MụC LụC
Trang
Mở đầu
3
Chơng 1
YấU CU KHCH QUAN V S LNH O
CA NG V PHT HUY BN SC VN HểA
DN TC TRONG NHNG NM 1996 - 2006
12
1.1
Yờu cu khỏch quan phỏt huy bn sc vn húa dõn tc
(1996 - 2006)
12
1.2
Ch trng ca ng v phỏt huy bn sc vn húa dõn
tc (1996 - 2006) 27
1.3 ng ch o phỏt huy bn sc vn húa dõn tc
(1996 - 2006) 40
Chơng 2 KT QU V KINH NGHIM T QU TRèNH
NG LNH O PHT HUY BN SC VN
HểA DN TC T NM 1996 N NM 2006
48
2.1
Kt qu lónh o phỏt huy bn sc vn húa dõn tc
ca ng (1996 - 2006)
48
2.2
Kinh nghim rỳt ra t quỏ trỡnh ng lónh o phỏt
huy bn sc vn húa dõn tc (1996 - 2006)
63
Kết luận
82
Danh mục tài liệu tham khảo
84
Phụ lục
90
2
Më ®Çu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng
tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình trong quá
trình lịch sử. Văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị
trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của
nhân loại nói chung và của từng quốc gia, dân tộc nói riêng; là sự kết
tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa con người với con
người, con người với xã hội và tự nhiên. Đó là trình độ nhân bản đích
thực của con người, được đo bằng giá trị phổ quát: chân, thiện, mỹ.
Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân
dân Việt Nam đã xây nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc đân tộc, trong đó chủ nghĩa yêu nước và ý chí độc lập dân tộc là nền
tảng cốt lõi, được vun đắp suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Sức mạnh bản sắc văn hóa đã góp phần to lớn để dân tộc Việt Nam chiến
thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc mà không bị đồng hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cục diện thế giới diễn biến nhanh chóng,
quan hệ quốc tế có sự điều chỉnh sâu sắc, hội nhập giữa các quốc gia, dân
tộc ngày càng sâu rộng. Vị trí, vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh
tế- xã hội càng nổi bật; ảnh hưởng của văn hóa ngày càng rộng rãi và sâu
sắc. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đã trở thành chủ đề nóng hổi được
quan tâm rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới, các nước đều đề ra và thực thi
chiến lược phát triển văn hóa, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Tuy
nhiên, quá trình đó cũng sẽ là hệ lụy mà dân tộc này có thể bị hòa tan, hay
trở thành cái bóng của dân tộc khác, tức là đánh mất bản thân mình và đánh
mất sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình.
3
Việt Nam có nền văn hóa lâu đời và đậm đà bản sắc dân tộc, giàu tinh
hoa và giá trị cổ truyền. Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều thuận lợi thúc
đẩy sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, sự hội nhập cũng
chứa đựng những nguy cơ làm mất dần bản sắc văn hóa, phá vỡ những giá trị
truyền thống của dân tộc. Không ít những sản phẩm văn hóa, những tư tưởng, lối
sống ngoại lai đang có nguy cơ làm băng hoại những gì làm nên tinh hoa, cốt
cách và bản lĩnh con người Việt Nam.
Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, từng bước Đảng nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của văn hóa và
phát huy bản sắc văn hóa trong tiến trình phát triển. Đảng chủ trương tiếp
tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy giá
trị truyền thống tốt đẹp, đồng thời bổ sung những thiếu hụt trong hệ giá trị
của mình. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần khắc phục những
nhận thức sai lệch về vai trò, vị trí của bản sắc văn hóa trong sự phát triển
của đất nước, bảo đảm nền văn hóa Việt Nam “hòa nhập” mà không “hòa
tan” theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1996 đến năm 2006” làm luận văn
thạc sỹ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là chủ trương lớn trong xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; có ý
nghĩa to lớn trong tiến trình hợp tác, phát triển của dân tộc Việt Nam.
