Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

ĐỔI mới PHƯƠNG PHÁP LÃNH đạo và PHONG CÁCH CÔNG tác của đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp cơ sở ở TỈNH cà MAU dưới ÁNH SÁNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.91 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO VÀ PHONG CÁCH
CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
CƠ SỞ Ở TỈNH CÀ MAU DƯỚI ÁNH SÁNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN THỊ KIM CHI

HỒ CHÍ HẢO
MSSV: 6096073
LỚP: ML0968 A1 – K35

C ần Thơ: 05 / 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CÁN BỘ .......................................................................................... 4
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng ............................................................................................................ 4
1.2. Tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng ..................................................... 7
1.3. Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ cách mạng


...................... 16
1.4. Vấn đề sử dụng cán bộ ............................................................................... 34
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO VÀ PHONG CÁCH CÔNG TÁC CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CỞ SỞ Ở TỈNH CÀ MAU ................... 45
2.1. Khái niệm, vị trí và vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Cà Mau . .................................................................................................... 45
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau .................. 49
2.3. Một số vấn đề về phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau ............................................ 59
2.4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc đổi mới phương pháp lãnh
đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ............... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 92


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
V.I. Lênin – Người thầy của giai cấp vô sản đã từng nói: Trong lịch sử chưa
hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong
hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả
năng tổ chức và lãnh đạo phong trào [8, tr.473].
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta cũng đã khẳng định: Cán bộ là
gốc của mọi công việc [13, tr.269], Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định [13, tr.240]. Chính vì vậy, Người đã
dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa
“chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Những quan điểm của Người về
cán bộ, về công tác cán bộ đã trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành
động của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng nói riêng và trong hệ thống chính trị nói

chung.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, Đảng ta trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn xem việc xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu “then
chốt”, quyết định sự thành bại của cách mạng, vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ. Chính vì vậy, Đảng ta đã xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức, có trình độ,
năng lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ cách mạng.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một bộ phận cán bộ mắc bệnh độc đoán,
chuyên quyền, xa dân, phong cách làm việc thiếu khoa học, thiếu dân chủ… làm
cho nhân dân bất bình, giảm lòng tin đối với Đảng, nhà nước. Đặc biệt, trong thời
kỳ mở cửa và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta
đứng trước nhiều cơ hội phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với những thách
thức và nguy cơ trong phát triển. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương
pháp lãnh đạo, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt là vấn đề có tính
bức xúc, cấp bách. Nếu không giải quyết thành công vấn đề này sẽ không thể thực
hiện được những mục tiêu đổi mới đã vạch ra. Trước tình hình đó đòi hỏi các cấp ủy

1


Đảng phải quán triệt sâu sắc hơn quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác
cán bộ và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào điều kiện mới.
Chính vì tính cấp thiết đó mà tác giả chọn vấn đề Đổi mới phương pháp
lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh
Cà Mau dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu luận văn của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, luận
văn vận dụng để đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà
Mau, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong

cách làm việc của cán bộ chủ chốt ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có một số nhiệm vụ:
-

Nghiên cứu một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ

-

Đánh giá đội ngũ cán chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau hiện nay, trọng tâm

là phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác
-

Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và

phong cách công tác dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ thể hiện trong những
tác phẩm chủ yếu và trong hoạt động thực tiễn của Người qua các thời kỳ hoạt động
cách mạng; thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, đề xuất
giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác trong đội
ngũ cán bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề lớn, trong luận văn của mình, luận văn
nghiên cứu một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ: Vị trí, vai

2



trò của người cán bộ; tiêu chuẩn của người cán bộ, phương pháp lãnh đạo và phong
cách công tác của người cán bộ. Từ đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm đổi
mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở tỉnh Cà Mau.
Thời gian nghiên cứu luận văn từ năm 1997 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng ta về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt trong thời kỳ
đổi mới. Luận văn còn kế thừa những kết quả và thành tựu nghiên cứu của các tác
giả đi trước thể hiện trong các công trình đã công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài cơ sở lý luận và phương pháp luận nêu trên tác giả còn sử dụng các
phương pháp phân tích, lịch sử, lôgic, tổng hợp, điều tra, thống kê, so sánh và một
số phương pháp cụ thể khác.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2
chương, 8 tiết.

3


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁN BỘ
1.1.

QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA

CÁN BỘ TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Ở Việt Nam, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, danh từ cán bộ xuất

hiện. Đó là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự. Trong cuộc cách
mạng, khi nói đến cán bộ là nói đến một lớp người mới, chịu đựng mọi gian khổ, hy
sinh cho cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Ở nước ta, danh từ cán bộ có
nhiều cách hiểu với phạm vi rộng hẹp khác nhau. Nói đến định nghĩa cán bộ là
người ta thường nói tới hai khía cạnh đó là: Người cán bộ có chức vụ ở cơ quan nhà
nước hoặc trong một tổ chức nào đó.
Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là
người lãnh đạo, là người thoát ly để làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước,
đoàn thể, quân đội và được hưởng lương.
Luật về Cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2010
định nghĩa về cán bộ như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [21].

4


Cán bộ là người lãnh đạo, là người quan trọng trong một tổ chức hoặc cơ
quan nào, có vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến cuộc cách mạng. Sinh
thời, Hồ chí Minh rất coi trọng vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Người coi vấn đề
cán bộ là một trong những vấn đề then chốt quyết định đến sự thành bại của cách
mạng.

Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn tự rèn luyện, phải luôn giữ được
tư cách của người cán bộ cách mạng, phải luôn giữ vững chủ nghĩa, ít lòng ham
muốn về vật chất, phải luôn quan tâm đến sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng hi sinh tất
cả vì sự nghiệp cách mạng. Bởi theo Hồ Chí Minh:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không
tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt.
Cán bộ là người đem chính sách của chính phủ, của Đoàn thể thi
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không
thể thực hiện được [13, tr.54].
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ
Trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin
và trong thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh nhận thấy vị trí
quan trọng của đội ngũ cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng, là nhân tố quan trọng
quyết định đến sự thành công của cuộc cách mạng. Vì vậy, Người luôn luôn chú
trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đầy đủ sức mạnh để hoàn thành sự
nghiệp vẻ vang của Đảng và nhân dân giao phó. Người coi cán bộ là trụ cột của đất
nước, nhưng phải là những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực mới có thể đảm
nhận được sứ mệnh cách mạng vẻ vang đó. Trước khi Đảng cộng sản Đông Dương ra
đời, để chuẩn bị đội ngũ cán bộ lãnh đạo cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất coi trọng công tác đào tạo, rèn luyện cán bộ. Người đã tuyển chọn những
thanh niên ưu tú trong các phong trào yêu nước thời kỳ đó, để đưa ra nước ngoài đào
tạo, học tập. Số thanh niên ưu tú này sau khi trở về nước đã tham gia lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam và trở thành những cán bộ lãnh đạo ưu tú của Đảng, góp
phần làm nên chiến thắng vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh quan niệm
người cán bộ giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng: Cán bộ là tiền

5


vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có

cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ
vốn [14, tr.46].
Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ cán bộ và vai trò lãnh đạo của Đảng có mối
quan hệ biện chứng, vì Đảng lãnh đạo tốt đội ngũ cán bộ thì làm cho Đảng ngày
thêm vững mạnh, tạo được uy tín cho Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
lãnh đạo nhân dân. Cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do
Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể
phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là do
nhân dân giao cho. Vì vậy, trong quá trình hoạt động, cán bộ cần nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, đem chính sách của Đảng và Nhà nước đi đến từng
người dân, giải thích cặn kẽ cho dân chúng hiểu để dân chúng thực hiện. Đồng thời,
thu nhận những ý kiến đóng góp, kinh nghiệm thực tiễn của người dân đểmphản
ánh với Đảng và Nhà nước, để hoàn thiện, đề ra chủ trương, biện pháp phù hợp với
thực tiễn xã hội. Muốn làm được điều đó, cán bộ cần phải học tập, rèn luyện bền bỉ,
liên tục, suốt cả cuộc đời, học tập để tự hoàn thiện mình, học tập người dân để phục
vụ cho người dân, là người cán bộ có ích cho Đảng, cho Nhà nước. Đó là sống để
học tập, và cống hiến, có như vậy mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng và nhân
dân giao phó.
Hồ Chí Minh cho rằng sự thành công hay thất bại của cách mạng, yếu tố
hàng đầu là cán bộ. Nếu thiếu họ thì mục tiêu đề ra không thể hoàn thành, cuộc cách
mạng không thể thành công, Người khẳng định rằng cán bộ là gốc của công việc, sự
thành, bại của công việc đều do cán bộ tốt hay kém. Cán bộ có vị trí vừa tiên phong
trong công việc, vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò hết sức quan trọng của hệ
thống chính trị nước ta. Nhưng không phải vì thế mà người cán bộ có quyền sinh,
quyền sát như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đại diện, người đại biểu
của nhân dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ của nhân dân giao phó. Hồ Chí
Minh chỉ rõ vai trò của người cán bộ trong xã hội mới: Cán bộ từ Trung ương đến
khu, đến tỉnh, huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào – đều phải là người
đầy tớ trung thành của nhân dân [14, tr.323]. Cán bộ là người lãnh đạo, nhưng


6


đồng thời lại là người thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân giao phó, nên người cán bộ
cần phải: Lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau nỗi vui của thiên hạ [17, tr.291].
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất
là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cấp cơ sở. Theo Người, cách mạng có thành công
hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ này, vì đội ngũ cán bộ này là những
người gần dân nhất, thấu hiểu nhân dân, có có mối quan hệ và liên hệ mật thiết với
nhân dân. Người viết: Cấp xã là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi [13, tr. 371]. Theo Hồ
Chí Minh, nếu như cán bộ lãnh đạo ở cấp Trung ương là những cán bộ có trách
nhiệm hoạch định chủ trương, đường lối chính sách thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
lại những người có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối đó, lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh. Nghĩa là vị trí, vai trò của người cán bộ được biểu hiện thông qua bốn mối
quan hệ: đối với đường lối, chính sách, đối với tổ chức (cơ quan lãnh đạo, cơ quan
quản lý), đối với công việc và đối với dân chúng. Người cán bộ bị ràng buộc bởi các
mối quan hệ đó, và nếu muốn có một vai trò đích thực thì người cán bộ cách mạng
phải hoàn thành được các nhiệm vụ do các mối quan hệ đó đặt ra, góp phần to lớn
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2.

