Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

GIÁO dục đạo đức CHO THANH NIÊN TRONG điều KIỆN PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.72 KB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN TỐT
NGHIỆP ĐẠI HỌC
TÊN ĐỀ TÀI:

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN TRONG
ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH KIÊN GIANG
HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn:
TS. ĐINH NGỌC QUYÊN

Sinh viên thực hiện:
TRẦN THỊ ÁNH HUYỀN
MSSV: 6086456
Lớp: SP. GDCD K34 - 01

Cần Thơ, tháng 5 năm
2012


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................................1


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên



Luận Văn Tốt Nghiệp

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và ở bất cứ thời đại nào, thanh niên được coi là
rường cột của đất nước, là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quyết định
tương lai vận mệnh của đất nước, là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm
những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi
sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động sáng tạo, muốn tự khẳng
định mình. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn khẳng định vai trò, vị trí của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng, là lực lượng trụ cột của sự nghiệp đổi mới, là sự sống còn, là
tương lai rạng rỡ của dân tộc. Lịch sử Việt Nam đã minh chứng nước nhà thịnh hay suy,
mạnh hay yếu là bắt nguồn từ thế hệ thanh niên. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII về công tác thanh niên trong thời kì
đổi mới đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào
thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào
lực lượng thanh niên”.
Sau hơn 20 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng. Trong những thành tựu đạt được đó, có sự đóng
góp to lớn của lực lượng thanh niên, lớp người có sức khỏe, có đạo đức, có tư duy năng
động sáng tạo, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng phấn đấu hy sinh vì sự
nghiệp cách mạng, tình nguyện vì cộng đồng, sống có trách nhiệm, có ý chí vươn lên,
mong muốn được cống hiến góp phần đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thanh niên vẫn còn không ít hạn chế, thiếu sót
và khuyết điểm.
Kiên Giang là tỉnh có lực lượng thanh niên đông đảo, là quê hương giàu truyền
thống cách mạng, anh hùng, bất khuất, kiên cường, giàu truyền thống lịch sử - văn hóa.
Là quê hương gắn liền với tên tuổi và tinh thần yêu nước của người anh hùng dân tộc

Nguyễn Trung Trực, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nói chung và của nhân dân Kiên
1


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Giang nói riêng. Bên cạnh đó, trong cách mạng nhân dân Kiên Giang đã có nhiều đóng
góp quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình đổi mới đất nước từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện
nay, thanh niên Kiên Giang đã có nhiều đóng góp quan trọng đến sự phát triển của đất
nước nói chung và tỉnh nhà nói riêng. Tuy nhiên, dưới sự tác động hai mặt của nền kinh tế
thị trường, thanh niên Kiên Giang cũng đã bộc lộ không ít hạn chế và khuyết điểm, trong
đó đáng lo ngại là sự xuống cấp về mặt đạo đức: có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ và
hoài bão, lập thân, lập nghiệp, những tiêu cực trong thi cử, bằng cấp, chạy theo thành tích.
Hàng loạt vấn đề đặt ra đối với thanh niên là, làm thế nào để thanh niên trong tương lai đủ
sức đáp ứng yêu cầu của đất nước đặt ra? Làm thế nào để họ có thể tự định hướng đúng,
hình thành và rèn luyện phẩm chất đạo đức trong đời sống kinh tế thị trường hiện nay?
Làm thế nào để những ảnh hưởng tiêu cực không làm suy giảm nguồn lực trẻ...? Vì thế
việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Kiên Giang hiện nay là việc làm cần thiết và cấp
bách. Để tìm hiểu về vấn đề này và tìm ra một số phương hướng, giải pháp giáo dục đạo
đức cho thanh niên tỉnh Kiên Giang trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, cũng như là góp phần sức nhỏ cho sự nghiệp phát triển
của tỉnh nhà nên tác giả đã chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho thanh niên trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Kiên Giang hiện nay”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài


Đề tài tập trung nghiên cứu trực tiếp những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vai trò của đạo đức thanh niên trong xã hội. Trên cơ sở
đó đi sâu phân tích thực trạng vấn đề đạo đức thanh niên ở tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đề xuất ra một số phương
hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên trong thời kỳ phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Kiên Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

* Mục đích nghiên cứu đề tài
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và
giáo dục đạo đức cho thanh niên, đề tài góp phần làm sáng tỏ thực trạng đạo đức thanh
niên và đề ra phương hướng, giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên ở tỉnh Kiên
Giang trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Phân tích rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Phân tích rõ thực trạng đạo đức thanh niên ở tỉnh Kiên Giang trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên ở
tỉnh Kiên Giang.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu như: phân tích và tổng hợp, so sánh, logic và lịch sử; gắn lý luận với thực
tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương 7 tiết.

