Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

GIÁO dục đạo đức CHO THANH NIÊN TRONG điều KIỆN PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 102 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN TRONG
ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH
AN GIANG HIỆN NAY

Giáo Viên Hướng Dẫn:
TS. Đinh Ngọc Quyên

Sinh viên thực hiện:
Trương Thành Trung
MSSV: 6075735
Lớp: SP. GDCD – 02 – K33
Mã lớp: 0768A2

Tháng 05/2011

-1-


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài...................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..................................................................................... 2


4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ............................................................................... 3
6. Kết cấu luận văn ..................................................................................................... 3
B. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 4
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG. ................ 4
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức .......................................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về đạo đức và đạo đức mới ....................................................... 4
1.1.1.1.Khái niệm đạo đức................................................................................ 4
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới........................................................................ 6
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức ......................................... 8
1.1.2.1. Nguồn gốc của đạo đức ....................................................................... 8
1.1.2.2. Bản chất và chức năng của đạo đức ................................................... 11
1.1.3. Vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội của người Việt Nam hiện nay.... 16
1.2. Sự cần thiết của giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong sự nghiệp
cách mạng ............................................................................................................ 18
1.2.1. Vị thế, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng......................... 18
1.2.2.Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .................................. 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN TRONG ĐIỀU
KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY............................................................. 27
2.1. Khái quát về tỉnh An Giang trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ............................................................... 27
2.1.1. Khái quát về tỉnh An Giang...................................................................... 27
2.1.1.1. Vị trí địa lý và Điều kiện tự nhiên...................................................... 27
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội..................................................................... 28
2.1.2. Những chủ trương định hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa tỉnh An Giang ......................................................................... 31
-2-


2.1.2.1. Khái niệm kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa........................................................................................................ 31
2.1.2.2. Những chủ trương định hướng phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh An Giang........................................................ 34
2.2. Thực trạng tình hình đạo đức của thanh niên trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh An Giang .................... 38
2.2.1. Những ưu điểm và hạn chế của đạo đức thanh niên.................................. 39
2.2.1.1. Những ưu điểm của đạo đức thanh niên............................................. 39
2.2.1.2. Những hạn chế của đạo đức thanh niên.............................................. 48
2.2.2. Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của đạo đức thanh niên ................ 51
2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc giáo dục đạo đức cho thanh niên trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại tỉnh
An Giang hiện nay............................................................................................... 55
2.3.1. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc trong mỗi thanh niên.55
2.3.2. Giáo dục cho thanh niên biết sống có lý tưởng, ước mơ và hoài bão lớn
lao...................................................................................................................... 56
2.3.3. Giáo dục tình bạn và tình yêu cho thanh niên ........................................... 58
2.3.4. Giáo dục đạo đức mới trong học tập cho thanh niên ................................. 60
2.3.5. Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản cho thanh niên ............................. 61
CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH AN
GIANG HIỆN NAY ................................................................................................ 63
3.1. Một số phương hướng nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh An
Giang hiện nay..................................................................................................... 63

3.1.1. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh về giáo dục đạo đức thanh
niên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .. 63
3.1.2. Kết hợp giáo dục nội dung những giá trị truyền thống của dân tộc với giá
trị đạo đức, tinh hoa văn hóa nhân loại trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa .................................................................. 66
3.1.3.Gắn bó chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức cho thanh niên với quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hạn chế sự tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường đến đạo đức thanh niên ............................................. 69
3.2. Một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh An Giang
hiện nay................................................................................................................ 70
-3-


3.2.1. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo
dục đạo đức cho thanh niên................................................................................ 70
3.2.2. Giáo dục đạo đức cho thanh niên bằng cách nêu gương tốt, việc tốt ......... 72
3.2.3. Kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên... 74
3.2.4. Nâng cao vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của thanh niên gắn với
các phong trào hoạt động do Đoàn và địa phương phát động, tổ chức ................ 76
3.2.5. Xây dựng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh An Giang vững
mạnh, thực sự là người bạn tin cậy của thanh niên, là trung tâm đoàn kết tập
hợp và giáo dục thanh niên. ............................................................................... 78
C. PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 81
PHỤ LỤC.................................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 97