TIÊU CHUẨN CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CÁCH MẠNG
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của người cán bộ, Hồ Chí Minh cho

rằng trong sự nghiệp cách mạng người cán bộ phải có một tiêu chuẩn nhất định,
phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo mà Hồ Chí Minh thường gọi là đức và tài.
Giữa đức và tài, Người nêu đức trước rồi đến tài. Và đồng thời đức và tài không thể
thiếu được ở một người cán bộ cách mạng, nó gắn bó mật thiết với nhau và trong đó

chữ “Đức” phải là gốc. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công thì người cán bộ
phải có đủ cả đức lẫn tài, phải vừa “hồng”, vừa “chuyên” để gánh vác sự nghiệp
cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Theo Hồ Chí Minh người cán bộ cách
mạng cần có những tiêu chuẩn sau:
1.2.1. Đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ

7


Theo Hồ Chí Minh người cán bộ tốt là người có đạo đức cách mạng. Phải có
đạo đức cách mạng mới có thể trở thành người cán bộ cách mạng chân chính. Vì có
đạo đức cách mạng thì không sợ khó khăn, cực khổ, nguy hiểm, không tự cao, tự
đại và luôn tự giác trong công việc. Hồ Chí Minh cho rằng: Làm cách mạng là để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức
có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang [17,
tr.288]. Vì vậy, sự thành, bại của công việc là do sự thấm nhuần đạo đức cách mạng
của người cán bộ.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh tới đạo đức của người cán bộ cách mạng, nó là những tiêu chí để xây dựng
con người cách mạng, phục vụ sự nghiệp của cách mạng. Đạo đức cán bộ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở mấy khía cạnh:
Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Nho giáo phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhưng được Hồ Chí
Minh giải thích khái niệm đạo đức cũ theo lối mới. Theo quan điểm đạo đức Nho
giáo, “Trung” có nghĩa là trung với vua, “Hiếu” là hiếu với cha mẹ. Còn đối với Hồ
Chí Minh lại quan niệm, đạo đức của chúng ta, đạo đức của người cán bộ cách
mạng thì trung có nghĩa là trung với nước, trung với Đảng, hiếu là hiếu với dân. Tư

tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị
của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế
truyền thống trước đó.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước,
phát triển đất nước, làm cho đất nước sánh vai với cường quốc năm châu. Nước là
của dân, dân là chủ của đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của
nhân dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Hiếu với dân là thương dân, là phục vụ hết lòng để được dân tin yêu, quý
mến. Hiếu với dân là phải biết phấn đấu hi sinh, đem lại độc lập tự do, dân chủ,
8


hạnh phúc cho dân, sống cuộc sống của dân, nói tiếng nói của dân. Phải biết tin vào
dân, dựa và dân, gần gũi, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của dân ngày càng tốt hơn.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân phải hết sức tránh [12, tr.55]. Hiếu với dân còn có nghĩa là cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân, chứ không phải là quan cách
mạng, không phải để đè đầu cưỡi cổ nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với
nhân dân, và hơn nữa, phải tận trung với nước, tận hiếu với dân. Trung với nước,
hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải
nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí,
làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước. Phải làm
cho phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng[13, tr. 249].
Hai là, gần dân, quan hệ mật thiết với nhân dân và yêu thương con người
Với Hồ Chí Minh, “tư tưởng thân dân” của dân tộc được Người tiếp thu triệt
để, Người yêu cầu người cán bộ cách mạng cần có tinh thần hy sinh, phục vụ nhân
dân, tin tưởng và yêu mến nhân dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương

đồng bào, yêu nhân loại. Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con
người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan
hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội. Tình yêu thương con người thể
hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình
thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con
người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn
đấu cho đạt được mục tiêu ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành [12,
tr.161].
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể

9


cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Người nhắc: Đối
với người phải: Với từng người thì khoan thứ, Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày
vẽ cho người, Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người [10, tr.260].
Đối với người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải
sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có
nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được [20, tr.563]. Yêu thương con
người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Nó hoàn toàn xa lạ với
thái độ dĩ hoà vi quý, bao che khuyết điểm cho nhau. Nó lại càng xa lạ với thái độ
yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh, là nguy cơ đưa đến những tổn thất cho Đảng,
cho cách mạng. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau
sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con
người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh đề cập tới phẩm chất này trong xuyên suốt quá trình hoạt động

cách mạng của mình. Người đã kế thừa những giá trị tốt đẹp của đạo đức phương
Đông và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và
đưa vào những nội dung mới, với mục tiêu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm,
liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
, Người nói:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời,
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người [17, tr.631]
Mỗi chữ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải
thích rất rõ, rất cụ thể và dễ hiểu đối với mọi người.

