Những nhận định đó của V.I.Lênin đều gắn với quan niệm của Người về vai trò to lớn
của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng. Để hiểu đầy đủ hơn quan niệm của V.I.Lênin về
vai trò của văn hóa, có lẽ nên trở về với những tư tưởng của Người trong tác phẩm Tổ chức
Đảng và văn hóa học Đảng. Bàn về tính đảng, V.I.Lênin chỉ ra rằng tính đảng vô sản trước
hết là sự biểu hiện một cách tập trung cao độ, một cách tự giác quyền lợi của giai cấp vô
sản. Mặt khác, yêu cầu của tính đảng phải thể hiện những nhu cầu phát triển của xã hội,
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Có nghĩa là giữa tính đảng vô sản và tính chân thực
có một mối dây liên hệ chặt chẽ. Đó là ưu việt của tính đảng vô sản.
Tính đảng vô sản của văn học nghệ thuật không chỉ tác động tới nhận thức, mà qua
nhận thức còn tác động mạnh tới tư tưởng, tình cảm và hành vi của con người. Đây là mục
tiêu chủ yếu của nhận thức, vì nhận thức phải dẫn tới hành động: biến cải đời sống hiện

thực. Như vậy là với quan điểm thực tiễn trong nhận thức, V.I.Lênin đòi hỏi mọi lý luận,
mọi sáng tạo nghệ thuật phải xuất phát từ thực tiễn, phải mang sức sống của thực tiễn,
đồng thời phải có tác dụng làm kim chỉ nam cho hành động. Khi đánh giá các tác phẩm
văn học, bao giờ V.I.Lênin cũng đứng trên lập trường giai cấp công nhân để nhận xét hiệu
quả khách quan của tác phẩm đó. Nếu tác phẩm đó có lợi ích cho phong trào cách mạng,
nếu nó kích thích, cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, nếu nó
góp phần hun đúc những tâm hồn chiến sĩ trong quần chúng nhân dân, thì Lênin đánh giá
tác phẩm đó cao. Liên hiệp được tình cảm, tư tưởng và ý chí của quần chúng, nâng họ lên
một trình độ cao hơn, có ý nghĩa là tạo ra được động lực cho sự phát triển xã hội. Nguyên
tắc tính đảng của văn học nghệ thuật, theo Lênin, là tham gia cải biến xã hội theo hướng
hoàn thiện xã hội, hoàn thiện con người, là thể hiện một cách sâu sắc vai trò của văn học
nghệ thuật đối với sự phát triển. Ở đây ta thấy sự thống nhất trong tư tưởng của Lênin và
của C.Mác – Ph.Ăngghen về vai trò chức năng của văn hóa: văn hóa chân chính bao giờ
cũng đóng vai trò là động lực đối với sự tiến bộ xã hội.
Như vậy, trong các tác phẩm của mình, tuy những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin chưa sử dụng thuật ngữ vai trò động lực của văn hóa, nhưng bằng sự giải thích sứ
mạng của các hoạt động văn hóa (triết học, tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục),
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển và
tiến bộ xã hội. Ở thời đại mình, các ông tuy chưa chứng minh mối quan hệ giữa văn hóa
với phát triển và tăng trưởng kinh tế, nhưng bằng lý luận sắc bén, các ông đã khẳng vai trò
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 17 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
to lớn của văn hóa đối với sự giải phóng và phát triển các tiềm năng sáng tạo của con
người, đã mô hình hóa các dự báo về xã hội tương lai, qua đó thôi thúc con người vượt qua
những hạn chế và giới hạn trước mắt. Có lẽ nào không coi đó là vai trò là động lực của văn
hóa đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, nhưng lại là
vấn đề ít được quan tâm ở thời đại ngày nay. Sự phát triển và tăng trưởng kinh tế là rất
quan trọng, đặc biệt đối với các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển. Cần phải giải