3


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT
CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN
TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1.1. Khái niệm về đạo đức và đạo đức mới
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng
La tinh là mos (moris) – lề thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa).
Còn “luân lý” được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc ở chữ Hy Lạp là Ethicos
nghĩa là lề thói, tập tục. Khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói, tập tục và
biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hằng
ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm: Moral là đạo đức, còn Ethicos là
đạo đức học.

Ở phương đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện
sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những
phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường đi,
về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo
còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được
người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung đức là biểu hiện của đạo, đạo là nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói
đạo đức theo quan niệm của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
4


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng.
Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát (469 – 399 tr.CN) là người đầu tiên đặt nền móng
cho khoa học đạo đức học. Còn Arixtốt (384 – 322 tr.CN) đã viết bộ sách Đạo đức học
với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của
phẩm hạnh chính là chỗ biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông nói: chúng ta bàn
về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh.
Trong lịch sử đạo đức học, Êpiquya (341 – 271 tr.CN) là người đầu tiên đưa phạm
trù Lẽ sống vào đạo đức học và là một trong những người có công luận giải về sự tự do
của con người.
Ngày nay đạo đức được định nghĩa: là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh đánh giá và cách ứng xử của
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi sức mạnh truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.

Trong định nghĩa trên có ba điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội,
phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như các quan điểm triết học,
chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh
tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người và các quan điểm này thay
đổi theo cơ sở đẻ ra nó.
Thứ hai, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người
đã sáng tạo nhiều phương thức điều chỉnh hành vi: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp
luật, đạo đức… Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn phép chuẩn
mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục,
chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, đạo đức con người cũng đều
được đánh giá như vậy và những chuẩn mực, quy tắc đạo đức nhất định được công luận
của xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận; đồng thời sự điều chỉnh đạo đức
mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị. Đạo đức là một hiện tượng xã hội, mang
tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Các hiện tượng đạo đức thường bày tỏ sự tán
5


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với
cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung hợp thành hệ
thống giá trị xã hội. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ
thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu
cực, phản động, phản nhân đạo.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới
Trong lịch sử phát triển xã hội nói chung và lịch sử phát triển đạo đức nói riêng đã

tồn tại các kiểu đạo đức khác nhau phản ánh trình độ phát triển của xã hội qua các thời đại
khác nhau. Những hình thái sơ khai của quan hệ đạo đức và ý thức đạo đức đã xuất hiện
từ rất sớm ngay trong thời kỳ công xã nguyên thủy, tiếp đến là sự ra đời, phát triển và
thay thế lần lượt của các kiểu đạo đức chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa.
Quy luật phát triển này tương ứng với sự phát triển và thay thế nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội mà đạo đức là một bộ phận trong đó.
Trong các kiểu đạo đức của lịch sử thì đạo đức tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cao
hơn so với các kiểu đạo đức trước đó. Tuy nhiên, khẳng định tiến bộ đạo đức, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã dự báo cho sự xuất hiện nền đạo đức mới với tính cách là biểu hiện về
mặt đạo đức của xã hội mới – cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Nền đạo đức này là sự tiếp tục và phát triển của nền đạo đức vô sản đã xuất hiện trong
lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, nền đạo đức mới chính là nền đạo đức cộng sản, nền đạo đức do giai cấp
công nhân tạo nên trong quá trình đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột của giai cấp tư bản và
xây dựng xã hội mới do giai cấp công nhân làm chủ mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
Như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Nền đạo đức có nhiều nhân tố hứa hẹn, lâu dài nhất, chắc
chắn nhất là nền đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, tiêu biểu cho
tương lai, tức là nền đạo đức vô sản” [4; tr.138] và Lênin cũng viết: “Đạo đức đó là
những gì góp phần xóa bỏ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới” và “Cơ sở
của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng
chủ nghĩa cộng sản” [24; tr.372].
6