10


Theo Hồ Chí Minh:
Cần tức là: Siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai…Cần là luôn luôn cố
gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời [13, tr.632 – tr.633], việc gì, dù khó khăn
đến mấy cũng cũng phải cố gắng làm được. Cần là làm việc siêng năng trong lao
động và sản xuất. Đức tính Cần chỉ có được khi mọi người ý thức rõ và thực hành
thường xuyên. Để thực hành nội dung Cần thì phải siêng năng, từ siêng học, siêng
nghĩ đến siêng làm, siêng hoạt động, siêng học hỏi đồng chí, đồng nghiệp, học hỏi
nhân dân. Phạm vi thực hành Cần từ mỗi cá nhân, gia đình, cơ quan, cả nước.
Người nhấn mạnh Người siêng năng thì mau tiến bộ… Cả nước siêng năng thì nước
mạnh giàu [13, tr.633]. Muốn thực hiện chữ Cần có hiệu quả thì làm việc phải có kế
hoạch, tính toán trước sau, phân công rõ ràng, sử dụng nhân lực, nguồn lực hợp lý,
khoa học. Làm việc phải có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,

không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Đối lập với đức Cần là tính lười
biếng. Trong tập thể, cơ quan, người lười biếng làm cả dây chuyền công việc chậm
lại, thậm chí thất bại. Lười biếng là kẻ địch của chữ Cần. Vì vậy, lười biếng cũng
là kẻ địch của dân tộc[13,tr.633].
Kiệm là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương,
hình thức...” [13, tr.636], là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền
của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; không liên
hoan, chè chén, nhưng không bủn xỉn, Người nói: Khi không nên tiêu xài thì một
đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho
Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới đúng
là Kiệm[13,tr.633]. Kiệm trong tư tưởng của Người còn đồng nghĩa với năng suất
lao động cao
Người căn dặn cần và kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con
người. Có cần mà không kiệm thì không lại hoàn không, làm bao nhiêu, tiêu bấy
nhiêu. Còn có tiết kiệm mà không cần, thì không phát triển được.
Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ
hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ [13, tr.252]. Theo
Hồ Chí Minh, ngày xưa, người làm quan không đục khoét dân, thì đó là liêm. Ngày
nay, trong xã hội mới, chữ liêm thì có nghĩa rộng hơn. Người liêm là trong sạch,
11


không tham lam, luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không tham ô, chiếm
đoạt của công làm của tư, sách nhiễu nhân dân. Vì vậy Người căn dặn cán bộ cần
phải liêm, lấy chữ liêm làm đầu để làm kiểu mẫu cho dân chúng noi. Bên cạnh đó,
Người cũng chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm của người cán bộ như cậy quyền
thế, đục khoét của dân, ăn trộm của công làm của.
Theo Hồ Chí Minh: Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như
chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham

lam... [13, tr635]. Vì Người cho rằng một dân tộc giàu mạnh thật sự là phải biết cần,
kiệm, liêm, đó là sức mạnh vật chất và tinh thần nội tại của một đất nước.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, thẳng thắn, tức là tà [13, tr.643]. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với
người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, phải thường xuyên tự sửa
mình để tăng điều tốt, giảm điều xấu. Việc gì có lợi cho dân, cho nước thì dù khó
khăn hay nhỏ mấy cũng làm bằng được, việc gì có hại cho đất nước, cho nhân dân
thì phải hết sức tránh.
Hồ Chí

Minh khẳng định

rằng:

Cần, Kiệm,

Liêm là

gốc rễ

của Chính[13,tr.642], Người còn ví hình ảnh như một cây cần phải có gốc, rễ, cần
phải có cành, lá, hoa quả mới hoàn toàn. Vì Có cần mới kiệm. Có cần, kiệm mới liêm.
Có cần, kiệm, liêm mới chính [13, tr.209]. Con người thì không phải hoàn toàn như
vậy, nhưng đối với Người, người cán bộ cách mạng cần phải có bốn đức tính đó. Bởi
người cán bộ cách mạng thì phải làm gương trước, tức là làm cái cho người ta soi
sáng để sửa, do vậy cán bộ cách mạng phải “Chính” trước mới giúp được người
thành “Chính”. Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính là điều vô
cùng cần thiết trong sự nghiệp hoạt đông cách mạng của mình.

Chí công vô tư, người cán bộ cần phải: Đặt lợi ích của Đảng và của nhân
dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc[17,tr.291]. Gặp thành công hay thất bại cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ,
lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không đòi hỏi về mặt hưởng thụ, không kiêu
ngạo, không kèn cựa, đùng đẩy công việc. Đối lập với “Chí công vô tư” là “di công
12


vi tư”, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, đó là một thứ vi trùng độc hại là gốc rễ đẻ
ra hàng trăm thứ bệnh và những thói hư tật xấu mà người cán bộ cần phải tiêu diệt
nó.
Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là chỉ biết đến mình,
muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại
xâm, nó là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu
diệt nó[17,tr.300]. Vì thế Người nhắc nhở chúng ta: Một dân tộc, một đảng và mỗi
con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân [20, tr.558 – 559].
Và theo Hồ Chí Minh, Chí công vô tư là đức tính đạo đức tốt, tính tốt ấy có
thể gồm 5 điều: nhân, tín, trí, dũng, liêm. Vì vậy, người cán bộ cần phải bồi dưỡng
phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người cách mạng vững vàng
qua trước mọi thử thách: Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục [14, tr.184].
Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
chủ nghĩa cộng sản. Nó bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân. Theo Hồ Chí
Minh, đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Vì cách mạng Việt Nam là một bộ phận

của cách mạng thế giới, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam điều góp phần vào
thắng lợi chung của phong trào cách mạng thế giới. Do đó Người khẳng định: Bốn
phương vô sản đều là anh em [18, tr.195], nên yêu đội ngũ cán bộ, công chức phải
nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, nhất là đối với Lào và Cam – Pu – Chia anh em,
phải thấu suốt quan điểm Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình [15,
tr.60]. Theo Người tinh thần quốc tế trong sáng là đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì
hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội; Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc... Sự
đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự
13


đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích
quốc tế [4].
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
Người đã nhấn mạnh: Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít
với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hoà
bình thế giới [15, tr.228]. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần
quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ
nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy
có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân
tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa
đến tình trạng đối đầu đối địch.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn
từ tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho
con người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và
xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc

trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt nam và nhân dân
thế giới.
Vì vậy Người nhấn mạnh người cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người coi đạo đức của người
cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của song suối; Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân [13, tr.252-253].
1.2.2. Người cán bộ cách mạng phải có tài năng để tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên, đào tạo họ trở thành những cán bộ có nhân cách phát triển toàn
diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Những phẩm chất nhân cách đó của người cán bộ, đảng viên được Người khái quát
ngắn gọn trong hai chữ “đức” và “tài”.

14


Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải có cả mặt đức và tài, năng lực và
phẩm chất, không thể thiếu mặt nào, cũng không được coi nhẹ mặt nào. Người luôn
nhấn mạnh đến năng lực lãnh đạo và thực hành công việc của người cán bộ. Theo
Hồ Chí Minh, cán bộ tốt nhất thiết phải là người có đủ phẩm chất và năng lực, mà
phẩm chất và năng lực đó phải được biểu hiện qua hành động, việc làm cụ thể và
phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc thu hút
nhân tài phục vụ cho đất nước. Ngay trong những ngày đầu cách mạng còn non trẻ,
Người đã có bài viết để tập hợp người tài đức cho cách mạng Việt Nam:
Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài.
Trong số hai mươi triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có
đức.… nay muốn sửa đổi điều đó, trọng dụng những kẻ hiền năng, các

địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm
được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính
phủ biết.
Báo cáo phải nói rõ: tên, tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện
vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa
phương phải báo cáo ngay cho đủ [12, tr.451].
Tài của người cán bộ là trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt
nhất, có hiệu quả nhất. Người cán bộ có tài là người có trình độ năng lực, giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm, có nhiều sáng kiến, khả năng nhận thức
đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm chủ được tri thức
khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực. Hồ Chí Minh yêu cầu
người cán bộ cách mạng không những phải thường xuyên nâng cao trình độ mà phải
biết tự rèn luyện, học hỏi đúc kết từ thực tiễn hoạt động cách mạng, phải Học, học
nữa, học mãi như Lênin đã dạy. Người đã khẳng định trình độ chuyên môn, năng
lực chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những
điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực [13, tr.244].
Tài là năng lực chuyên môn bảo đảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao; là tầm tư tưởng, trí tuệ của người cán bộ, đảng viên trong việc tiến hành công
việc. Tài phải được thể hiện ở trình độ, năng lực tư duy phát triển; có tư duy biện
chứng, lôgíc, có tầm hiểu biết sâu rộng và phương pháp làm việc khoa học, hiệu

15


quả, đủ sức cắt nghĩa và tìm được những câu trả lời thuyết phục trước những biến
động phức tạp và mau lẹ của thực tiễn đặt ra. Và tài năng của người cán bộ là phải
có năng lực tổ chức thực tiễn, tiếp nhận tri thức mới một cách mau lẹ.
Hơn thế nữa, thực tiễn cuộc sống đã chứng minh rằng tài năng của con người
có được không phải là bẩm sinh hay thiên phú mà phần nhiều là do sự cần mẫn,
nhọc nhằn trong học tập, rèn luyện và tranh đấu mà có được. Ý chí và sự khổ luyện

đó chính là những phẩm chất đạo đức cơ bản để gầy dựng tài năng cũng như giữ gìn
và phát triển nó. Có thể nói, đức có rộng thì tài mới cao, tài mà hèn là do đức mọn.
Tài năng của người cán bộ được phát huy cao độ chính là đem lại lợi ích cho
dân, cho nước. Bất tài, không có khả năng đem lại lợi ích cho con người, nhất là
những người lao động chân chính, người lao khổ; không cống hiến được gì cho xã
hội thì không thể coi là người có tài được. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Phải có
chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài [17, tr.492].
Trong hoạt động thực tiễn, tài còn là khả năng hoạt động, là kỹ năng công tác, năng
lực chuyên môn và làm tốt các công việc được giao. Dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh
vực nào thì người cán bộ có tài phải là người có sự hiểu biết nhận thức thấu đáo và
thực hành thành thạo các công việc, các vấn đề mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ:
Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị
mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung [18, tr.313].
Người căn dặn: không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải
khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ.
Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người [13, tr.274]. Vì vậy, cần phải
biết phát huy đúng tài năng của người cán bộ thì công việc sẽ chóng thành công.
Nhưng cốt yếu của vấn đề là cái tài đó phải được sử dụng vì đức, phục vụ
cho đức nếu không nó trở nên mất phương hướng, thành vô dụng và thậm chí là gây
nguy hại cho con người và sự tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, ở Hồ Chí Minh, đức và
tài đều được Người đề cao, quý trọng nhưng quan trọng và cần thiết là chúng phải
gắn chặt với nhau, hỗ trợ nhau.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức, tài năng của người cán bộ
cách mạng cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thực

16


tiễn.Vì vậy, trong Di chúc trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây

dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết [16, tr.498]. Nó càng có ý nghĩa
trong sự nghiệp đổi mới mà trước hết là đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong giai
đoạn hiện nay. Học tập và làm theo lời Người dạy không những là nhu cầu thiết
thân cho mỗi cá nhân đang tồn tại mà còn là những định hướng vĩ mô của Đảng và
Nhà nước.
1.3.

PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO VÀ PHONG CÁCH CÔNG TÁC CỦA
NGƯỜI CÁN BỘ CÁCH MẠNG
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ

Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng và sửa đổi cách lãnh đạo cũng
như lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Vì đây là nhân tố quan trọng góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng đề ra. Tại Đại hội VI của Đảng, đã xác định
bốn mặt cần đổi mới: tư duy, tổ chức, cán bộ, phong cách lãnh đạo và phong cách
công tác. Phải đổi mới đồng bộ cả bốn mặt này, vì phương pháp lãnh đạo và phong
cách công tác có ý nghĩa quan trọng, trực tiếp liên quan đến việc đưa đường lối đổi
mới vào cuộc sống.
Nói về phương pháp, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ nêu: Phương pháp là toàn bộ
những cách thức với tính chất là một hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy
luật tồn tại và vận động của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định
hướng và điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con
người, nhằm tác động vào đối tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định [7,
tr.21].
Với Hồ Chí Minh cũng vậy, đó là phương pháp của một vị lãnh tụ đã sử dụng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam lúc sinh thời, và đã trở thành một cái riêng của Hồ Chí
Minh. Người dùng phương pháp của mình để lãnh đạo Đảng ta, nhân dân ta thực hiện
lý tưởng cách mạng cao đẹp nhằm giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột, chăm
lo cuộc sống của dân, phát huy khả năng sáng tạo của dân, tập hợp tổ chức lực lượng


17


của dân thành sức mạnh để kiến thiết, xây dựng chế độ mới của dân, do dân, vì dân [2,
tr.118].
Phương pháp lãnh đạo của Đảng là những cách thức, biện pháp gắn liền với
những quan điểm và nguyên tắc xác định, được các tổ chức Đảng, các cấp uỷ Đảng
lựa chọn và sử dụng với tính chất chỉ đường, hướng dẫn cho những đối tượng mà
Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Phong cách công tác (hay là tác phong) là phong cách làm việc của cán bộ
lãnh đạo, là tập hợp những phương pháp, biện pháp, cách thức riêng, tiêu biểu và ổn
định mà người lãnh đạo, quản lý sử dụng hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ của
mình. Hay nói dễ hiểu hơn là lề lối làm việc, cách thức, phong thái của một cán bộ,
đảng viên, được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ được
giao. Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác là những bộ phận của phương
pháp cách mạng, phương pháp lãnh đạo là nội dung chủ yếu nhất trong phương
pháp cách mạng. Vì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là đúng đắn khi có
một phương thức lãnh đạo đúng đắn khoa học. Nhưng cũng không xem nhẹ tác
phong làm việc của người cán bộ, vì người cán bộ có cách lãnh đạo đúng đắn khoa
học nhưng phải có lề lối làm việc mẫu mực để tác động, điều chỉnh, làm cho cấp
dưới và người dân noi theo. Phương pháp, tác phong công tác trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ của người cán giữ vai trò quan trọng. Nếu như người cán bộ, đảng
viên có tri thức, năng lực, nhiệt tình nhưng lại thiếu đi phương pháp, tác phong làm
việc thì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Thậm chí, do phương pháp, tác phong công
tác thiếu khoa học, thiếu dân chủ, xa rời thực tế, quan liêu của cán bộ có thể gây ra
tổn thất cho Đảng và Nhà nước.
Là một lãnh tụ sáng lập và lãnh đạo Đảng, Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan
trọng của việc xây dựng phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và lề lối làm
việc của cán bộ, đảng viên. Vì chỉ mới 2 năm sau ngày nước nhà giành được độc

lập, trong một bộ phận những ông quan cách mạng đã xuất hiện. Họ chính là những
người đã biến những nghị quyết và chỉ thị Đảng thành những lời nói suông, không
phải phục vụ nhân dân mà trở thành cha mẹ dân, làm hại đến lòng tin cậy của nhân dân
đối với Đảng.