phóng sức sản xuất, trong đó có nguồn lực con người. Điều đó không còn xa lạ trong tư
duy nhân loại. Nhưng nếu chỉ giới hạn vai trò của văn hoá ở lĩnh vực tăng trưởng kinh tế,
hoặc quá chú trọng khía cạnh này, mà bỏ qua hay coi nhẹ các khía cạnh khác xã hội của
vấn đề, thì có thoả đáng không? Có lẽ là rất cần thiết phải trở về với những tư tưởng của
những nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò khai sáng, vai trò phóng chiếu về tư
tưởng của văn hoá.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Năm 1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm văn hóa. Người viết: “Ý nghĩa của
văn hóa: vì lẽ sinh tồn, cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những giá trị sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.Văn hóa là sự tổng hợp mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng với những nhu cầu và đòi hỏi của sự sinh tồn” [22; tr 431]. Đây là khái niệm, định
nghĩa văn hóa mácxit đầu tiên ở Việt Nam. Khái niệm định nghĩa trên đây chỉ rõ: văn hóa
là sự phát triển tự nhiên và tất yếu, mang tính xã hội cao, do nhu cầu tồn tại của con người;
văn hóa là phương thức hoạt động của con người theo tiến trình phát triển xã hội. Cốt lỗi
của văn hóa là vai trò sáng tạo và giá trị nhân văn.
Từ việc nhìn rõ đặc điểm, bản chất của văn hóa, Hồ Chí Minh đã phát họa con đường
phát triển của văn hóa cách mạng ở nước ta. Người viết: “Xây dựng văn hóa là “xây dựng
tâm lý”, “xây dựng luân lý”, “xây dựng xã hội”, “xây dựng chính trị”, “xây dựng kinh tế”
” [22; tr 431]. Điều đó nói lên vai trò quan trọng của văn hóa, sự chi phối của văn hóa đối
với mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Đây là tư tưởng đầu tiên của Hồ Chí Minh về văn hóa cách mạng, đồng thời là tiền đề
cơ sở cho việc mở rộng những quan điểm của Người về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
văn hóa nói chung, văn hóa trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng; về đường lối,
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 18 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

chủ trương, chính sách, phương châm, phương thức lãnh đạo và quản lý của Đảng trên lĩnh
vực văn hóa nước ta. Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, chúng ta thấy nổi bật
một số vấn đề lớn sau đây:
1.2.1 Quan điểm về vị trí của văn hóa và người làm văn hóa trong đời sống xã hội
1.2.1.1 “Văn hóa - nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài,
mà phải ở trong kinh tế và chính trị” [24, tr 368]
Đây là một quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh trang bị khá sớm cho các nhà văn hóa Việt Nam ngay sau Cách mạng
Tháng Tám.
Vận dụng quan điểm của Lênin về hai thứ văn hóa trong nền văn hóa dân tộc, Người
cũng chỉ ra hai thứ văn hóa – văn nghệ dưới chế độ thực dân ở nước ta: thứ “văn chương
nịnh Tây” và thứ “văn chương cách mạng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ: “Xã
hội thế nào, văn nghệ thế ấy…Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ,
thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị kìm hãm, không thể phát triển lên được” [25; tr 434].
Từ đó, Người rút ra kết luận: “Rõ ràng dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng cũng mất
tự do. Văn nghệ muốn tự do, phải tham gia cách mạng” [28; tr 646]. Nói cách khác, văn
hóa – văn nghệ không thể tách rời đời sống chính trị của dân tộc.
Văn hóa và chính trị đều là những yếu tố của kiến trúc thượng tầng, vốn có quan hệ
mật thiết với nhau. Một nền chính trị đúng đắn bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở một
nền văn hóa tiến bộ. Khi Hồ Chí Minh nói ham muốn tột bực của mình là lo làm sao cho
nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành,… thì đó vừa là mục tiêu của chính trị đồng thời cũng là mục tiêu của văn
hóa. Lãnh đạo nhân dân đi theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã vạch ra một
đường lối mới: Phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, để giải phóng chính trị, giải phóng xã
hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá phát triển.
Ngược lại, một nền văn hóa tiến bộ phải hướng vào mục tiêu phục vụ nhiệm vụ chính
trị cao cả của đất nước. Khai mạc Đại hội Văn hóa toàn quốc (24-11-1946), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết”.
Văn hóa và kinh tế: Người xác định xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây

dựng và phát triển văn hoá. Văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội có tác động qua lại với nhau
rất chặt chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là điều kiện phát triển của văn hóa: “Văn
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 19 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
hóa là kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng có kiến thiết rồi văn hóa mới kiến thiết
được và đủ điều kiện phát triển được” [34; tr 440]. “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ
ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước, phát triển kinh tế và văn
hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta” [28; tr 59].
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh một chiều sự phụ thuộc của văn hóa
vào kinh tế, chính trị mà còn chỉ rõ vai trò, sức mạnh to lớn của văn hóa ảnh hưởng trở lại
đối với kinh tế và chính trị. Theo Người, văn hóa không phụ thuộc một cách máy móc vào
điều kiện sinh hoạt vật chất, mà văn hóa – tư tưởng đi trước một bước để thúc đẩy cho kinh
tế xã hội phát triển. Người nói “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng
ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ, cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [26; tr 281].
Mặt khác, nói văn hóa ở trong kinh tế và chính trị cũng có nghĩa là kinh tế và chính
trị cũng phải có văn hóa. Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến” cũng là theo
tinh thần ấy. Ngày nay, đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng đòi văn hóa phải
thấm sâu vào kinh tế và chính trị. Hiện nay, chúng ta đang nói đến văn hóa kinh doanh,
văn hóa tiếp thị, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo, v.v. là đều theo nghĩa ấy.
Từ đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có 4 vấn đề cùng
phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa” [34; tr
441]. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã được thực tế chứng
minh là sáng suốt. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta cũng đã khẳng định: “văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, xã hội” [7; tr 110].