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đạo đức nói

riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà lý luận lỗi lạc, là
tấm gương đạo đức sáng ngời soi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Theo Người, đạo đức cách mạng “không phải là đạo đức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [25; tr.252]. Đạo đức đó được hình thành
và phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Đồng thời, nó kế thừa và phát triển những tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc và
nhân loại. Người xác định đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với nhân dân”,
“ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu của Đảng”, “quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ
địch”, “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”, luôn hòa mình với quần chúng. Người viết:
“Nói tóm lại, thì đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng… thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của
cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”
[25;tr.285].
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh khởi xướng và cùng Đảng ta xây
dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng và nhân dân ta, xét về tính giai cấp và mục
đích, nó thống nhất với đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản mà C.Mác và Ph.Ăngghen là
những người đặt nền móng và Lênin là người kế thừa, phát triển. Đạo đức mới là đạo đức
gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân nói riêng và của quần chúng nhân dân lao động
nói chung. Đó là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, vì sự tiến
bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người, mục đích cuối cùng là góp phần giải
phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức bất công xã hội.
7



GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Do vậy, đạo đức mới là đạo đức trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định phẩm
chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình. Đạo đức
mới ở Việt Nam là một hình thức đặc thù của đạo đức cộng sản chủ nghĩa, tính đặc thù
của nó được quy định bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam, truyền thống đạo đức dân tộc và
dấu ấn sắc thái Hồ Chí Minh.
Tóm lại, trên cơ sở những đặc trưng của đạo đức mới chúng ta có thể hiểu: Đạo
đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh thực
tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là tổng hòa các phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng
nhân cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức
1.1.2.1. Nguồn gốc của đạo đức
 Các quan niệm trước Mác về nguồn gốc của đạo đức

Trước C.Mác - Ăngghen, những nhà triết học kể cả duy tâm và duy vật đều rơi vào
quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy được tính quy
định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và về đạo đức nói
riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một hoạt động xã hội đặc thù của con người, của
xã hội được nhìn nhận một cách tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các
nhà triết học đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức với ngay chính
bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã
hội. Ở đây, các lý thuyết này đều không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực
khách quan.
Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua là những hình thái

biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những chuẩn mực đạo đức là
những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con người, mọi biểu hiện đạo đức của
con người đều là sự thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên và là tiêu chuẩn tối cao
để thẩm định thiện - ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó.

8


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy không
mượn tới thần linh nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối”, về các lý giải
nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy.
Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực “tiên thiên”
của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi của Cantơ, là những
năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập
với những hoạt động mang tính xã hội của con người.
Khác với các nhà duy tâm, những nhà duy vật trước Mác tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc
đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với ông, con
người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử,
đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác-Uyn xã hội đã cho rằng những phẩm chất đạo đức
của con người là đồng nhất với bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về
thực chất cũng chỉ là những năng lực đem lại từ bên ngoài con người, từ xã hội.
 Quan niệm triết học Mác - Lênin về nguồn gốc của đạo đức

Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác - Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh
do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.

Theo Mác - Ăngghen, con người khi sống phải có “quan hệ song trùng”. Một mặt,
con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc sống của mình.
Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người phải xông vào tự nhiên để
thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên, con người không thể đơn độc, tức
con người phải quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau
giữa người và người là hệ quả của hoạt động vật chất và tinh thần mà cơ bản là hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, Mác – Ăngghen cho rằng: “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người” [4; tr.137]; rằng: “người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi làm
chính trị, khoa học, nghệ thuật…”. Xuất phát từ con người thực tiễn chứ không phải con
người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến quan niệm về phương thức
9


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

sản xuất quy định đối với toàn bộ các hoạt động của con người, xã hội loài người. Trong
lời tựa của tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học” Mác viết: “Phương
thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung, không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại
chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [3; tr.15]. Luận điểm này chính
là chìa khóa để khám phá ra tất cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã
hội, bên ngoài các quan hệ con người, cũng không phải là sự biểu hiện của những năng
lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã
hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở
kinh tế. Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm

của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ.
Khi những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp thì những hệ thống đạo
đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy “những quan điểm đạo đức
của mình từ những quan hệ thực tiễn làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ
những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi” [4; tr.136].
Trong xã hội phân chia thành giai cấp, đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình
thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội có
giai cấp là một bước tiến của lịch sử nhân loại, làm cho đạo đức cũng phát triển theo. Tuy
vậy, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những cái ác, tham lam, ích kỉ, lừa dối… mà
loài người sau này phải đấu tranh quyết liệt để chống lại nó. Trong xã hội có đối kháng
giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức phát triển nhưng chưa thật nhân đạo, chưa
hoàn thiện. Sự hoàn thiện của đạo đức chỉ có thể đạt được khi con người chiến thắng được
tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện để có thể “quên được tình trạng
đối kháng giai cấp”. Điều kiện đó chỉ có thể có được trong xã hội cộng sản chủ nghĩa mà
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sự hoàn thiện đạo đức được thực hiện từ đạo đức của
giai cấp công nhân, một dạng đạo đức “có nhiều nhân tố hứa hẹn” để dẫn tới một kiểu
đạo đức “thật sự có tính nhân đạo”.