Do đó đã thu hút nhiều cơ quan, các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Tiêu biểu là các công trình khoa học:
4
Nhóm các sách chuyên luận, chuyên khảo đã được xuất bản:
Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Hồ Sỹ Vịnh (chủ biên) (1993), Văn hóa
vì con người, Nxb Văn hóa, Hà Nội; Huy Cận (1994), “Suy nghĩ về bản sắc
văn hóa dân tộc”, Nxb Chính trị Quốc gia; Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa
và đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội; Nguyễn Dy Niên (1995), Các nhân tố văn
hóa trong dự án phát triển kinh tế xã hội - Hội nhập quốc tế và giữ vững bản
sắc, Nxb CTQG, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu về bản sắc văn
hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Trà Vinh (1996), Tìm hiểu về
bản sắc văn hóa dân tộc - Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh
CNH, HĐH, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Hoàng Vinh (1996), Một số
vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội; Nguyễn Khoa
Điềm (chủ biên), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, Nxb CTQG, Hà Nội; GS.Lê Quang Thiêm (1998), Văn
hóa với sự phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb CTQG, Hà Nội; Hồ Sỹ Vịnh (1999), Văn hóa Việt Nam trong tiến trình
đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội; PGS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm (2001), “Tìm
hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Phan
Ngọc (2002), “Bản sắc văn hóa Việt Nam”, Nxb Văn học; Hồ Bá Thâm
(2003), “Bản sắc văn hóa dân tộc”, Nxb Văn hóa Thông tin; Đỗ Thị
Minh Thúy (chủ biên) (2004), xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc - Thành tựu và kinh nghiệm, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội; TS.Mai Thị Quý (2009), Toàn cầu hóa và
vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
Các công trình khoa học trên tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau,
nhưng có điểm chung nhất là đều nhất quán khẳng định quan điểm, phương
5
hướng nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của
Đảng, tập trung phân tích làm rõ khái niệm, bản chất, cấu trúc, chức năng, nội
dung của văn hóa; làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa với phát triển kinh tế- xã
hội, văn hóa với các vấn đề về chính trị, đạo đức, pháp luật phân tích làm
nổi bật vai trò, giá trị của văn hóa, những yêu cầu đặt ra về phát triển văn hóa
trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế Tuy vậy, các công trình này
chỉ dừng lại ở những vấn đề lớn, phạm vi rộng của lĩnh vực văn hóa, chưa đề
cập trực diện, đầy đủ, chuyên sâu đến chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
trong lĩnh vực phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Song, đây là cơ sở, nguồn tư
liệu trực tiếp để tác giả kế thừa, định hướng nội dung, sử dụng số liệu để
thuyết minh cho các luận điểm trong đề tài và phục vụ quá trình nghiên cứu.
Nhóm các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí:
Nguyễn Phú Trọng, “Định hướng xã hội chủ nghĩa là văn hóa”, Tạp chí
Cộng sản, (Số 2),1995; Hồ Sỹ Vịnh, “Mấy ý kiến chung quanh vấn đề quản lý
và lãnh đạo văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, (Số 4), 1995; Đỗ Huy, “Sự thay đổi
các chuẩn mực văn hóa khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị
trường”, Tạp chí Triết học, (Số 3), 1995; Nguyễn Khoa Điềm, “Nghĩ về văn
hóa và con người Việt Nam trước chặng đường mới”, Tạp chí Cộng sản,
(Tháng 4),1996; Lương Quỳnh Khuê, “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, (Số 3), 1997; Vũ Khiêu,
“Nội sinh và ngoại sinh trong giao lưu văn hóa ngày nay”, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận, (Số 2), 1998; Nguyễn Văn Huyên, “Toàn cầu hóa và một số
vấn đề đặt ra đối với bản sắc văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản,
(Số18), 2001; Nguyễn Ngọc Quyến, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và
vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Triết học (Số11), 2004;
Đặng Hữu Toàn, “Toàn cầu hóa, “nguy cơ tha hóa” và vấn đề định hướng
giá trị văn hóa tinh thần”, Tạp chí Triết học (Số 5), 2006 Các bài viết đã
6
tập trung luận giải, làm rõ sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, khẳng định mục tiêu, tầm quan trọng
của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã đặt ra những yêu cầu
mới đối với sự phát triển đất nước. Vì vậy, các tác giả cũng đã chỉ ra
những yêu cầu có tính nguyên tắc trong tiếp nhận có chọn lọc những giá
trị, tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam,
nhưng vẫn giữ được bản sắc, cốt cách văn hóa Việt. Đồng thời cũng nêu
nên những giá trị lệch chuẩn trong lĩnh vực văn hóa. Đề xuất những giải
pháp nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó, giải pháp
quan trọng hàng đầu là phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, kiên trì, sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, phát huy cao độ bản chất văn hóa đích thực với những thuộc
tính cơ bản của nó. Phát triển nền văn hóa của dân tộc phải gắn chặt với
điều kiện của đất nước và những giá trị cao đẹp của con người Việt Nam,
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các bài báo khoa học đã cung
cấp cho tác giả những tư liệu quý, có giá trị khoa học, có thể sử dụng làm
nguồn tài liệu nghiên cứu của đề tài.
Nhóm các luận văn, luận án và đề tài khoa học tiêu biểu như:
Hoàng Văn Tuyến (1997), Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân
tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay, luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về
bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở
nước ta. Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa,
phong tục tập quán của người Thái (nói chung), người Thái ở Tây Bắc (nói
riêng) nhằm giới thiệu về người Thái những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của
7
văn hóa dân tộc Thái. Công trình của tác giả cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái, nhưng mới chỉ đề cập một
cách chung chung mang tính định hướng, chưa đi sâu nghiên cứu một cách có
hệ thống dưới góc độ Lịch sử, chưa bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc.
Lê Văn Hòa (2003), Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân
tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã khẳng
định sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy nền văn hóa nói chung và giá trị
văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai nói riêng trong điều kiện kinh tế
thị trường, tác giả đã đưa ra được những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy giá
trị văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Gia lai. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
mới chỉ tập trung luận giải về lý luận, chưa đi sâu phân tích làm rõ nguyên
nhân, thực trạng và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
Văn hóa và sự phát triển kinh tế- xã hội (1994), Chương trình KHCN
cấp Nhà nước KX -01-06, Hà Nội. Công trình khoa học nghiên cứu về văn
hóa và sự phát triển kinh tế- xã hội rất cơ bản và hệ thống, đã tập trung
phân tích làm sáng tỏ vai trò của văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa với
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công trình khoa học đã thống kê,
cung cấp một hệ thống số liệu khách quan, chính xác và đã đề xuất
những nhóm giải pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ giữa văn
hóa và phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên,
phạm vi của công trình khoa học chỉ giới hạn giải quyết mối quan hệ
văn hóa và sự phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy, chưa nghiên cứu sâu về
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với việc phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Đây là nguồn tài liệu tham khảo để bổ sung, kiểm chứng
và đối chiếu những tài liệu mà tác giả sử dụng trong luận văn.