18


Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, một tác phẩm để xây
dựng và sửa chữa phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác cho một đội ngũ
cán bộ, đảng viên của cuộc cách mạng. Trong việc ra quyết định, chính sách trong
lãnh đạo, Người yêu cầu: Người lãnh đạo cách mạng phải khéo sửa đổi khi có
những sai lầm trong tư tưởng, lý luận, kế hoạch và nghị quyết của mình. Đồng thời
khi giai đoạn này phát triển lên giai đoạn khác thì sự hiểu biết của người lãnh đạo
và chiến sĩ cách mạng cũng phải tiến theo. Nghĩa là đề ra nhiệm vụ mới và phương
pháp mới hợp với tình hình mới của cách mạng [14, tr254 – 255], có như vậy công
tác lãnh đạo mới thành công, mới đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Điều
quan trọng của phương pháp lãnh đạo là phải làm cho nghị quyết, đường lối, chính
sách của Đảng thấm vào nhân dân, đi vào cuộc sống, biến nghị quyết của Đảng
thành hành động của quần chúng, tạo ra đột phá. Vì vậy, không chỉ có nghị quyết
của Đảng mà điều quan trọng là cần phải có năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ,
phải xác định đường lối, tổ chức, lựa chọn và bố trí cán bộ cho phù hợp với trình độ
quản lý. Phải tốt khâu vận động, tuyên truyền, tổ chức cho quần chúng thực hiện và
đồng thời phải kiểm soát việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng… Để có
cách lãnh đạo tốt, Người chỉ rất cụ thể cách thức và nội dung công việc của người cán
bộ lãnh đạo, Người nêu:
Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng vì dân chúng
chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân
chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được [13, tr.285 - 286].
Người cán bộ lãnh đạo trước tiên theo Hồ Chí Minh cần phải có một quyết định
thật đúng đắn, nhưng trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào, người lãnh đạo không
được quan liêu, phải tự mình sáng tạo ra khách quan, phải dựa vào thực tế, nắm chắc
hoàn cảnh để xem quyết định của mình có hợp lý không. Tiếp đó, cần phải áp dụng kiến
thức của mình trên cơ sở thông qua tri thức của tập thể và quần chúng nhân dân vì Người

19


đã khẳng định: Một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu
cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của vấn đề, không thể trông
thấy và xem xét tất cả mọi mặt của mọi vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người [13,
tr.504]. Cho nên cần phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ năng lực lãnh đạo, trên cơ
sở thông qua việc lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp với yêu cầu, nội dung, tính chất
của nhiệm vụ, của công việc, tức là: Người lãnh đạo phải sâu sát, lắng nghe ý kiến
của cơ sở, của quần chúng, chú trọng nghiên cứu những sáng tạo của địa phương,
đơn vị… hết sức tránh việc tuỳ tiện, phiến diện, chủ quan trong việc định ra những
chủ trương lãnh đạo: vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm
cả hai bên lại [13, tr.286].
Trong việc bố trí, giao nhiệm vụ cho cán bộ, Hồ Chí Minh căn dặn phải
hướng dẫn rõ ràng việc cần làm, vạch ra những nội dung chính và những khó khăn
có thể xảy ra, rồi cho họ làm, khuyên họ cứ làm. Lãnh đạo cấp trên không nên
nhúng tay vào việc của cấp dưới, vì như vậy sẽ tạo ra những cái máy, việc gì cũng
chờ mệnh lệnh, sinh ra thụ động, ỷ lại, không phát huy sáng kiến và kết quả là thành
chứng bao biện, công việc thì không xong. Và điều quan trọng là, trước khi giao
công tác cũng bàn kỹ với cán bộ, trao đúng người, đúng việc,chớ miễn cưỡng trao

việc đó cho họ khi họ không muốn làm, khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin tưởng
họ. Cần có một sự chỉ đạo đúng đắn, rõ ràng. Liên quan tới vấn đề này, Người chỉ
rõ: Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế
Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò
đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng [13, tr.281].
Thứ hai là, người cán bộ phải tổ chức, sắp xếp công việc cho đúng. Người cán bộ
lãnh đạo dù làm nhiệt tình đến đâu nếu không được lực lượng cho công việc thì không
thể đạt kết quả tốt, vì vậy cần phải tổ chức lực lượng. Nếu là người có tài, đủ tiêu chuẩn
lại phù hợp với nhu cầu của cách mạng thì phải dùng, phải tập hợp họ lại để phục vụ cho
sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định người cán bộ lãnh đạo chính là hạt nhân
để tập hợp, đoàn kết lực lượng tạo thành một sức mạnh cho cách mạng. Và Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: Bất kỳ công việc gì, cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một
là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo

20


với quần chúng [13, tr.288].
Thứ ba, Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có đội ngũ cán bộ lãnh đạo tốt cần
phải tổ chức thực hành kiểm tra. Trước tiên, Người cho rằng người cán bộ cần phải
loại bỏ chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân như là thứ giặc nội xâm, Chủ nghĩa
cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan,
tham ô,, lãng phí…” [17, tr.300], nó là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang
gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng việc của ta
[14, tr.490]. Người yêu cầu phải chống giặc này như giặc ngoại xâm vì chủ nghĩa cá
nhân, tham ô, lãng phí làm tha hoá mất bao nhiêu cán bộ, đảng viên của ta. Nó làm
cho người cán bộ, đảng viên tha hóa về phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo,
làm mất uy tín của Đảng, mất dần sự tin tưởng của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng, mà trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cơ quan, tổ chức cơ sở. Người căn dặn:
Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị

quyết có được thi hành hay không, thi hành có đúng không; muốn biết ai
ra sức làm; ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Kiểm
soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau
khuyết điểm nhất định sẽ bớt đi [13, tr.287].
Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng phương pháp lãnh đạo cần phải gắn với công tác
kiểm tra, lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không có lãnh đạo. Muốn kiểm tra có
hiệu quả theo Người cần phải coi trọng hai vấn đề: Một là, việc kiểm soát phải có hệ
thống, phải thường làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là những người rất có uy
tín [13, tr.287]. Công tác kiểm tra có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh theo
chiều hướng tốt cho việc lãnh đạo của cán bộ, công tác kiểm tra phải tiến hành ở
mọi cấp, từ trung ương đến cơ sở, phải có một hệ thống cơ quan chuyên trách, việc
kiểm tra phải tiến hành thường xuyên và người được chọn làm cán bộ kiểm tra phải
có phẩm chất, năng lực tốt và có uy tín.

Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải kiểm tra phải theo hai cách:
Một cách là từ trên xuống.Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết
quả những công việc của cán bộ mình.

21


Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng là cán bộ kiểm
soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sữa chữa sự sai
lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên” [13,
tr.288].
Ngoài ra, trong quá trình lãnh đạo, người cán bộ cần phải gắn với việc tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn, một vấn đề cực kỳ quan trọng của phương pháp lãnh đạo.
Muốn tổng kết thực tiễn có kết quả, yêu cầu người lãnh đạo phải liên hệ mật thiết
với quần chúng, gắn với thực tiễn, không mắc bệnh quan liêu, bàn giấy cần phải có
thái độ cầu thị, học hỏi quần chúng nhân dân. Phương pháp lãnh đạo đúng theo Hồ

Chí Minh là phải liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân,, không được xa rời họ,
vì thắng lợi của cuộc cách mạng phụ thuộc vào mối quan hệ với dân chúng, quan hệ
đó cần chặt chẽ đến mức theo Người không thể giảm bớt mối liên hệ này một giây,
một phút nào, điều đó có nghĩa là không thể phân biệt một cách rạch ròi giữa một vị
lãnh đạo với tầng lớp nhân dân, coi dân chúng là người chịu sự lãnh đạo đồng thời
là lãnh đạo và đó là sự liên hợp lãnh đạo với quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, người
lãnh đạo phải tìm cho được trong đội ngũ cán bộ một số người hăng hái, trung kiên
cho sự lãnh đạo. Người lãnh đạo phải dùng những người hăng hái trong quần chúng
làm trung kiên cho sự lãnh đạo bởi vì những người cán bộ hăng hái có thể điều
chỉnh được phần đông hạng vừa, hạng kém, Người nói: Bất kỳ nơi nào có quần
chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém.
Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa nhiều hơn hết, hạng hăng hái và
hạng kém đều ít hơn [13,tr.289]. Đó là vấn đề trong lãnh đạo: ắt phải từ trong quần
chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng [13, tr.290]. Nghĩa là, gom góp các ý kiến,
kinh nghiệm của quần chúng, phải học học nhân dân để làm giàu tri thức kinh
nghiệm của mình, đồng thời đưa ra chính sách đúng đắn hơn để phục vụ lợi ích cho
nhân dân. Đem nó tuyên truyền giải thích cho quần chúng và làm cho nó trở thành ý
kiến của quần chúng, làm cho quần chúng hiểu và thực hành ý kiến đó, trong lúc
quần chúng thực hành ý kiến, ta xem xét lại coi ý kiến đó có đúng hay không, nếu
có, người cán bộ lãnh đạo phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm,
tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Theo Hồ Chí
Minh, đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt, vì chỉ khi những người liên hệ mật thiết với
22


dân chúng, hiểu biết, chú trọng đến lợi ích của dân chúng thì dân chúng mới tin cậy
và thừa nhận đó là người lãnh đạo của họ, Người viết: Chẳng những phải lãnh đạo
quần chúng, mà lại phải học hỏi quần chúng... Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình,
người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm
cho kinh nghiệm của mình [13,tr.290]. Cách lãnh đạo đúng đó là học hỏi quần

chúng nhưng không được theo đuôi quần chúng.
Có thể hiểu tổng kết thực tiễn là rút ra những mặt làm được, coi đó là điều
cần học hỏi làm theo, đồng thời tổng kết nhằm hoàn chỉnh đường lối chính sách và
đưa ra chính sách mới ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của cách mạng đặt ra. Có
như vậy thì phương pháp lãnh đạo của người cán bộ mới ngày cang hoàn thiện, đáp
ứng yêu cầu của cuộc cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện. Bên cạnh
đó, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, đảng
viên.
Nói đến phong cách của Hồ Chí Minh đó là:
Bao gồm một hệ thống lề lối, cung cách, cách thức, phong thái,
phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp trong tất cả các hoạt động,
công tác, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt.v.v.. Đó là phong cách rất
mẫu mực của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên, nó gắn bó mật
thiết với tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng [22].
Và khi nghiên cứu đến phong cách Hồ Chí Minh, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ chỉ rõ,
phong cách Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của: Phong cách tư duy, phong cách làm việc,
phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt. Năm mặt chủ yếu này
tạo thành hệ thống phong cách Hồ Chí Minh.
Trong đó, mỗi người điều có phong cách làm việc của riêng mình và ở mỗi
cán bộ, đảng viên thì đó là phong cách công tác, tác phong làm việc, phong cách
lãnh đạo. Phong cách công tác là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng, là
sự thể hiện bản chất và tính cách, của con người. Theo Hồ Chí Minh tác phong hay
lề lối làm việc của người cán bộ cách mạng chính sự thể hiện những phương pháp,
biện pháp, các thức mà người cán bộ sử dụng để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Phương pháp, cách thức làm việc là một bộ phận cấu thành phong cách làm việc của
người cán bộ. Phong cách công tác của người cán bộ giữ vai trò quan trọng trong tất
23



×