10


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Như vậy, theo quan điểm Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối
hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình đấu tranh xã hội, trong
phân phối sản phẩm, để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản
xuất, các quan hệ sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức đạo
đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong

phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản phẩm
của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người - người, cá
nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã
hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng có đạo đức. Đạo đức “đã là sản phẩm của
xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
1.1.2.2. Bản chất và chức năng của đạo đức
 Bản chất của đạo đức
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được quyết định
bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người. Nói
cách khác, nội dung khách quan của các quan niệm, quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn
mực đạo đức chính là biểu hiện của trạng thái, một trình độ phát triển nhất định của
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế.
Khẳng định tính quy luật của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho phép nhìn nhận sự
biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế. Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở
kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong đó đạo đức là yếu tố của nó, Mác viết: “Cơ sở
kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh
chóng” [3; tr.15].
Tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của Mác, Ăngghen đã luận chứng cho bản chất xã hội
của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.
Về tính thời đại, trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã chỉ ra mối quan
hệ của các thời đại đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức với tính cách là biểu
hiện về mặt đạo đức của các thời đại kinh tế. Phê phán quan điểm của Đuyrinh về những
chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, thực chất và xét đến cùng, các
11


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp


nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan điểm đạo đức chẳng qua chỉ là sản phẩm của các
chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế mà thôi.
Tính quy định của thời đại đối với đạo đức cho ta quan niệm khoa học về loại hình
đạo đức. Mặc dù đạo đức có quy luật nội tại, có sự kế thừa, có sự lệch pha nào đó đối với
cơ sở sản sinh ra nó nhưng về căn bản, tương ứng với một chế độ kinh tế, mỗi phương
thức sản xuất và do đó mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định.
Đạo đức nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và
sau đó, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những thời đại tiến triển dần dần của đạo đức
nhân loại.
Cùng với tính thời đại, tính dân tộc là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của
đạo đức. Có thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc thù tính thời đại của đạo
đức trong các dân tộc khác nhau. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đặt cơ sở khoa
học cho việc luận chứng tính dân tộc của đạo đức. Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức
đạo đức vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức
xã hội khác như chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo… Tổng thể những nhân tố ấy
trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau, làm thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là bản sắc
dân tộc. Bản sắc ấy được phản ánh vào đạo đức tạo nên tính độc đáo của các quan niệm,
các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo trong đời sống đạo
đức của mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo ấy về mặt dân tộc cũng như sự biến đổi
chúng qua các thời đại và dân tộc, Ph.Ăngghen viết: “Từ dân tộc này sang dân tộc khác,
từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến
mức chúng thường trái ngược hẳn nhau” [4; tr.135]
Về tính giai cấp, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “… cho tới nay xã hội đã vận
động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của
giai cấp” [4; tr.137]. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có vai trò và địa vị
khác nhau, do đó mà họ có lợi ích khác nhau và đối nghịch nhau. Đạo đức với tư cách là
hình thái ý thức xã hội đã phản ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Ý thức đạo
đức giúp mỗi giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những cách thức, biện pháp bảo
vệ và khẳng định lợi ích giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp sẽ sử dụng đạo đức của mình

12


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

như là công cụ để bảo vệ lợi ích của mình. Mỗi giai cấp có những lợi ích riêng, do đó
cũng có những quan niệm đạo đức, hệ thống đạo đức riêng. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức
áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù,
trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo những lợi ích trực tiếp
của mình.
Đạo đức mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp nhưng không phải vì vậy mà
phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại hình thức
thấp là biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần thiết để đảm
bảo trật tự bình thường cho cuộc sống hằng ngày của con người. Biểu hiện cao hơn là ở
những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, những giá
trị đạo đức này thường là những giá trị đạt được tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát
triển của lịch sử nhân loại.
Như vậy, bên cạnh tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp, đạo đức còn mang tính
nhân loại. Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp tiến bộ của từng thời kì lịch sử,
nhân loại sẽ bắt gặp đạo đức của mình tương ứng với các thời kì lịch sử đó.
 Chức năng của đạo đức
Đạo đức được thể hiện qua 3 chức năng: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng
giáo dục và chức năng nhận thức