8
Nhóm các tác giả nước ngoài nghiên cứu các vấn đề có liên quan:
Echác Dôn (1987), Giá trị cuộc sống và giá trị văn hóa, Nxb Giáo
khoa Mác - Lênin, Hà Nội (Trần Văn Tạo dịch); V.Khajus Uolter, “Tự
do- thị trường tự do về giá trị con người”, Tạp chí Thông tin khoa học xã
hội, Số 4- 1994; Martin Wolf (1999), châu Á trong cơn lốc toàn cầu
hóa: Vì một sự điều tiết ở cấp toàn cầu, Viện Thông tin khoa học xã hội;
Samuen Hungtinhtơn (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb
Lao Động, Hà Nội; Bjaznova (2005), Toàn cầu hóa các giá trị dân tộc,
Tài liệu phục vụ nghiên cứu của Viện Thông tin Khoa học xã hội, số TN
2005- 37 Điều đáng chú ý là một số nhà nghiên cứu độc lập nước
ngoài, đã phân tích quá trình phát triển của xã hội phương Tây hiện đại
và nhận định “cần tiến hành cuộc cách mạng tinh thần”, chỉ ra thực trạng
chênh lệch quá xa không chỉ ở các nước nghèo, chậm và đang phát triển
mà còn diễn ra ở các nước phát triển. Đó là tình trạng áp bức bóc lột, bất
công, phân hóa giàu nghèo, tàn phá, hủy hoại môi trường Vì vậy, các
tác giả đã đề xuất những giải pháp cần xây dựng xã hội hài hòa hơn, rời
khỏi “xã hội tiêu dùng” để chuyển sang “xã hội có ý nghĩa hơn”, đó là
nhu cầu có tính văn hóa sâu sắc, đích thực đang nảy sinh trong tâm lý xã
hội của các nước phương Tây. Vì vậy, các tác giả nhận định: Xét về mặt
văn hóa, mô hình xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu phải nhường chỗ cho
một mô hình xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nguồn tài liệu
tham khảo, tác giả có thể sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên đều có đề cập đến lĩnh vực
văn hóa, xây dựng nền văn hóa nói chung và nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Nhưng, dưới góc độ Lịch sử Đảng, chưa có một công trình khoa học nào
trình bày một cách có hệ thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng phát
9
huy bản sắc văn hóa dân tộc trong những năm 1996 - 2006. Tuy nhiên, Tác
giả có thể kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những công trình trên
trong việc thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích:
Làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
từ năm 1996 đến năm 2006, đánh giá thành tựu, hạn chế, làm rõ nguyên nhân,
rút ra kinh nghiệm để vận dụng trong thời kỳ mới.
*Nhiệm vụ:
Luận giải yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc từ năm 1996 đến năm 2006.
Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc từ năm 1996 đến năm 2006.
Đánh giá thành tựu, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm từ quá
trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1996 đến năm 2006.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động lãnh đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có nội hàm rất rộng, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở một số nội dung: Lòng yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cộng đồng cá nhân - gia đình
- làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, cần cù, sáng tạo trong lao động.
Về không gian: Quốc gia Việt Nam
Về thời gian: từ năm 1996 đến năm 2006. Tuy nhiên, để đạt được mục
đích nghiên cứu, luận văn còn đề cập đến một số vấn đề liên quan đến bản sắc
văn hóa dân tộc trước và sau mốc thời gian trên.
10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
*Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc
và kết hợp hai phương pháp đó, đồng thời còn sử dụng các phương pháp
khác: Phương pháp phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, so sánh,
thống kê …để làm sáng tỏ những nội dung cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn hệ thống hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về lãnh
đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1996 đến năm 2006.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc tổng kết quá trình
Đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục truyền thống ở các học
viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
11
Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 1996-
2006
1.1. Yêu cầu khách quan phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (1996 - 2006)
1.1.1. Tầm quan trọng của phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc
“Bản sắc” theo nghĩa ban đầu, “bản của một sự vật” là cái gốc, cái căn
bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật, còn “sắc của một sự vật” là cái biểu hiện
bên ngoài của sự vật đó. Bản sắc của một đối tượng, sự vật nào đó cần được hiểu
là tập hợp những đặc điểm cơ bản của sự vật ấy mà qua đó cho ta biết được sự
giống nhau và khác nhau giữa sự vật ấy với sự vật khác trong thế giới.
Dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa là dân tộc quốc gia (Nation) và
tộc người (Ethnic). Khi nói đến bản sắc dân tộc thì khái niệm dân tộc được
hiểu theo nghĩa là dân tộc quốc gia. Dân tộc nào cũng có bản sắc của mình.