-4-



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ hàng trăm năm nay, các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học và những
người cộng sản chân chính đều luôn quan tâm đến thế hệ trẻ, đánh giá cao vai trò, vị
trí của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng và đã chú ý rất nhiều đến nhiệm vụ giáo
dục, coi đó là biện pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể
sáng tạo có ý thức của xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – lênin và vận dụng sáng tạo trong điều kiện cách mạng
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến vấn đề thanh niên, Người xem
thanh niên là “người chủ tương lai của nước nhà”, là rường cột của đất nước. Trong
thư gửi các bạn thanh niên ngày 17 tháng 8 năm 1947 Bác viết: “Người ta thường
nói: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Do đó theo Người cần quan
tâm, bồi dưỡng, giáo dục và đào tạo thanh niên để các thế hệ trẻ thực sự là đội quân
chủ lực của cách mạng. Trong Di Chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dành cả
một dung lượng viết về thanh niên với niềm tin và tấm lòng yêu thương vô hạn của vị
cha già dân tộc. Người căn dặn Đảng ta cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên, đào tạo họ thành những người xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”
vừa “chuyên” và đó là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong điều kiện mới của cách mạng là phát triển kinh thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta cũng xác định “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất
nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không,
cách mạng việt nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần
lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh
niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng”. Như vậy có thể thấy thanh niên là lực lượng
quan trọng, là đội hậu bị, là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng và
của dân tộc Việt Nam. Việc giáo dục thanh niên trở thành những con người mới xã

-5-


hội chủ nghĩa không chỉ có tài, trí mà còn có phẩm chất đạo đức tốt là việc hệ trọng
đối với cách mạng nước ta hiện nay.
An Giang là tỉnh có lực lượng thanh niên đông đảo, là quê hương giàu truyền
thống cách mạng, là nơi đã sinh ra cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người con ưu tú của
cách mạng Việt Nam, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nói chung và của nhân dân
nói riêng. Bên cạnh đó, trong cách mạng, nhân dân An Giang đã có nhiều đóng góp
quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình đổi mới đất nước từ nền sản xuất tập trung quan liêu
bao bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế hiện nay, nối tiếp truyền thống cha anh đi trước, thanh niên An Giang đã có
nhiều đóng góp quan trọng đến sự phát triển của đất nước nói chung và tỉnh nhà nói
riêng. Tuy nhiên, dưới sự tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường, thanh niên An
Giang cũng đã bộc lộ không ít hạn chế và khuyết điểm, trong đó đáng quan ngại là sự
xuống cấp về mặt đạo đức. Vì thế việc giáo dục đạo đức cho thanh niên An Giang
hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách. Để tìm hiểu về vấn đề này và tìm ra một số
phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh An Giang trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, cũng như là
góp phần sức nhỏ cho sự nghiệp phát triển của tỉnh nhà nên tôi đã chọn đề tài “ Giáo
dục đạo đức cho thanh niên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh An Giang hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
của mình.

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu trực tiếp những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vai trò của đạo đức thanh niên trong xã
hội. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích thực trạng vấn đề đạo đức thanh niên ở tỉnh An
Giang trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ
đó đề xuất ra một số phương hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh

niên của tỉnh trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và
quan điểm về giáo dục đạo đức thanh niên của Đảng, đề tài góp phần làm sáng tỏ sự
-6-


cần thiết của giáo dục đạo đức và đề ra phương hướng, giải pháp nhằm giáo dục đạo
đức cho thanh niên ở tỉnh An Giang trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Phân tích rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Phân tích rõ thực trạng đạo đức thanh niên ở tỉnh An Giang trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đề ra một số
phương hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên trong tỉnh.

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu như: phân tích và tổng hợp; so sánh, đối chiếu, logic và lịch
sử; gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương 7 tiết.

-7-


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT
CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN TRONG SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

1.1.1. Khái niệm về đạo đức và đạo đức mới
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức học đã
xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) – lề thói, (moralis
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn từ thường xem như đồng nghĩa với
“đạo đức” có gốc ở chữ Hy Lạp là Ethicos nghĩa là lề thói; tập tục. Vậy, khi ta nói đến
đạo đức, tức là nói đến những lề thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa
người và người trong sự giao tiếp với nhau hằng ngày. Sau này người ta thường phân
biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất
hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức của họ. Đạo là một trong
những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con
đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của
tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó
được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức

tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, đạo là nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như
vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư
tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát (469 – 399 tr. CN) là người đầu tiên đặt
-8-


nền móng cho khoa học đạo đức học. Còn Arixtốt (384 – 322 tr.CN) đã viết bộ sách
Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con người.
Nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông
nói: chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con
người có đức hạnh.
Trong lịch sử đạo đức học, Êpiquya (341 – 271 tr.CN) là người đầu tiên đưa
phạm trù Lẽ sống vào đạo đức học và là một trong những người có công luận giải về
sự tự do của con người.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh đánh giá và cách ứng
xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh truyền thống và sức mạnh của dư luận xã
hội.
Trong định nghĩa trên có ba điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là môt hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như các quan điểm
triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng.
Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người và các quan
điểm này thay đổi theo cơ sở đẻ ra nó.
Thứ hai, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo nhiều phương thức điều chỉnh hành vi: phong tục, tập quán, tôn
giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn

phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác,
vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, đạo đức con
người cũng đều được đánh giá như vậy và những chuẩn mực, qui tắc đạo đức nhất
định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận; đồng thời sự
điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa
chọn của con người.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị. Đạo đức là một hiện tượng xã hội,
mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Các hiện tượng đạo đức thường
bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân,
giữa các nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội
-9-


dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự
phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì
hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới
Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội và ý thức đạo
đức là một hình thái giá trị tinh thần cơ bản của con người và xã hội. Là một yếu tố
cốt lõi của tính cách con người, đạo đức đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống
của mỗi con người.
Trong lịch sử phát triển xã hội nói chung và lịch sử phát triển đạo đức nói riêng
đã tồn tại các kiểu đạo đức khác nhau phản ánh trình độ phát triển của xã hội qua các
thời đại khác nhau. Những hình thái sơ khai của quan hệ đạo đức và ý thức đạo đức
đã xuất hiện từ rất sớm ngay trong thời kỳ công xã nguyên thủy, tiếp đến là sự ra đời,
phát triển và thay thế lần lượt của các kiểu đạo đức chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư
bản chủ nghĩa. Quy luật phát triển này tương ứng với sự phát triển và thay thế nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội mà đạo đức là một bộ phận trong đó.
Trong các kiểu đạo đức của lịch sử thì đạo đức tư bản chủ nghĩa là sự phát triển
cao hơn so với các kiểu đạo đức trước đó. Tuy nhiên, khẳng định tiến bộ đạo đức, C.

Mác và Ph. Ăngghen đã dự báo cho sự xuất hiện nền đạo đức mới với tính cách là
biểu hiện về mặt đạo đức của xã hội mới – cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn ban đầu
là chủ nghĩa xã hội. Nền đạo đức này là sự tiếp tục và phát triển của nền đạo đức vô
sản đã xuất hiện trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, nền đạo đức mới chính là nền đạo đức cộng sản, nền đạo đức do giai
cấp công nhân tạo nên trong quá trình đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột của giai cấp tư
bản và xây dựng xã hội mới do giai cấp công nhân làm chủ mà đội tiên phong là Đảng
Cộng sản. Như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Nền đạo đức có nhiều nhân tố hứa hẹn, lâu
dài nhất, chắc chắn nhất là nền đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện
tại, tiêu biểu cho tương lai, tức là nền đạo đức vô sản” [4;138] và Lênin cũng viết:
“Đạo đức đó là những gì góp phần xóa bỏ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần
đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra
xã hội mới” và “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn
thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [21;tr.369, 372].

- 10 -


Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đạo đức nói
riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà lý luận lỗi
lạc, là tấm gương đạo đức sáng ngời soi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo Người, đạo đức cách mạng “không phải là
đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của
cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [24; tr.252].
Đạo đức đó được hình thành và phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển sự
nghiệp cách mạng của nhân dân. Đồng thời, nó kế thừa và phát triển những tinh hoa
đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân loại. Người xác định đạo đức cách mạng là
“tuyệt đối trung thành với nhân dân”, “ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu của
Đảng”, “quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch”, “đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết”, luôn hòa mình với quần chúng. Người viết: “Nói tóm lại, thì đạo đức cách

mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt
nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng …thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng
của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh
quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình
để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”
[24; tr.285].
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh khởi xướng và cùng Đảng ta
xây dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng và nhân dân ta, xét về tính giai cấp và
mục đích, nó thống nhất với đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản mà C. Mác và Ph.
Ăngghen là những người đặt nền mống và Lênin là người kế thừa, phát triển. Đạo đức
mới là đạo đức gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân nói riêng và của quần
chúng nhân dân lao động nói chung. Đó là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người,
mục đích cuối cùng là góp phần giải phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bất công xã hội.

- 11 -


Do vậy, đạo đức mới là đạo đức trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định
phẩm chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình.
Đạo đức mới ở Việt Nam là một hình thức đặc thù của đạo đức cộng sản chủ nghĩa,
tính đặc thù của nó được quy định bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam, truyền thống
đạo đức dân tộc và dấu ấn sắc thái Hồ Chí Minh.
Tóm lại, trên cơ sở những đặc trưng của đạo đức mới chúng ta có thể hiểu: Đạo
đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh

thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hòa các phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo
nên nền tảng nhân cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