Chức năng điều chỉnh hành vi

Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và

xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện bằng hai hình thức chủ yếu.
Một là, thông qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt, lên án, phê
phán cái ác, cái xấu. Với hình thức này, giá trị đạo đức phụ thuộc vào sức mạnh và tính
đúng đắn của dư luận. Mỗi khi dư luận xã hội được củng cố và phát triển, được mọi người
đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh đạo đức. Dân tộc
ta có câu ca dao: “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.
Chúng ta có thể thấy, cái “bia miệng” (dư luận xã hội) hàng ngàn năm vẫn lưu truyền, nó
lâu bền hơn cả sắt đá, nó trở thành công cụ lợi hại trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức.
13


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi khi được hướng dẫn bởi những học thuyết đạo đức
tiên tiến sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức, làm cho nó phù hợp với sự tiến bộ xã
hội, tạo nên những giá trị đạo đức tích cực.
Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi của mình theo những
chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách điều chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo dục, giác ngộ
của chủ thể đạo đức. Bởi lẽ, trong quan hệ đạo đức chủ thể đạo đức vừa tham gia vào
hành vi ứng xử, vừa là người phán xét hành vi ứng xử của chính mình. Khi thực hiện
hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa vào các chuẩn mực được hình thành trong bản thân
họ. Nếu các chuẩn mực đó phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ trở thành cơ sở
khách quan làm cho hành vi đạo đức của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận
đồng tình ủng hộ. Ngược lại, mỗi khi chuẩn mực cá nhân sai lệch chuẩn mực xã hội sẽ
dẫn đến những hành vi đạo đức cá nhân không phù hợp với lợi ích xã hội. Trong trường
hợp này, dư luận xã hội sẽ lên án, phê phán.
Khi phán xét hành vi ứng xử của mình, chủ thể đạo đức căn cứ vào chuẩn mực đạo

đức cá nhân họ. Nếu không thực hiện được một quan hệ đạo đức nào đó đúng như chuẩn
mực bản thân, thì lương tâm họ bị cắn rứt, họ cảm thấy ân hận, xấu hổ về hành vi của
mình. Ngược lại, mỗi khi họ thực hiện được những quan hệ đạo đức đúng như chuẩn mực
đã hình thành ở họ, thì lương tâm họ cảm thấy thanh thản, họ tự hào về hành vi của mình.
Như vậy, với cách thức điều chỉnh này, giá trị đạo đức được hình thành trong mỗi chủ thể
đạo đức đó là cơ sở cho hành vi đạo đức của mỗi cá nhân phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ
xã hội.
Tóm lại, mục đích điều chỉnh của đạo đức nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã
hội bằng việc tạo nên sự hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân (và có khi còn ưu
tiên lợi ích cá nhân). Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân (trực tiếp) qua
đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp). Cách thức điều chỉnh của đạo
đức được biểu hiện qua sự lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi
lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động
cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức, kiểm soát, uốn nắn hành vi bởi
dư luận xã hội.
14


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

• Chức năng giáo dục
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo
ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động đến
con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra
nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hóa tác động chi phối
con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu

sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: Tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức
đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hóa đạo đức xã hội thành ý
thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi
đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo
đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán
đạo đức.
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ
chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo dục.
Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:
Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã
hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó… sẽ giúp chủ thể lựa
chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của
cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung,
phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và
cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức đúng.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn
trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng; mặt khác sự “tự
giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
• Chức năng nhận thức

15


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông
qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý

thức khác.
Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới
gốc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã hội.
Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách
rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang
tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
- Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp
quá trình đó có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. Ở hình thái ý thức xã
hội khác, chẳng hạn như khoa học thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học có khoảng
cách về không gian và thời gian.
- Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và hướng
nội (tự nhận thức – hướng vào chính mình, chính chủ thể ).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống, đạo đức của xã hội làm đối
tượng. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức của xã hội như
là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể đạo đức – làm đối
tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận
thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ
cách nhận thức này mà chủ thể hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc
sống: sáng tạo hay chủ động, hi sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỉ, hướng thiện hay sa
vào tội ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư luận xã hội
là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương tâm là sự phê bình. Cả
hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình – giá trị mà xã hội mong muốn.