Có quan điểm cho rằng bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách,
đường nét, màu sắc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển,
giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất
quán trong quá trình phát triển. Nhưng cũng có quan điểm khác lại coi bản sắc
dân tộc là một phạm trù rộng, bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt nhiều
đặc điểm của một dân tộc để tạo nên bộ mặt, hình dáng, cốt cách của dân tộc
ấy không đồng nhất với các dân tộc khác trong khu vực và thế giới.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự
tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình-
12
làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức
tính cần cù sáng tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì
độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính
giản dị trong lối sống [15, tr.10,11].
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một
nền văn hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một
dân tộc. Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với
chính điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai
đoạn phát triển khác nhau của một dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy, cho dù
có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nó không những không mất
đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái phù
hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn hóa
dân tộc mình. Bản sắc văn hóa là một “sức mạnh” nội tại của dân tộc. Nó là
hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này
qua đời khác, là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng
dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Vì vậy, văn hóa không
được “rèn đúc” trong lòng dân tộc để có bản lĩnh, trở thành sức mạnh tiềm
tàng bền vững thì bản sắc dân tộc của văn hóa sẽ mờ phai. Ngược lại, nếu văn
hóa tự mình làm mất đi những màu sắc riêng biệt, độc đáo của mình, sẽ làm
vơi chất keo gắn kết tạo thành sức mạnh bản lĩnh của văn hóa.
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái
riêng (văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong
quá trình giao lưu văn hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho
tàng văn hóa chung. Đồng thời tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá
trị của mình, tạo ra sự khác biệt trong cái đồng nhất, đó chính là bản sắc
văn hóa của một dân tộc. Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường
13
được biểu hiện thông qua văn hóa. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của
văn hóa hoặc bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc chính là văn hóa, song
không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người
ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn
hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc do nhiều yếu tố như:
hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức
hoạt động kinh tế. Như vậy, bản sắc văn hóa dân tộc không thể không
xuất phát từ những yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế, hiểu khái niệm bản
sắc văn hóa dân tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở.
Nó không chỉ là hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn
với bản lĩnh của các thế hệ dân tộc đó.
Ở Việt Nam, văn hóa truyền thống các dân tộc bao gồm nhiều loại hình,
nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau,
tạo nên giá trị to lớn là nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc. Vì vậy, bản
sắc dân tộc cũng có thể được hiểu là bản sắc văn hóa của dân tộc nếu như
văn hóa được hiểu theo nghĩa là: “Ở đâu có con người là ở đó có văn hóa, ở
đâu có hoạt động của con người là có nhân tố văn hóa hiện đại, biểu hiện
hoặc tiềm ẩn bản sắc dân tộc” [87, tr.291].
Quan niệm về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thông thường khi nói đến “phát huy” nhiều người thường không gắn
với “giữ gìn” và cho rằng “giữ gìn” là bảo toàn cái gì đã có, “phát huy” là làm
cho một cái gì đó tốt hơn. Thực ra, “phát huy” bao hàm cả “giữ gìn”. Phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là phát huy những đặc điểm tích cực,
những giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc, khắc phục và loại bỏ những
đặc điểm tiêu cực (không còn phù hợp) trong bản sắc văn hóa đó, đồng thời
14
bổ sung những đặc điểm mới, tiến bộ, phù hợp làm cho bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam ngày càng phát triển, phong phú và tốt đẹp hơn.
Quá trình xây dựng và phát triển đất nước, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc phải kết hợp với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái
hay, cái tiến bộ của các dân tộc khác. Đồng thời, phải đi liền với chống lạc
hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ. Phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam, chính là cách thức góp phần đưa đất nước ta phát triển và
hội nhập một cách nhanh chóng và vững chắc.
Vị trí, vai trò của phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Bản sắc văn hóa dân tộc vừa khắc họa chân dung dân tộc, vừa tạo nên
những yếu tố nội lực quan trọng thúc đẩy dân tộc phát triển. Đánh mất “chân
dung ”của dân tộc tức là từ bỏ bản thân mình, lệ thuộc vào thế giới bên ngoài.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ góp phần khẳng định nền độc
lập, tự chủ đích thực của dân tộc, là điều kiện góp phần đảm bảo cho dân tộc
Việt Nam hội nhập, hợp tác và phát triển.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm để củng cố và phát triển ý thức
dân tộc, nâng cao lòng tự hào về truyền thống của dân tộc. Giúp cho thế hệ trẻ
hiểu được lịch sử, truyền thống dân tộc, khơi dậy niềm tin, xây dựng bản
lĩnh sống, đứng vững trước cám dỗ, những tác động tiêu cực từ bên
ngoài, phát huy mọi tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách của con
người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở, điều kiện cần thiết để
khẳng định nguồn lực nội sinh, tạo lập những bước đi thích hợp, khai
thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Vì vậy, cần phát huy
15
bản sắc văn hóa dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt, phải kết tinh lại và nâng
lên tầm cao mới những đặc điểm tích cực của dân tộc và thế giới, trên cơ sở tạo
lập bước đi thích hợp, khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn nội sinh nhằm
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Thực trạng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước năm 1996
* Thành tựu
Thứ nhất, về phát huy lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc.