1.1.2. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức
1.1.2.1. Nguồn gốc của đạo đức
 Các quan niệm trước Mác về nguồn gốc của đạo đức
Trước C. Mác những nhà triết học dù là duy tâm hay duy vật đều rơi vào quan
điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy được tính quy
định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và về đạo đức nói
riêng. Do vậy, họ tách rời đạo đức với cơ sở sản sinh và quy định bản chất, nội dung
của nó là kinh tế - xã hội. Đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức
với ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con
người, bên ngoài xã hội. Ở đây, các lý thuyết này đều không coi đạo đức phản ánh cơ
sở xã hội, hiện thực khách quan.
Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua là những hình
thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những chuẩn mực
đạo đức là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con người, mọi biểu hiện
đạo đức của con người đều là sự thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên và là tiêu
chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy không
mượn tới thần linh nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối”, về các lý giải
nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy.
Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực “tiên
thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi của Cantơ, là
- 12 -


những năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước

và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người.
Khác với các nhà duy tâm, những nhà duy vật trước Mác mà tiêu biểu là L.Phoiơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với
ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên
ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác-Uyn xã hội đã cho rằng những phẩm chất đạo
đức của con người là đồng nhất với bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo
đức về thực chất cũng chỉ là những năng lực đem lại từ bên ngoài con người, từ xã
hội.
 Quan niệm triết học Mác - Lênin về nguồn gốc của đạo đức
Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác, Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy
sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Theo Mác,
Ăngghen trong quá trình tồn tại và phát triển con người đã tạo nên mối “quan hệ song
trùng”. Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn
cuộc sống của mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên, con người phải tập hợp
cùng nhau, tức con người phải quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên bởi
quá trình này nằm ngoài khả năng của một cá thể đơn lẻ. Sự tác động lẫn nhau giữa
người và người là hệ quả của hoạt động vật chất và tinh thần mà cơ bản là hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của
xã hội loài người, Mác – Ănghen cho rằng: “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên
của toàn bộ đời sống loài người” [4;tr.137]; rằng: “người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại
trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật…”. Xuất phát từ con người thực tiễn
chứ không phải con người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến
quan niệm về phương thức sản xuất quy định đối với toàn bộ các hoạt động của con
người, xã hội loài người. Trong “lời tựa” của tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị
- kinh tế học” Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá
trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, không phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ” [3;tr.15]. Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá ra tất cả các
hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.

- 13 -


Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài
xã hội, bên ngoài các quan hệ con người, cũng không phải là sự biểu hiện của những
năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự phản ánh
tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội,
của cơ sở kinh tế. Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ.
Khi những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp thì những hệ thống
đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy “những quan điểm
đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình,
tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi” [4;tr.136].
Trong xã hội phân chia thành giai cấp, đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình
thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội
có giai cấp là một bước tiến của lịch sử nhân loại, làm cho đạo đức cũng phát triển
theo. Tuy vậy, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những cái ác, tham lam, ích kỷ,
lừa dối…mà loài người sau này phải đấu quyết liệt để chống lại nó. Trong xã hội có
đối kháng giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức phát triển nhưng chưa thật
nhân đạo, chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của đạo đức chỉ có thể đạt được khi con
người chiến thắng được tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện để có
thể “quên được tình trạng đối kháng giai cấp”. Điều kiện đó chỉ có thể có được trong
xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sự hoàn thiện đạo
đức được thực hiện từ đạo đức của giai cấp công nhân, một dạng đạo đức “có nhiều
nhân tố hứa hẹn” để dẫn tới một kiểu đạo đức “thật sự có tính nhân đạo”.
Như vậy, theo quan điểm Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu
phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình đấu tranh xã hội,
trong phân phối sản phẩm, để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, các quan hệ sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức,
ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng

nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản
phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người người, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng

- 14 -


có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng có đạo đức. Đạo đức
“đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
1.1.2.2. Bản chất và chức năng của đạo đức
 Bản chất của đạo đức
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được quyết
định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con
người. Nói cách khác, nội dung khách quan của các quan niệm, quan điểm, các
nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của trạng thái, một trình độ
phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh
tế.
Khẳng định tính quy luật của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho phép nhìn nhận
sự biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế. Phân tích mối quan hệ
giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong đó đạo đức là yếu tố của nó,
Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo
lộn ít nhiều, nhanh chóng” [3;tr.15].
Tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của Mác, Ăngghen đã luận chứng cho bản chất xã
hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo
đức.
Về tính thời đại, trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen đã chỉ ra mối
quan hệ của các thời đại đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức với tính cách
là biểu hiện về mặt đạo đức của các thời đại kinh tế. Phê phán quan điểm của Đuyrinh
về những chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng, thực chất và
xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan điểm đạo đức chẳng qua chỉ là

sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế mà thôi.
Về tính dân tộc, có thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc thù tính
thời đại của đạo đức trong các dân tộc khác nhau. Là một hình thái ý thức xã hội, ý
thức đạo đức vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái
ý thức xã hội khác như chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo…Tổng thể những
nhân tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau, làm thành cái mà ngày nay chúng
ta gọi là bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy được phản ánh vào đạo đức tạo nên tính độc đáo
của các quan niệm, các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc
đáo trong đời sống đạo đức của mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo ấy về mặt dân
- 15 -


tộc cũng như sự biến đổi chúng qua các thời đại và dân tộc, Ph. Ăngghen viết: “Từ
dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm
về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”
[4;tr.135].
Về tính giai cấp, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “…cho tới nay xã hội đã vận
động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của
giai cấp” [4;tr.137]. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có vai trò và địa
vị khác nhau, do đó mà họ có lợi ích khác nhau và đối nghịch nhau. Đạo đức với tư
cách là hình thái ý thức xã hội đã phản ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Ý
thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những cách thức,
biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp sẽ sử dụng
đạo đức của mình như là công cụ để bảo vệ lợi ích của mình. Mỗi giai cấp có những
lợi ích riêng, do đó cũng có những quan niệm đạo đức, hệ thống đạo đức riêng. Tuy
nhiên, hệ thống đạo đức áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống đạo đức của
giai cấp thống trị, mặc dù, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo
những lợi ích trực tiếp của mình.
Đạo đức mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp nhưng không phải vì vậy
mà phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại

hình thức thấp là biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần
thiết để đảm bảo trật tự bình thường cho cuộc sống hằng ngày của con người. Biểu
hiện cao hơn là ở những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển
của lịch sử, những giá trị đạo đức này thường là những giá trị đạt được tiến bộ nhất
trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
Như vậy, bên cạnh tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp, đạo đức còn mang
tính nhân loại. Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp tiến bộ của từng thời kì
lịch sử, nhân loại sẽ bắt gặp đạo đức của mình tương ứng với các thời kì lịch sử đó.
 Chức năng của đạo đức
 Chức năng điều chỉnh hành vi
Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân
và xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện bằng hai hình thức chủ yếu.

- 16 -


Một là, thông qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt, lên án,
phê phán cái ác, cái xấu. Với hình thức này, giá trị đạo đức phụ thuộc vào sức mạnh
và tính đúng đắn của dư luận. Mỗi khi dư luận xã hội được củng cố và phát triển,
được mọi người đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong việc điều
chỉnh đạo đức. Dân tộc ta có câu ca dao: “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia
miệng vẫn còn trơ trơ”. Chúng ta có thể thấy, cái “bia miệng” (dư luận xã hội) hàng
ngàn năm vẫn lưu truyền, nó lâu bền hơn cả sắt đá, nó trở thành công cụ lợi hại trong
việc điều chỉnh hành vi đạo đức.
Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi khi được hướng dẫn bởi những học thuyết đạo
đức tiên tiến sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức, làm cho nó phù hợp với sự tiến
bộ xã hội, tạo nên những giá trị đạo đức tích cực.
Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi của mình theo
những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách điều chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo dục,

giác ngộ của chủ thể đạo đức. Bởi lẽ, trong quan hệ đạo đức chủ thể đạo đức vừa
tham gia vào hành vi ứng xử, vừa là người phán xét hành vi ứng xử của chính mình.
Khi thực hiện hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa vào các chuẩn mực được hình
thành trong bản thân họ. Nếu các chuẩn mực đó phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã
hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan làm cho hành vi đạo đức của cá nhân phù hợp
với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng hộ. Ngược lại, mỗi khi chuẩn mực cá
nhân sai lệch chuẩn mực xã hội sẽ dẫn đến những hành vi đạo đức cá nhân không phù
hợp với lợi ích xã hội. Trong trường hợp này, dư luận xã hội sẽ lên án, phê phán.
Khi phán xét hành vi ứng xử của mình, chủ thể đạo đức căn cứ vào chuẩn mực
đạo đức cá nhân họ. Nếu không thực hiện được một quan hệ đạo đức nào đó đúng như
chuẩn mực bản thân, thì lương tâm họ bị cắn rứt, họ cảm thấy ân hận, xấu hổ về hành
vi của mình. Ngược lại, mỗi khi họ thực hiện được những quan hệ đạo đức đúng như
chuẩn mực đã hình thành ở họ, thì lương tâm họ cảm thấy thanh thản, họ tự hào về
hành vi của mình. Như vậy, với cách thức điều chỉnh này, giá trị đạo đức được hình
thành trong mỗi chủ thể đạo đức đó là cơ sở cho hành vi đạo đức của mỗi cá nhân phù
hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội.
Tóm lại, mục đích điều chỉnh của đạo đức nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển
xã hội bằng việc tạo nên sự hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân (và có khi
còn ưu tiên lợi ích cá nhân). Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân
- 17 -


(trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp). Cách thức
điều chỉnh của đạo đức được biểu hiện qua sự lựa chọn giá trị đạo đức; xác định
chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bởi
chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo
đức, kiểm soát, uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội.
 Chức năng giáo dục
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người
tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.

Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động
đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo
ra nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hóa tác động
chi phối con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân
chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: Tác động đến đạo đức cá nhân bằng
nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hóa đạo đức xã
hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo
dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và
cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen,
truyền thống, tập quán đạo đức.
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ
chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo
dục.
Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:
Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ
xã hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó… sẽ giúp chủ
thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người
khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu,
nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình giáo dục sẽ
giúp mỗi cá nhân và cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức đúng.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn
trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng; mặt khác sự
“tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
- 18 -


 Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức
thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội.

Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái
ý thức khác. Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người.
Nếu xét dưới gốc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi
tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo
đức) không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện
tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
- Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường
hợp quá trình đó có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. Ở hình thái
ý thức xã hội khác, chẳng hạn như khoa học thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học
có khoảng cách về không gian và thời gian.
- Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và
hướng nội (tự nhận thức – hướng vào chính mình, chính chủ thể ).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống, đạo đức của xã hội
làm đối tượng. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức
của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể đạo đức – làm
đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những
nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng
đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành phát triển thành các quan điểm và
nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ,
hướng thiện hay sa vào tội ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư luận
xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương tâm là sự
phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình – giá trị mà xã
hội mong muốn.
Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để
hoàn thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó

- 19 -



luôn đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè,
đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, giai cấp, tổ quốc.
Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ: trình độ thông
thường và trình độ lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá
trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời
trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có thể và
cần phải phản ánh đạo đức ở trình độ này.
Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc
được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáp ứng những
đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu
được trong tư tưởng và hành vi của các giai cấp cầm quyền.
Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đạo đức. Các cá nhân,
nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân).
Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở
để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).

1.1.3. Vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội của người Việt Nam
hiện nay
Từ xưa nay vấn đề đạo đức vẫn được xem là một trong những mối quan tâm
hàng đầu trong đời sống xã hội nhân loại. Ở nước ta, từ khi phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của đạo đức ngày càng trở thành mối
quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, nhất là trong những năm gần đây khi mặt trái của
cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã hội. Nhiều yếu tố tác động của
kinh tế thị trường đã làm thay đổi những vấn đề căn bản trong cuộc sống hàng ngày.
Để xã hội phát triển đi lên đồng thời vẫn giữ được cái hồn dân tộc thì vấn đề đạo đức
phải hết sức chú trọng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Nói đến đạo đức, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là nền tảng của cách mạng.

Người nói: “Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn; cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”, “sức
có mạnh mới gánh được nặng đi xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [1;tr29]. Đạo đức là gốc, là
- 20 -


nguồn, là nền tảng, bởi lẽ muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có cái
tâm trong sáng, cái đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, với nhân dân lao
động, với dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ hàng
ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh mình.
Trong xã hội nếu không có đạo đức, không thể có được niềm hạnh phúc cho mỗi con
người.
Đạo đức cách mạng không chỉ là cái gốc của người cách mạng mà còn là động
lực mạnh mẽ để người cách mạng đi đến cái trí. Khi đã có trí, hiểu biết khoa học, chủ
nghĩa Mác, phương pháp cách mạng… thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người
cách mạng giữ vững được chủ nghĩa của mình đã giác ngộ, đã đi theo. Theo Bác:
“Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Có đạo đức
cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước; khi gặp thuận
lợi thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, mới “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành cho tốt nhiệm vụ chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ. Không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”
[9;tr.29]. Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp to lớn, khó khăn
và nặng nề, con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài,
không phải là một đại lộ thẳng tắp. Vì vậy, chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng
ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi
người trong xã hội.
Đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Người thường nhắc lại ý của Lênin: “Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh

dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”. Ở đây, “đạo đức” là những phẩm chất cần mà
con người cần phải có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Còn “văn minh” tức là trí tuệ, đó là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa
Mác - Lênin, về những tri thức hiện đại, về những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách
mạng đi đến thắng lợi. Trong đó, đạo đức là nguồn gốc, nền tảng bởi vì muốn làm
cách mạng thì trước hết phải có cái tâm, cái đức trong sáng.
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp, các nhóm
xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động; trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong
cả mối quan hệ của con người đó là đối với mình, với người, với việc để mọi người
phấn đấu, rèn luyện từ đó phục vụ cho sự nghiệp cách mạng to lớn. Tóm lại, có thể
- 21 -


khẳng định rằng đạo đức có vị trí cực kì quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của
Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện con người mới, đặc biệt
là lớp thanh niên Việt Nam trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thì trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH
NIÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