16


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên


Luận Văn Tốt Nghiệp

Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để hoàn
thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt
ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí,
đồng đội, tập thể, dân tộc, giai cấp, tổ quốc.
Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ: trình độ thông
thường và trình độ lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá trị
riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời trong
cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có thể và cần phải
phản ánh đạo đức ở trình độ này.
Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ
đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáp ứng những đòi hỏi của
sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong tư tưởng
và hành vi của các giai cấp cầm quyền.
Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri
thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân
hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân
điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).
1.1.3. Vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội của người Việt Nam hiện nay
Ở nước ta, từ khi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai
trò của đạo đức ngày càng trở thành mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, nhất là trong
những năm gần đây khi mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến đạo đức
xã hội. Nhiều yếu tố tác động của kinh tế thị trường đã làm thay đổi những vấn đề căn bản
trong cuộc sống hàng ngày. Để xã hội phát triển đi lên đồng thời vẫn giữ được cái hồn
dân tộc thì vấn đề đạo đức phải hết sức chú trọng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Dân tộc ta vốn có truyền thống văn hóa và văn hiến lâu đời, trải qua những thăng
trầm, biến cố của lịch sử nhưng ở mọi thời đại, con người Việt Nam và truyền thống của

dân tộc Việt Nam chưa bao giờ xa rời đạo đức. Sự lựa chọn giá trị đạo đức trong lối sống
và nhân cách của mình luôn là sự lựa chọn quan trọng nhất đối với mọi giá trị.
17


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

Nói đến đạo đức, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng.
Người nói: “Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn;
cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”, “sức có mạnh mới
gánh được nặng đi xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [1; tr.29]. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi
lẽ muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đạo đức
cao đẹp đối với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động, với dân tộc mình. Cái tâm, cái
đức ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí,
đồng nghiệp, với mọi người xung quanh mình. Trong xã hội nếu không có đạo đức, không
thể có được niềm hạnh phúc cho mỗi con người.
Đạo đức cách mạng không chỉ là cái gốc của người cách mạng mà còn là động lực
mạnh mẽ để người cách mạng đi đến cái trí. Khi đã có trí, hiểu biết khoa học, chủ nghĩa
Mác, phương pháp cách mạng… thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng
giữ vững được chủ nghĩa của mình đã giác ngộ, đã đi theo. Theo Bác: “Đạo đức cách
mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Có đạo đức cách mạng thì gặp
khó khăn gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước; khi gặp thuận lợi thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”,
lo hoàn thành cho tốt nhiệm vụ chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ. Không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá” [14; tr.29].
Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp to lớn, khó khăn và nặng

nề, con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài, không phải là
một đại lộ thẳng tắp. Vì vậy, chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội.
Đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người
thường nhắc lại ý của Lênin: “Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc và thời đại”. Ở đây, “đạo đức” là những phẩm chất mà con người cần
phải có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Còn “văn
minh” tức là trí tuệ, đó là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin, về những tri
18


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

thức hiện đại, về những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Trong đó,
đạo đức là nguồn gốc, nền tảng bởi vì muốn làm cách mạng thì trước hết phải có cái tâm,
cái đức trong sáng.
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã
hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động; trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả mối
quan hệ của con người đó là đối với mình, với người, với việc để mọi người phấn đấu, rèn
luyện từ đó phục vụ cho sự nghiệp cách mạng to lớn. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định
rằng đạo đức có vị trí cực kì quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta trong sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện con người mới, đặc biệt là lớp thanh niên
Việt Nam trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN
TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.2.1. Vị thế, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng
Thanh niên là “bộ phận quan trọng”, “năng động”, “tốt đẹp nhất”, “to lớn nhất” và

“hy vọng nhất” của dân tộc, là những người trẻ tuổi đang trưởng thành. Đây là những năm
tháng sung sức, đẹp đẽ nhất của cuộc đời mỗi con người. Họ là biểu tượng của sự trẻ
trung, mạnh mẽ, hoạt bát, hy vọng và ước mơ, là lớp người có trình độ học vấn, văn hóa
và lối sống… phát triển hơn lớp trước. Chính đó là sơ sở cho thấy vị thế và vai trò của họ
trong đời sống xã hội.
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách. Về mặt
sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là giai đoạn xác định trong quá trình “tiến
hóa” của cơ thể. Các nhà tâm lý học thường nhìn nhận thanh niên là một giai đoạn chuyển
tiếp từ tuổi phụ thuộc sang hoạt động độc lập với tư cách là một công dân có trách nhiệm.
Dưới góc độ kinh tế học, thanh niên được xem là một lực lượng lao động xã hội, nguồn
bổ sung cho lao động trên tất cả các lĩnh vực. Với các triết gia, văn nghệ sĩ, thanh niên lại
được định nghĩa bằng cách so sánh hình tượng “thanh niên là mùa xuân của xã hội”.
Để nhìn nhận đánh giá thanh niên một cách tương đối toàn diện, thanh niên được
hiểu là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi từ 15-30, gắn với mọi giai cấp, mọi
19