1.2.1.2 “Văn hóa cũng là một mặt trận, người làm văn hóa là chiến sĩ trên mặt trận
ấy”
Quan điểm này xác định vai trò và vị trí của văn hóa trong sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới, tức là khẳng định mặt trận văn hóa cũng có tầm
quan trọng như các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, đồng thời cũng khẳng định tính
chất quy mô, quyết liệt của cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản động, giữa tiên tiến và
lạc hậu trên mặt trận văn hóa.
Hồ Chí Minh gọi văn hóa là mặt trận để xác định tinh thần chiến sĩ của loại cán bộ
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 20 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Năm 1951, nhân triển lãm hội họa toàn quốc, Người gửi
thư cho các họa sĩ, khẳng định: “Văn hóa - nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là
chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất
định, tức là: phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân” [24; tr 368].
Bức thư của Người đã thể hiện hết sức ngắn gọn và tập trung quan điểm Mác-Lênin
và quan điểm của Đảng ta về vai trò, vị trí, đối tượng phục vụ của văn hóa - văn nghệ, về
yêu cầu tính chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công của văn nghệ sĩ.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí của văn hóa, về vai trò chiến sĩ của
người làm văn hóa đã đặt nền tảng cho đường lối văn hóa – văn nghệ của Đảng và Nhà
nước ta, nó vẫn còn giữ nguyên tính thời sự nóng hổi trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2 Quan điểm về chức năng của văn hóa
1.2.2.1 Văn hóa phải khẳng định và nêu cao lý tưởng độc lập, tự chủ, phải góp phần
nâng cao tư tưởng và hoàn thiện đạo đức của con người
Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, khai mạc vào cuối năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc
lập, tự do. Đồng thời, phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi
ích chung và quên lợi ích riêng…Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam
từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh

phúc của mình nên được hưởng” [34; tr 444].
Yêu nước, tự lập, tự cường, sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung của Tổ
quốc và nhân dân, đó là những tư tưởng lớn, tình cảm đẹp cần sớm được bồi dưỡng và
khẳng định đối với một dân tộc trên con đường độc lập, tự cường. Văn hóa còn phải góp
phần bồi dưỡng và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong xã
hội mới. Người nói: “Văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa
xỉ…Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” [34; tr 444].
Đó là một yêu cầu rất cao đối với chức năng của một nền văn hóa mới.
1.2.2.2 Văn hóa phải góp phần mở rộng hiểu biết nâng cao dân trí
Một dân tộc muốn độc lập, tự cường phải có vốn hiểu biết rộng rãi để thiết thực tham
gia vào công việc kiến thiết nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Muốn giữ vững nền
độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi
của mình. Phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” [23; tr
36].
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 21 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Văn hóa là một ngành rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, văn học
– nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền, báo chí, bảo tàng,…lĩnh vực nào cũng phải góp phần
nâng cao dân trí: cung cấp thông tin, mở mang kiến thức, tuyên truyền đời sống mới, phổ
biến khoa học – kỹ thuật, đạo đức công dân, lịch sử và địa dư nước ta,… Tóm lại, văn hóa
phải có nội dung bổ ích lành mạnh, thiết thực, góp phần mở rộng hiểu biết cho quần chúng,
bởi phải có kiến thức mới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mới có điều kiện hưởng
thụ những giá trị văn hóa của các đời trước để lại.
1.2.2.3 Văn hóa - văn nghệ ngoài nội dung chân thật, phong phú còn phải có hình
thức trong sáng, vui tươi góp phần nâng cao mỹ cảm cho nhân dân
Trả lời câu hỏi thế nào là một tác phẩm hay, Hồ Chí Minh cho rằng “khi nào tác
phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi
người ai cũng hiểu được và khi đọc xong, độc giả phải suy ngẫm” [21; tr 157]. Qua đó có