Lòng yêu nước là một trong những giá trị cao đẹp nhất của con người
Việt Nam, nó thấm sâu vào máu thịt của dân tộc ta.Tinh thần yêu nước, ý chí
tự cường dân tộc đã trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng được biểu hiện rất
sinh động và cụ thể trong phong tục, tập quán, lối sống của dân tộc. Đó là
tình yêu quê hương, làng xóm, yêu thương con người Việt Nam và nó được
kết tinh ở tình cảm đạo đức “trung với nước, hiếu với dân” tất cả vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ. Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã từng khẳng định: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước” [49, tr.171].
Khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam rơi vào
tình thế vô cùng khó khăn. Nhưng một lần nữa, nhân dân Việt Nam đã thể
hiện bản lĩnh của mình, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trong
hoàn cảnh mới, quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc, kiên định lập trường xã
hội chủ nghĩa, dám nghĩ, dám làm, phát huy sức mạnh nội lực, tranh thủ ngoại
lực, từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng và bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, về phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cộng đồng cá
nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc.
16
Phát huy tinh thần đoàn kết là sự đồng tâm, hợp sức của tất cả mọi
người Việt Nam vì lợi ích chung của dân tộc, vì độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng - nước
được nhân dân ta kế thừa và phát huy trong xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống mới. Đại đa số các tầng lớp nhân dân vẫn vì lợi ích chung, biết đặt lợi
ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Hàng loạt các cuộc vận động, các
phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động từ thiện như: “lá lành đùm lá
rách”, “giúp người gặp lũ lụt, thiên tai”, “hiến máu nhân đạo”, “vòng tay
nhân ái”, “ánh sáng văn hóa hè”, “mang ánh sáng cho người mù” đã được
nhân dân đồng tình ủng hộ. Thông qua các hoạt động này, đã xuất hiện nhiều
tấm gương sáng, con người mới, lối sống mới đáng trân trọng. Ở những làng
quê, tính cộng đồng, tình làng, nghĩa xóm vẫn được duy trì bền chặt. Hàng
xóm láng giềng chia sẻ với nhau những niềm vui trong lễ hội, cưới hỏi, sinh
nhật, tân gia, mừng thọ; và chia sẻ cùng nhau những nỗi buồn hay bất hạnh
của cuộc đời: ma tang, hỏa hoạn, bệnh tật
Thứ ba, về phát huy giá trị nhân ái, khoan dung, cần cù, sáng tạo
trong lao động.
Lòng nhân ái, khoan dung là một trong những giá trị của bản sắc văn
hóa dân tộc. Qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, lòng nhân ái, khoan dung
có những nội dung mới, song về cơ bản, nó vẫn giữ được nét đặc sắc riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, điều đáng mừng là giá trị nhân ái, khoan dung
vẫn tiếp tục được nhân dân phát huy và nâng lên một tầm cao mới trong
xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống của mình. Truyền thống thương
người, cởi mở, khoan dung, thấm nhuần tinh thần lạc quan, tin tưởng vào
sự chiến thắng của chính nghĩa, sẵn sàng cưu mang những người gặp hoạn
nạn, khó khăn, bất hạnh đã được các tầng lớp nhân dân phát huy trong thời
kỳ mới. Từ thiếu nhi đến cụ già, từ học sinh tiểu học đến sinh viên, từ nhân
17
viên bình thường đến cán bộ cao cấp biết chia sẻ, bao dung, độ lượng với
nhau. Tất cả họ đều hăng hái góp sức mình vào phong trào có ý nghĩa sâu
sắc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Áo lụa tặng bà”, “Tấm chăn tình nghĩa ấm
lòng mẹ”, “Gây quỹ vì người nghèo”, “Vòng tay nhân ái”
Cần cù là phẩm chất đáng quí của con người Việt Nam và giá trị đó đã
được phát huy trong thời kỳ mới. Trong lao động sản xuất, kinh doanh,
người người thi đua làm ăn, không ngại khó khăn, nhằm tăng thêm thu nhập,
tích lũy tiền của, xây dựng cuộc sống ổn định. Ngay cả những cán bộ, công
nhân viên chức nhà nước, ngoài giờ làm việc ở cơ quan, họ tranh thủ làm
kinh tế phụ, mở thêm dịch vụ để tăng thu nhập cho gia đình, ngoài nguồn
lương chính. Trong học tập hay lao động trí óc nói chung cũng có không ít
người miệt mài nghiên cứu, làm việc tận tụy, học hành nghiêm túc, cầu tiến
bộ nhằm tích lũy kiến thức đảm đương công việc trong thời đại mới. Ở nước
ngoài, người Việt Nam rất chăm chỉ, siêng năng, cần cù học tập. Nhiều cá
nhân đạt kết quả cao trong quá trình học tập, được các nước đánh giá cao.
Đã có nhiều người Việt Nam trở thành những nhà khoa học tầm cỡ thế giới,
nhiều bạn trẻ đỗ đầu trong các kỳ thi hoặc xếp loại học tập xuất sắc. Trong
cuộc sống đời thường nhiều người ý thức được giá trị của đồng tiền, họ chi
tiêu tiết kiệm, không lãng phí để góp phần bảo đảm cuộc sống. Trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiều thanh niên đã ý thức được trách nhiệm của
mình, vừa lao động sản xuất, vừa ra sức luyện tập chuyên môn, canh giữ đất
trời nơi biên cương, hải đảo xa xôi cho Tổ quốc được bình yên.