1.2.1. Vị thế, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng
Thanh niên là “bộ phận quan trọng”, “năng động”, “tốt đẹp nhất”, “to lớn nhất”
và “hy vọng nhất” của dân tộc, là những người trẻ tuổi đang trưởng thành. Đây là
những năm tháng sung sức, đẹp đẽ nhất của cuộc đời mỗi con người, phân biệt rõ nhất
với thiếu niên, nhi đồng và những người lớn tuổi. Họ là biểu tượng của sự trẻ trung,
mạnh mẽ, hoạt bát, hy vọng và ước mơ, là lớp người có trình độ học vấn, văn hóa và
lối sống…phát triển hơn lớp trước. Đó là sơ sở cho thấy vị thế và vai trò của họ trong
đời sống xã hội.
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách. Về
mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là giai đoạn xác định trong quá trình

“tiến hóa” của cơ thể. Các nhà tâm lý học thường nhìn nhận thanh niên là một giai
đoạn chuyển tiếp từ tuổi phụ thuộc sang hoạt động độc lập với tư cách là một công
dân có trách nhiệm. Dưới góc độ kinh tế học, thanh niên được xem là một lực lượng
lao động xã hội, nguồn bổ sung cho lao động trên tất cả các lĩnh vực. Với các triết gia,
văn nghệ sĩ, thanh niên lại được định nghĩa bằng cách so sánh hình tượng “thanh niên
là mùa xuân của xã hội”.
Để nhìn nhận đánh giá thanh niên một cách tương đối toàn diện, thanh niên
được hiểu là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi từ 15-30, gắn với mọi giai
cấp, mọi tầng lớp xã hội và có mặt trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Theo cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 thì dân số trong độ tuổi này ở nước
ta chiếm 36,2% dân số cả nước. Rõ ràng đây là lực lượng xã hội to lớn, giàu tiềm
năng, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện tại và là người chủ
tương lai của đất nước. Có thể nói, trong tiến trình phát triển của lịch sử, ở bất cứ thời
khắc nào thanh niên cũng luôn luôn là người đi đầu trong việc thực hiện những nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, xã hội mà lịch sử đặt ra.

- 22 -


Bàn về thanh niên, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định quần
chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và các giá trị văn hóa tinh
thần của xã hội, là lực lượng đông đảo có sức mạnh quyết định sự thành bại của các
cuộc cách mạng. Do đó quần chúng nhân dân chính là người quyết định vận mệnh của
lịch sử, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Một trong những phát hiện vĩ
đại của C. Mác là học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản hiện
đại.Trong học thuyết của mình, C. Mác đề cập đến lớp người trẻ tuổi, đánh giá cao
vai trò của thế hệ công nhân đang lớn lên. Ông cho rằng đó là nguồn bổ sung đặc biệt
quan trọng để giai cấp vô sản được hình thành với tư cách là một giai cấp thực sự khi
nó ý thức được địa vị sứ mệnh lịch sử và tương lai của nó. C. Mác khẳng định:
“Nhưng dù sao thì bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân cũng nhận thức

rất rõ rằng tương lai của giai cấp họ và do đó tương lai cả loài người hoàn toàn phụ
thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [5;tr.118].
Trong bối cảnh của xã hội tư bản đương thời, Mác cho rằng: “Cần phải bảo vệ
nhi đồng và thiếu niên công nhân khỏi những hậu quả tai hại của chế độ hiện đại”
[5;tr.118]. Còn Ph. Ăngghen đã đề xuất tư tưởng: Thanh niên không thể đứng ngoài
chính trị, chính hiện thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống
chính trị. Ông nhấn mạnh rằng, thanh niên không bao giờ thỏa mãn với lý tưởng trước
đây, họ muốn được tự do hơn trong hành động, họ khao khát lập chiến công và vì sự
đổi mới, họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình. Thanh niên sẽ có đủ sức lực
và tài năng để giải quyết những mâu thuẫn đang nảy sinh trong cuộc sống của đất
nước.
C. Mác và Ph. Ăngghen luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân và đội tiên
phong chiến đấu của nó. Ph. Ăngghen là người đầu tiên đưa ra các khái niệm như
“Đội quân xung kích quyết định của đạo quân vô sản quốc tế”; “Đội hậu bị của
Đảng” để gắn với thanh niên. Ph. Ăngghen còn khẳng định chính thế hệ trẻ là nguồn
bổ sung dồi dào nhất cho Đảng khi mà Đảng của C. Mác đang đã khẳng định vị trí
của mình trên vũ đài lịch sử (1853).
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen trong những điều kiện
lịch sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là “nguồn sinh lực chiến đấu của cách
mạng”. Lênin đáng giá rất cao tiềm năng của tuổi trẻ, ngay cuối thế kỷ XIX, Người
đã viết: Người ta quan sát thấy thanh niên công nhân một khát vọng nồng cháy không
- 23 -