thể thấy: trong việc xem xét, đánh giá một tác phẩm văn hóa - văn nghệ, Người đòi hỏi
phải xem xét nó trong sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức. Tiêu chuẩn đầu
tiên của tác phẩm nghệ thuật phải là tính chân thật về nội dung. Nghệ thuật sáng tạo theo
quy luật của cái đẹp, nhưng cái đẹp đó phải là cái đẹp có thực từ cuộc sống sản xuất và
chiến đấu của nhân dân - nguồn nuôi dưỡng không bao giờ cạn cho sáng tạo của văn nghệ
sĩ. Người nói: “Nghệ thuật phải gắn với cuộc sống, người vẽ không thể tùy ý muốn tưởng
tượng ra thế nào cũng được” [29; tr 552-553].
Nhưng nội dung tốt chưa đủ chưa làm nên giá trị của tác phẩm. Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, đem văn nghệ phục vụ cho nhân dân không phải là cung cấp cho họ những sản
phẩm “văn hóa loại hai”, những món ăn chế biến vội vàng. Đặc trưng của nghệ thuật là
diễn đạt bằng hình tượng, cảm xúc, màu sắc, nhịp điệu,… nghĩa là tính chân thật sâu sắc
phải đi liền với tính nghệ thuật cao. Người nói: “Quần chúng mong muốn những tác phẩm
có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì
muốn xem, xem rồi thì bổ ích” [28; tr 646-647]. Tóm lại, Người yêu cầu phải “miêu tả cho
hay, cho chân thật và cho hùng hồn”, “góp phần vào việc nâng đời sống vui tươi, lành
mạnh của quần chúng”. Muốn góp phần nâng cao mỹ cảm của quần chúng, văn nghệ của ta
cần vượt lên sự đơn điệu, nghèo nàn. “Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú,
không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi
người thấy được nhiều loại hoa đẹp” [29; tr 551].
1.2.3 Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 22 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong Đề cương văn hóa phát biểu năm 1943, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên ba tính
chất của cuộc vận động xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học, đại chúng. Và ba
tính chất của nền văn hóa mới do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên đã trở thành tư
tưởng chỉ đạo và định hướng phấn đấu của các nhà văn hóa - nghệ thuật nước ta từ hơn ½
thế kỷ nay.
1.2.3.1 Tính dân tộc của văn hóa

Văn hóa là sức sống của dân tộc. Nghệ thuật là bông hoa của tâm hồn dân tộc. Văn
hóa - nghệ thuật phải thể hiện được đầy đủ và sâu đậm bản sắc dân tộc. Chỉ trên cơ sở cái
riêng đặc sắc của mình, văn hóa Việt Nam mới có điều kiện đóng góp vào kho tàng văn
hóa chung của nhân loại.
Tính dân tộc của văn hóa được biểu hiện ở đâu?
Tính dân tộc của văn hóa là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập,
tự cường của dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, nên trước hết nó phải được thể hiện ở nội
dung tuyên truyền cho “lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” và “tinh thần vì nước quên mình”
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.
Tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn con người
Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết, thương người,…tóm
lại là tất cả những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và tính cách Việt Nam đã được hun đúc
trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Tính dân tộc của văn hóa còn được thể hiện ở hình thức và phương tiện diễn đạt. Mỗi
dân tộc có nếp cảm, nếp nghĩ riêng, có hình thức diễn đạt riêng đi thẳng vào lòng người,
lay động sâu xa tâm hồn họ. Về mặt ngôn ngữ, Người căn dặn: “Tiếng nói là một thứ của
cải rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”
[27; tr413].
Nói chung, quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa, rất toàn diện và
sâu sắc, từ nội dung đến hình thức diễn đạt.
1.2.3.2 Tính khoa học của văn hóa
Nhấn mạnh giá trị của truyền thống dân tộc đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ
rõ trong truyền thống có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Một trong những thiếu hụt của văn
hóa cổ truyền là chưa hình thành được một truyền thống khoa học. Tư duy nông nghiệp là
một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển, nên tư
duy lý luận, khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa trở thành mặt chủ đạo của ý
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 23 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