Nguyên nhân của thành tựu
Một là, dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời, có sự cố kết
cộng đồng dân tộc chặt chẽ, có ý thức tự tôn dân tộc cao.Với truyền thống
“văn minh lúa nước” của dân tộc, được hình thành và phát triển trải qua hàng
ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, tạo nên sự gắn bó, cố kết cộng đồng
18
chặt chẽ với nhau rất tự nhiên, cùng nhau đắp đê ngăn lũ, ngăn sông, lấn biển, trị
thủy, chiến thắng thiên tai nhằm phát triển nông nghiệp. Đoàn kết gắn bó
chống giặc ngoại xâm, làm nên những chiến công hiển hách, những kỳ tích
lịch sử để bảo vệ nền độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển. Sự cố kết cộng
đồng các dân tộc Việt Nam trên cơ sở lợi ích và địa lý, lịch sử đã tạo nên những
tư tưởng, tình cảm, phong tục, tập quán, lối sống của mỗi con người Việt Nam
và cả dân tộc, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên truyền thống,
bản sắc “rất Việt Nam”. Trong đó, truyền thống yêu nước là những tư tưởng,
tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất, cội nguồn của trí tuệ và sáng tạo,
lòng dũng cảm của con người Việt Nam, đó cũng chính là “nền tảng”, chuẩn
mực đạo đức của dân tộc ta. Truyền thống đó là nguồn sức mạnh tinh thần to
lớn, cổ vũ và động viên con người Việt Nam vươn lên trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, có sự tham gia tích cực của nhân dân và những nỗ lực to lớn của
các lực lượng hoạt động trên lĩnh vực phát huy bản sắc văn hóa.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc- những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam là trách nhiệm và quyền lợi của mọi cấp, mọi ngành, mọi
người và của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước. Trong đó, sự tham gia tích cực đóng góp công sức, tiền
của, trí tuệ và trách nhiệm của mọi công dân, của lực lượng chuyên trách là yếu
tố quan trọng, bảo đảm giá trị bản sắc dân tộc phát triển mạnh mẽ và bền vững.
Nhờ có sự chỉ đạo thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở, nhận
thức của mọi công dân và lực lượng chuyên trách về chủ trương, lợi ích,
quyền lợi đối đất nước ngày càng đầy đủ hơn, tích cực hưởng ứng, tham
gia các hoạt động, phong trào do Đảng, Nhà nước và các địa phương phát
động, tự nguyện rèn luyện, sống có trách nhiệm, nghĩa tình đây cũng là
hệ quả của phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong những năm qua.
19
Ba là, Đảng, Nhà nước có định hướng đúng đắn và từng bước hoàn
thiện cơ chế, chính sách về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Với cách nhìn toàn diện về giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Đảng,
Nhà nước đã xác định rõ mối quan hệ giữa phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc với phát triển kinh tế, xã hội; thấy được vai trò, nguồn lực nội
sinh của bản sắc dân tộc đối với sự phát triển đất nước. Vì vậy, quá
trình xây dựng, phát triển đất nước, cũng chính là quá trình Đảng, Nhà
nước xác định, bổ sung và từng bước hoàn thiện chủ trương, chính
sách về phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
của thực tiễn đất nước đặt ra.
* Hạn chế
Thứ nhất, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống vẫn gia tăng và chưa
có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham
nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa
không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền,
sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất
đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân,
làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước [15, tr.47].
Thứ hai, “tệ sùng bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc,
chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ” [15, tr.46]. Biểu hiện rõ nét
nhất của lối sống đó là xu hướng coi thường giá trị văn hóa truyền thống,
phủ nhận truyền thống dân tộc, đồng thời đề cao “quá mức” các giá trị mà
họ cho là “mới”, là “hiện đại”. Đặc biệt, trước sự ảnh hưởng của lối sống
phương Tây, nhiều người mà chủ yếu là thanh niên đã xa rời lý tưởng và đạo
đức cách mạng, xa rời các giá trị văn hóa dân tộc, đề cao tư tưởng thực
20
dụng, cá nhân chủ nghĩa, bất chấp đạo lý, pháp lý để tạo ra cuộc sống hoàn
toàn mới theo kiểu phương Tây. Họ tuyên truyền văn hóa, lối sống phương
Tây và cho đó là “mô hình chuẩn” để qui chiếu mọi sự đánh giá và so sánh
với các nền văn hóa, lối sống khác. Ai không theo “mô hình chuẩn” đó là lỗi
thời, lạc hậu và bị xem là “nhà quê”. Họ thích nhạc jazz, nhạc Rock không
thích nghe dân ca, nhạc truyền thống của dân tộc; họ thích chạy theo các mốt
thời trang kiểu Tây, hở hang, khêu gợi không phù hợp với thẩm mỹ truyền
thống dân tộc. Mặt khác, xu hướng bảo thủ, phục cổ trong xây dựng đạo đức,
lối sống do ảnh hưởng của nền văn minh nông nghiệp đến lối sống của con
người Việt Nam như chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa
bình quân, chủ nghĩa quan liêu, gia trưởng lối sống tùy tiện, thói quen manh
mún, tản mạn, được chăng hay chớ, tính kỷ luật yếu, xem thường pháp luật,
khả năng hợp tác trong công việc yếu đó là những “rào cản” lớn nhất trong
xây dựng đạo đức, lối sống mới.