gì làm kìm hãm được tới lý tưởng của dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng
công việc xây dựng và phát triển xã hội mới văn minh và hiện đại phải thuộc về thế
hệ trẻ. Người nói: Theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên. Với tiềm năng to lớn đó mà
V.I.Lênin đặt niềm tin vững chắc vào thế hệ trẻ: Chúng ta đang đấu tranh tốt hơn cha
ông chúng ta, con cháu chúng ta sẽ đấu tranh còn tốt hơn chúng ta nhiều và chúng sẽ

chiến thắng.
Lênin phê phán gay gắt những đảng viên bảo thủ, không đánh giá đúng vai trò
của lực lượng trẻ trong cách mạng, coi thường thanh niên và chế giễu sự ngây thơ,
thiếu kinh nghiệm của họ. Đồng thời, Người khẳng định lập trường của những người
cộng sản chân chính là cần phải giáo dục cộng sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo
dục ấy với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Người nói: “Cho nên,
là người cộng sản tức là phải tổ chức và đoàn kết toàn thể thế hệ thanh niên, phải
làm gương mẫu về giáo dục và lý luận trong cuộc đấu tranh này. Lúc đó các đồng chí
mới có thể bắt đầu và hoàn thành công cuộc xây dựng lâu dài của xã hội cộng sản
chủ nghĩa” [20;tr.254]. Người chỉ rõ cần phải tập hợp thanh niên thành các tổ chức
độc lập và tự quản, các tổ chức đó sẽ hoạt động dưới sự lãnh đạo tư tưởng của Đảng
Cộng sản, phải cuốn hút thanh niên vào phong trào cách mạng và sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản với phong trào thanh niên, việc định hướng chính trị cho tuổi trẻ là
điều kiện cần thiết để biến những năng lực tiềm tàng của thế hệ trẻ thành hiện thực.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tế
của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam luôn đánh giá đúng
vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách
mạng. Ngay từ khi đất nước còn chìm đắm dưới ách nô lệ của thực dân pháp Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thấy vai trò quyết định của lực lượng thanh niên đối với tương lai
của Đông Dương. Người nói: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại. Ngươi sẽ chết mất
nếu đám thanh niên già nua của ngươi không hồi sinh” [17; tr.62]. Từ đó Người cho
rằng muốn hồi sinh dân tộc trước hết phải hồi sinh thanh niên bởi “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà”, là “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh
niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” [26;tr.315].
Nhận thấy tầm quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của thanh niên, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng vinh quang của Đảng cần phải
- 24 -


tập hợp, bồi dưỡng và giáo dục thanh niên. Trong Di chúc Người viết: “Bồi dưỡng

thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và cần thiết”.
Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta luôn coi thanh niên là vấn đề sống còn của
dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của “cách mạng”, Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII, Đảng ta đã khẳng định: “Thanh niên ta ngày nay là lực
lượng xã hội to lớn, có tiềm năng hùng hậu…có mặt mạnh cơ bản và trình độ học vấn
cao hơn trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước…”, đồng
thời Đảng cũng nhấn mạnh: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước
bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách
mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn
tùy thuộc vào lực lượng thanh niên”.
Với tinh thần đó, Nghị quyết đại hội IX của Đảng đã xác định đối với thanh niên
cần phải “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát
triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”. Như vậy, những định hướng của Đảng đã không chỉ phản ánh
đúng vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, mà còn tạo điều kiện về vật
chất và tinh thần, xây dựng cơ sở pháp lý để thế hệ trẻ tự giác phấn đấu, vươn lên,
xứng đáng với truyền thống của cha ông, của dân tộc, tiếp tục khẳng định vị thế của
đất nước, của thế hệ trẻ Việt Nam trên trường quốc tế.

1.2.2. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Khi bàn về giáo dục vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, Theo Hà Thế Ngữ thì:
“Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho
con người tham gia vào cuộc sống xã hội, tham gia lao động sản xuất bằng cách tổ
chức việc truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người” [16;tr.3].
Theo Bùi Hiền và các cộng sự cho giáo dục là: “Hoạt động hướng tới con người
thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và
kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết
cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất nhân cách phù hợp

với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời
sống xã hội” [16;tr.3].
- 25 -


×