thức toàn xã hội. Trong điều kiện đó, mê tín dị đoan có đất để phát triển.
Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa
học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, thần bí, mê tín dị đoan. Người nhắc nhở ngành văn hóa: trong việc khôi phục vốn cũ,
“chỉ nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt phải loại dần ra”, không được “khôi
phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh” [27; tr 248].
1.2.3.3 Tính đại chúng của văn hóa
Đây là vấn đề thuộc về tính nhân dân, về đối tượng phục vụ của văn hóa - nghệ thuật.
Trước kia, trong xã hội cũ, văn hóa nghệ thuật được coi là món ăn tinh thần sang trọng, chỉ
dành riêng cho một thiểu số người ăn trên ngồi chốc. Đó là một trong những điều bất công
của xã hội cũ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Quần
chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo ra văn hóa,
do đó họ phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Người nói: “Quần chúng là những người
sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra
những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa…” [27; tr 250].
Tại Hội nghị những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng (2-1960). Người
nói: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui
tươi, lành mạnh của quần chúng”.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người, do con người làm ra, nó phải trở về phục
vụ cho con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh giải phóng dân tộc để đem lại tự do,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó có văn hóa. Đó là tính nhất quán trong sự nghiệp
cách mạng của Người.
Tính đại chúng của văn hóa đòi hỏi các nhà hoạt động văn hóa phải tăng cường liên hệ
với thực tế, đi sâu vào cuộc sống của nhân dân vừa để tìm hiểu và phản ánh những nỗi lo
âu và suy nghĩ, khát vọng và tình yêu, cuộc đời và số phận của nhân dân; vừa để đem ánh
sáng văn hóa đến mọi người, mọi nhà, nhất là các vùng sâu, vùng xa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thẳng thắn phê bình: “Phải thấy rằng nói chung văn hóa của ta còn loanh quanh
trong thành phố, chỗ dễ ăn, chứ chưa đến chỗ đồng bào Mèo, đồng bào Mán” [27; tr 249].
Tóm lại, ba tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng hợp lại thành một chỉnh thể thống

nhất, ngày càng thấm sâu vào ý thức sáng tạo của các nhà hoạt động văn hóa nước ta, giúp
họ sáng tạo nên những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn hóa mới. Dù sau này tính chất của
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 24 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


Luận văn tốt nghiệp - Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
nền văn hóa mới có sự thay đổi nhất định về cách diễn đạt, nhưng tinh thần cốt lõi của nó
cũng không đi ra ngoài ba tính chất đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên từ
những ngày đầu dựng nước.
1.2.4 Quan điểm về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với hấp thụ tinh hoa văn
hóa của thế giới
Đề cao truyền thống, bản sắc dân tộc nhưng không tự bó mình vào chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi, thiển cận. Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần quốc tế trong lĩnh vực văn hóa. Người không ngừng kêu gọi các nhà văn
hóa ta phải ra sức nghiên cứu, học tập tinh hoa văn hóa của thế giới, xưa và nay, để làm
cho nền văn hóa của ta vươn lên tới tầm cao của giá trị văn hóa nhân loại. Văn hóa Việt
Nam từ dân tộc đến với nhân loại. Người nói: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau
của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại”. Do đó, “Tây phương hay Đông
phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh
nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa thật có tinh thần thuần
túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”.
Tư duy văn hóa Hồ Chí Minh là tư duy mở rộng để thâu hóa, nó rất xa lạ với mọi thứ
kỳ thị văn hóa. Trong khi chống Pháp, Người vẫn yêu mến và đề cao văn hóa Pháp; chống
Mỹ mà vẫn coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ. Nhà báo Mỹ D.Halberstam đã
nhận xét: Cụ Hồ Chí Minh chẳng những đã giải phóng đất nước mình, đã thay đổi chiều
hướng chế độ thuộc địa ở châu Á và châu Phi mà Cụ còn làm được một việc đáng chú ý
hơn: Cụ đã sử dụng cả nền văn hóa và tâm hồn của kẻ thù để chiến thắng.”.
Bản thân Hồ Chí Minh là hình ảnh kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại. Người chịu
ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán (đến mức làm được thơ, viết chữ thảo,…là rất khó!),
đồng thời ở Người ta cũng thấy in đậm ảnh hưởng văn hóa phuơng Tây.

Nhưng học tập, tiếp thu văn hóa nhân loại không có nghĩa là bê nguyên xi một cách
thô thiển, hoặc chỉ có vay mà không có trả. Người căn dặn: “Mình có thể bắt chước cái hay
của bất kì nước nào ở Âu - Mỹ, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của
người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả”.
Trong lời dạy đó có hàm nghĩa: Phải học tập một cách sáng tạo, chứ không nên chạy
theo sau thiên hạ một cách kệch cỡm, mà phải từ chiếm lĩnh tầm cao của tinh hoa nhân loại
mà vươn lên cao hơn, bằng thành tựu của mình mà góp vào sự phong phú của kho tàng văn
hóa nhân loại.
GVHD: Th.S-GVC HỒ THỊ QUỐC HỒNG 25 SVTH: NGUYỄN THANH TRẠNG


×