Thứ ba, cơ chế chính sách còn nhiều thiếu xót, chậm được ban hành,
công tác quản lý về bản sắc văn hóa có mặt còn buông lỏng. Các cấp, các
ngành ở nhiều địa phương ít quan tâm đến việc tôn tạo, giữ gìn các di sản văn
hóa dân tộc, để nhiều di tích lịch sử bị xuống cấp nghiêm trọng, việc quản lý
các hoạt động văn hóa như: lễ hội, tham quan, du lịch còn nhiều lúng túng,
hiệu quả thấp. Tình trạng mê tín dị đoan trong nhân dân phát triển tràn lan,
nhiều phong tục, tập quán lạc hậu ở các địa phương, nhất là vùng đồng bào
dân tộc thiểu số như: cúng ma, tảo hôn chưa được đẩy lùi.
Nguyên nhân của hạn chế
Một là, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc còn hạn chế. “Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế,
Đảng chưa lường hết những tác động tiêu cực nói trên, từ đó chưa đặt
đúng vị trí của văn hóa” [15, tr.52] còn thiếu những biện pháp cần thiết
21
trên cả hai mặt “xây” và “chống”; chưa có chiến lược về phát triển bản
sắc văn hóa cùng với các lĩnh vực khác; công tác nghiên cứu, tổng kết lý
luận về những giá trị truyền thống, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại về bản sắc văn hóa dân tộc còn hạn chế.
Hai là, nội dung, hình thức giáo dục về phát huy bản sắc văn hóa
trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể còn hạn chế; việc xử lý những thành
phần thoái hóa, biến chất trong bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Công tác
quản lý còn có những biểu hiện buông lỏng, né tránh; cơ chế, chính sách
chưa phù hợp để khai thác tối đa nội lực của nhân dân; đầu tư ngân sách để
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cho cán bộ nghiên cứu, hoạt động,
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa còn thấp.
Ba là, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô đã tác động
đến tư tưởng, tình cảm đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, đã tạo nên cơn
chấn động chính trị dữ dội, tác động mạnh mẽ đến niềm tin vào lý tưởng xã hội
chủ nghĩa trên toàn thế giới, làm nảy sinh chủ nghĩa hoài nghi với nhiều hình
thức khác nhau. Những vấn đề đó có tác động, ảnh hưởng xấu đến tâm tư, tình
cảm, lối sống và ý thức của một số người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Các
thế lực thù địch ra sức chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại bằng âm
mưu “diễn biến hòa bình”, chúng coi lĩnh vực bản sắc văn hóa là mũi đột phá,
“là cái cầu để dẫn vào trận địa tư tưởng”, hướng Việt Nam theo con đường tư
bản chủ nghĩa; phủ định chủ nghĩa xã hội và phê phán sự lựa chọn con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội; phản bác, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của học thuyết
Mác-Lênin. Chúng xuyên tạc, truyền bá các quan điểm sai trái, làm rối loạn tư
tưởng, khủng hoảng niềm tin, coi đây là mũi thọc sâu, tạo ra sự chống đối nội bộ
xã hội từ bên trong. Thông qua các tổ chức phi chính phủ, qua các hình thức giao
lưu, hợp tác về văn hóa để thâm nhập, thu thập tin tức, làm chuyển hóa tư tưởng,
22
chính trị của cán bộ, cài cắm, móc nối với những đối tượng bất mãn, cơ hội chính
trị để thực hiện mục đích làm phai nhạt bản sắc văn hóa Việt.
Bốn là, sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu
cực đến mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Không ít trường hợp vì đồng tiền và
danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng
nghiệp. Buôn lậu, tham nhũng, ma túy, mại dâm, mê tín, dị đoan khá phổ
biến, nhiều hủ tục lạc hậu phát triển tràn lan, nhất là trong việc cưới, việc
tang, lễ hội… Đó cũng là điều nhức nhối mà Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ ra: “lối sống chạy theo đồng tiền,
những thị hiếu không lành mạnh, những hủ tục mê tín tăng nhanh, nhiều văn
hóa phẩm độc hại lan tràn trên thị trường” [13, tr.52]. Mặt khác, đất nước
còn nghèo, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhu cầu
của nhân dân rất lớn, những điều kiện, phương tiện, vật chất bảo đảm để
phát huy bản sắc văn hóa Việt còn hạn chế. Đây là những khó khăn rất lớn
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam trong những năm qua.
1.1.3. Thời kỳ mới và những yêu cầu đặt ra cần phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc
* Đặc điểm của thời kỳ mới.
Cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới
và trong nước có nhiều biến động mau lẹ và khó lường. Trên thế giới, cuộc
đấu tranh giai cấp, dân tộc vẫn diễn ra gay gắt và phức tạp giữa chủ nghĩa tư
bản với chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trên lĩnh vực văn hóa,
đây là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa văn hóa truyền thống với văn hóa hiện
đại, giữa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc với xu hướng
phát triển văn hóa của nhân loại. Đấu tranh giữa xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các luồng văn hóa phản động, lạc hậu, lai
căng Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra
23
cả những cơ hội và thách thức cho tất cả các quốc gia trên thế giới về phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đối với Việt Nam sau 10 năm đầu đổi mới, đất nước đã giành được
những thành tựu to lớn bước đầu, đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế- xã hội;
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện; chính trị- xã hội ổn định;
quốc phòng -an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ ngoại giao được
mở rộng. Đây là tiền đề cần thiết cho phép đất nước chuyển sang thời kỳ mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
* Yêu cầu phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ nhất, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là yêu cầu khách quan của
công cuộc đổi mới, của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế khách quan, một mặt tạo ra
những điều kiện, cho ta những cơ hội để hội nhập quốc tế, thực hiện bước “đi tắt
đón đầu”, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, nó cũng
chứa đựng những nguy cơ khó lường, đe dọa độc lập, tự chủ và sự phát triển đất
nước “Thời cơ lớn được tạo ra trước hết do những thành tựu của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng do sự tác động của nhiều xu thế
tích cực trên thế giới” [21, tr.18]. Vì vậy, tư tưởng cơ bản của Đảng ta về phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc được khẳng định: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Thứ hai, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc để tận dụng những thuận lợi
và thời cơ lớn, tạo môi trường để Việt Nam hội nhập và phát triển. Trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc sẽ đóng vai trò là một nguồn nội lực to lớn góp phần thúc đẩy Việt Nam
hội nhập, phát triển và khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
24
Toàn cầu hóa tạo ra hệ thống quan hệ quốc tế đan xen, làm gia tăng tính
tùy thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc. Chính trong môi trường liên kết, hợp
tác đó là điều kiện để nước ta phát huy truyền thống đoàn kết, tập hợp sức
mạnh của mình cho mục tiêu phát triển đất nước Việt Nam hùng cường.
Áp lực cạnh tranh và xu thế toàn cầu hóa, tư duy của con người Việt Nam
trở nên linh hoạt hơn, năng động hơn trong các lĩnh vực. Đặc biệt, với chủ
trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai qua việc chúng ta hợp tác với
những nước trước đây từng xâm lược Việt Nam, đã khẳng định lòng nhân
ái, khoan dung của con người Việt Nam Đây là cơ hội rất lớn để chúng ta xem
xét, đánh giá vai trò của bản sắc văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, gắn
kết chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa với nhiệm vụ phát
triển kinh tế và xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị, khai thác bản sắc
văn hóa như một động lực, như một nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để chuyển giao vốn, chuyển giao khoa học
kỹ thuật, công nghệ, chuyển giao kỹ năng, kinh nghiệm tổ chức và phát triển
các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa, thúc đẩy quá trình dân chủ
hóa về thông tin toàn cầu, kích thích năng lực sáng tạo, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để mở rộng xuất,
nhập khẩu văn hóa phẩm, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, góp phần nâng
cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân
dân, và giới thiệu các thành tựu bản sắc văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tác động vào tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng, kích
thích tinh thần dân tộc phát triển, thúc đẩy tinh thần cạnh tranh để nâng cao vị
thế bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm hạn chế những tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường và văn hóa phi truyền thống đến
truyền thống và con người Việt Nam.
25
Những khó khăn, thách thức nổi lên trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế là sự tụt hậu về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc so với tốc độ phát triển
của kinh tế và nguy cơ tạo ra sự chệch hướng về phát huy bản sắc văn hóa.
Mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mục tiêu này đang bị nhiều cản
trở do tính thương mại của hoạt động văn hóa đang diễn ra một cách xô bồ,
hỗn loạn, không chỉ dừng lại ở suy thoái lối sống và đạo đức xã hội ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, mà còn có nguy cơ làm biến
dạng cả mục tiêu, lý tưởng chính trị, vi phạm các nguyên tắc và chuẩn mực
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự phân hoá xã hội trên lĩnh vực văn hóa diễn ra mạnh mẽ cùng với
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống văn hóa ở vùng nông thôn,
miền núi và của những nhóm xã hội nghèo so với các loại hình nghề nghiệp
có thu nhập cao khoảng cách ngày càng xa. Sức cạnh tranh của bản sắc văn
hóa dân tộc đối với các nền văn hóa trong khu vực và cộng đồng quốc tế
yếu. Trình độ về khoa học - công nghệ, giáo dục đào tạo, chỉ số về HDI của
Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Đây
là những khó khăn, thách thức rất lớn, tác động tiêu cực đến quá trình phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc. Mở cửa hợp tác để phát triển, để phát triển đòi
hỏi phải tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu và phong phú cho vốn
bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, có một thực tế khó phủ nhận là quá trình
mở cửa, hội nhập chúng ta không chỉ đón “gió mát” và trong lành mà còn
phải đương đầu với những cơn “gió độc”. Vì vậy, để phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa cần phải chủ động,
thích ứng, có chọn lọc, hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực để phát
triển đất nước. Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Mọi hoạt động
văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức,
26