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

tầng lớp xã hội và có mặt trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Theo cuộc
tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 thì dân số trong độ tuổi này ở nước ta chiếm
36,2% dân số cả nước. Rõ ràng đây là lực lượng xã hội to lớn, giàu tiềm năng, là nguồn
lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất
nước. Có thể nói, trong tiến trình phát triển của lịch sử, ở bất cứ thời khắc nào thanh niên
cũng luôn luôn là người đi đầu trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã
hội mà lịch sử đặt ra.
Bàn về thanh niên, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định quần
chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và các giá trị văn hóa tinh thần

của xã hội, là lực lượng đông đảo có sức mạnh quyết định sự thành bại của các cuộc cách
mạng. Do đó quần chúng nhân dân chính là người quyết định vận mệnh của lịch sử, quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác là
học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản hiện đại. Trong học thuyết
của mình, C.Mác đề cập đến lớp người trẻ tuổi, đánh giá cao vai trò của thế hệ công nhân
đang lớn lên. Ông cho rằng đó là nguồn bổ sung đặc biệt quan trọng để giai cấp vô sản
được hình thành với tư cách là một giai cấp thực sự khi nó ý thức được địa vị sứ mệnh
lịch sử và tương lai của nó. C.Mác khẳng định: “Nhưng dù sao thì bộ phận giác ngộ nhất
trong giai cấp công nhân cũng nhận thức rất rõ ràng tương lai của giai cấp họ và do đó
tương lai cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn
lên” [5; tr.118].
Trong bối cảnh của xã hội tư bản đương thời, Mác cho rằng: “Cần phải bảo vệ nhi
đồng và thiếu niên công nhân khỏi những hậu quả tai hại của chế độ hiện đại”. Còn
Ph.Ăngghen đã đề xuất tư tưởng: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính hiện
thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị. Ông nhấn mạnh
rằng, thanh niên không bao giờ thỏa mãn với lý tưởng trước đây, họ muốn được tự do hơn
trong hành động, họ khao khát lập chiến công và vì sự đổi mới, họ sẵn sàng hiến dâng cả
máu và cuộc đời mình. Thanh niên sẽ có đủ sức lực và tài năng để giải quyết những mâu
thuẫn đang nảy sinh trong cuộc sống của đất nước.

20


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

C.Mác và Ph.Ăngghen luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân và đội tiên phong
chiến đấu của nó. Ph.Ăngghen là người đầu tiên đưa ra các khái niệm như “Đội quân
xung kích quyết định của đạo quân vô sản quốc tế”; “Đội hậu bị của Đảng” để gắn với

thanh niên. Ph.Ăngghen còn khẳng định chính thế hệ trẻ là nguồn bổ sung dồi dào nhất
cho Đảng khi mà Đảng của C.Mác đang, đã khẳng định vị trí của mình trên vũ đài
lịch sử (1853).
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen trong những điều kiện lịch
sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là “nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng”. Lênin
đánh giá rất cao tiềm năng của tuổi trẻ, ngay cuối thế kỷ XIX, Người đã viết: Người ta
quan sát thấy thanh niên công nhân một khát vọng nồng cháy không gì làm kìm hãm được
tới lý tưởng của dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng công việc xây dựng và phát
triển xã hội mới văn minh và hiện đại phải thuộc về thế hệ trẻ. Người nói: Theo một ý
nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính
là của thanh niên. Với tiềm năng to lớn đó mà V.I.Lênin đặt niềm tin vững chắc vào thế
hệ trẻ: Chúng ta đang đấu tranh tốt hơn cha ông chúng ta, con cháu chúng ta sẽ đấu tranh
còn tốt hơn chúng ta nhiều và chúng sẽ chiến thắng.
Lênin phê phán gay gắt những đảng viên bảo thủ, không đánh giá đúng vai trò của
lực lượng trẻ trong cách mạng, coi thường thanh niên và chế giễu sự ngây thơ, thiếu kinh
nghiệm của họ. Đồng thời, Người khẳng định lập trường của những người cộng sản chân
chính là cần phải giáo dục cộng sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Người nói: “Cho nên, là người cộng sản tức
là phải tổ chức và đoàn kết toàn thể thế hệ thanh niên, phải làm gương mẫu về giáo dục
và lý luận trong cuộc đấu tranh này. Lúc đó các đồng chí mới có thể bắt đầu và hoàn
thành công cuộc xây dựng lâu dài của xã hội cộng sản chủ nghĩa” [24; tr.254]. Người chỉ
rõ cần phải tập hợp thanh niên thành các tổ chức độc lập và tự quản, các tổ chức đó sẽ
hoạt động dưới sự lãnh đạo tư tưởng của Đảng Cộng sản, phải cuốn hút thanh niên vào
phong trào cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với phong trào thanh niên, việc
định hướng chính trị cho tuổi trẻ là điều kiện cần thiết để biến những năng lực tiềm tàng
của thế hệ trẻ thành hiện thực.
21


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên


Luận Văn Tốt Nghiệp

Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tế của
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá đúng vị trí, vai
trò quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Ngay từ
khi đất nước còn chìm đắm dưới ách nô lệ của thực dân Pháp Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thấy vai trò quyết định của lực lượng thanh niên đối với tương lai của Đông Dương.
Người nói: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại. Ngươi sẽ chết mất nếu đám thanh niên
già nua của ngươi không hồi sinh” [9; tr.62]. Từ đó Người cho rằng muốn hồi sinh dân
tộc trước hết phải hồi sinh thanh niên bởi “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà”, là “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ
trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” [28; tr.315]. Nhận thấy tầm quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ để hoàn thành sự nghiệp
cách mạng vinh quang của Đảng cần phải tập hợp, bồi dưỡng và giáo dục thanh niên.
Trong Di chúc Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan
trọng và cần thiết”.
Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta luôn coi thanh niên là vấn đề sống còn của dân
tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của “cách mạng”, Nghị quyết
Trung ương 4 khóa VII, Đảng ta đã khẳng định: “Thanh niên ta ngày nay là lực lượng xã
hội to lớn, có tiềm năng hùng hậu… có mặt mạnh cơ bản và trình độ học vấn cao hơn
trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước…”, đồng thời Đảng
cũng nhấn mạnh: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ
XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có
vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng
thanh niên”.
Với tinh thần đó, Nghị quyết đại hội IX của Đảng đã xác định đối với thanh niên cần
phải “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài
năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc”. Như vậy, những định hướng của Đảng đã không chỉ phản ánh đúng vai trò của
thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, mà còn tạo điều kiện về vật chất và tinh thần, xây
22


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Luận Văn Tốt Nghiệp

dựng cơ sở pháp lý để thế hệ trẻ tự giác phấn đấu, vươn lên, xứng đáng với truyền thống
của cha ông, của dân tộc, tiếp tục khẳng định vị thế của đất nước, của thế hệ trẻ Việt Nam
trên trường quốc tế.
1.2.2. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Khi bàn về giáo dục vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, Theo Hà Thế Ngữ thì:
“Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con
người tham gia vào cuộc sống xã hội, tham gia lao động sản xuất bằng cách tổ chức việc
truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người” [17; tr.3].
Theo Bùi Hiền và các cộng sự cho giáo dục là: “Hoạt động hướng tới con người
thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh
nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối
tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất nhân cách phù hợp với mục
đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội”
[17; tr.3].
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”.
Như vậy, từ các quan điểm trên cho thấy, giáo dục là một quá trình hai mặt, một mặt
đó là sự tác động từ bên ngoài một cách có hệ thống (gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái
độ, niềm tin, phẩm chất đạo đức… ) vào đối tượng giáo dục (sự tác động này thông qua

các nhà sư phạm đến với học sinh, sinh viên); mặt khác thông qua sự tác động này làm
cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện dần dần tiến tới sự tự giáo dục.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt xuất hiện sớm trong lịch sử xã hội loài
người. Giáo dục nảy sinh từ nhu cầu tồn tại và phát triển xã hội, nhờ có giáo dục mà tri
thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình phát triển của các thế hệ trước đó (bao
gồm: tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, niềm tin cùng những chuẩn mực, phương thức ứng
xử đã thực hiện trong các hoạt động, các mối quan hệ tiếp xúc, giao lưu) được truyền thụ
lại cho các thế hệ nối tiếp để có thể duy trì và phát triển hoạt động lao động sản xuất, hoạt
23


×