Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ts. Lê Duy Sơn
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Không chỉ hôm nay mà từ ngày xưa, tệ nạn tham nhũng luôn được ông
cha chúng ta xem đó là quốc nạn, là mối hiểm họa làm băng hoại quốc gia, là kẻ
tử thù làm suy vong dân tộc. Hơn 60 năm trước khi chính quyền cách mạng non
trẻ của chúng ta ra đời chưa đầy 5 tháng, vào ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết Quốc lệnh như bằng máu, kết tinh quyết tâm của người, tại Điều 8
Phần phạt: trộm cắp của công sẽ bị xử tử. Có thể nói như cha ông chúng ta từ
ngàn xưa nếu có cái gì đó làm chúng ta tiêu vong thì trước hết không phải là cái
gì khác mà chính là nạn tham nhũng.
Hiện nay, trước diễn biến phức tạp và trầm trọng của tệ tham nhũng để
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tăng
cường phòng, chống tham nhũng là một trọng trách cấp bách to lớn, nặng nề của
mọi ngành, mọi cấp, mọi người dân; là một vấn đề sống còn của Đảng, Nhà
nước, một mệnh hệ sinh tử đối với chế độ xã hội ta hiện nay. Vì vậy tại kỳ hợp
lần thứ 6, Quốc hội khóa XI, Chính phủ đã đề nghị với Quốc hội xem xét, cho
lập Ban phòng, chống tham nhũng do Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
làm trưởng ban và phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thường trực. Việc làm đó
được dư luận cả nước đồng tình, hưởng ứng và tin tưởng.
Trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã phát hiện và xử lý nhiều
vụ án tham nhũng có qui mô lớn như: vụ đất đai ở Đồ Sơn, vụ hảng hàng không
Việt Nam, vụ Nam Cam, vụ UPM 18…. Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta cũng
ban hành luật phòng, chống tham nhũng nhằm ngăn ngừa tham nhũng xảy ra.
Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế chẳng hạn như tình hình tham nhũng
hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, nghiêm trọng, tinh vi và nhiều biểu hiện
mới. Thực tế cho thấy khi phát hiện ra vụ án tham nhũng nghiêm trọng thì lập tức
hô hào phát động chiến dịch rồi sau đó bị chìm vào quên lãng cho đến khi vụ
việc tiếp theo xảy ra. Vấn đề chủ yếu ở đây là các biện pháp còn thiếu đồng bộ,
chưa quyết liệt và triệt để,…và cũng chính những hạn chế này đã làm cho công
tác phòng, chống tham nhũng gặp nhiều khó khăn.
SVTH: Ung Thị Ngọc Nhi
1
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ts. Lê Duy Sơn
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Tham nhũng ở Việt Nam hiện nay –
Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của luận văn: làm rõ vấn đề lý luận và thực trạng tham nhũng và
các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích nói trên luận văn có nhiệm
vụ làm rõ các vấn đề sau:
Phân tích làm rõ khái niệm tham nhũng, các hành vi tham nhũng và
nghuyên nhân và hậu quả tham nhũng.
Phân tích và đánh giá thực trạng tham nhũng: công tác phòng, chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: tham nhũng ở nước ta hiện nay – thực trạng và giải
pháp.
Phạm vi nghiên cứu: trong cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
Phương pháp đối chiếu, so sánh.
Phương pháp logíc.
Sưu tầm tài liệu, sắp xếp theo mục tiêu đề tài.
Truy cập Internet.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG
VÀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG.
Chương 2: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ PHÒNG CHỐNG
THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
SVTH: Ung Thị Ngọc Nhi
2
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ts. Lê Duy Sơn
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ
HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm của tham nhũng.
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước và tồn tại song song cùng với sự phát triển của Nhà nước. Từ khi xuất hiện
Nhà nước cho đến nay cho thấy tham nhũng như một khuyết tật “di truyền” của
quyền lực, là một loại tội phạm cực kì nguy hiểm bởi tính chất và mức độ hậu
quả của nó gây ra. Và nó trở thành một “quốc nạn” đối với các quốc gia trên thế
giới, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Do đó, để công tác phòng, chống tham
nhũng có hiệu quả đòi hỏi bức thiết chúng ta phải hiểu tham nhũng là gì? Những
nguyên nhân và hậu quả gây ra là thế nào?.
Thuật ngữ tham nhũng bắt nguồn từ tiếng Latinh - Rumpese có nghĩa là bẻ
gãy, vi phạm hoặc sai lệch.
Trong tiếng anh tham nhãng là Corruption có nghĩa là bị đút lót, bị mua
chuộc, đồi bại,... nhằm chỉ các quan chức Nhà nước đã vi phạm luân thường đạo
lý xã hội hoặc các luật lệ để kiếm nguồn lợi cho bản thân, gia đình, bạn bè, đảng
phái hoặc các nhóm người liên quan.
Theo từ điển bách khoa Đức: tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất,
hối lộ, đút lót, thường xảy ra với công chức có quyền hành. Ở Áo thì cho rằng:
tham nhũng là lừa đảo, bóc lột, hối lộ.
Theo cách hiểu thông thường hiện nay, tham nhũng là để chỉ những hành
vi tiêu cực của những cá nhân, tổ chức có quyền lực lợi dụng chức quyền chiếm
đoạt tài sản, tiền của của Nhà nước, tổ chức và nhân dân để thỏa mãn lòng tham,
tính vụ lợi cá nhân.
Còn ở Việt Nam cũng có thành ngữ “quan tham. lại nhũng” đã nêu bật lên
hành vi tham nhũng đã xuất phát từ các triều đại phong kiến. Cùng với sự phát
triển của xã hội, kinh tế, chính trị thì hoạt động phòng, chống tham nhũng ngày
càng được thực hiện trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Theo từ điển tiếng việt:
tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân và lấy của. Còn
theo luật phòng, chống tham nhũng được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005
SVTH: Ung Thị Ngọc Nhi
3
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ts. Lê Duy Sơn
thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi.
Như vậy, có nhiều quan niệm, nhiều cách hiểu về tham nhũng nhưng tất
cả đều thống nhất rằng: tham nhũng chỉ do những người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện với điều kiện là họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Những
người có thể tham nhũng chủ yếu là cán bộ, công chức quốc tế,..... có chức vụ,
quyền hạn.
1.1.2. Nguồn gốc của tham nhũng.
Nguồn gốc chung của hiện tượng tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có mầm móng từ rất lâu trong lịch
sử xã hội loài người, từ khi hình thành các bộ lạc, thị tộc nguyên thủy vào cuối
giai đoạn công xã nguyên thủy đầu thời kì chiếm hữu nô lệ - tức là từ khi bắt đầu
hình thành những tổ chức Nhà nước đầu tiên, sơ khai. Hiện tượng tham nhũng
bắt đầu từ khi những người đứng đầu bộ lạc, thị tộc do làng tham đã lợi dụng uy
tín chiếm đoạt phần của cải dư thừa làm của riêng. Đây chính là hình thức sơ
khai của tham nhũng. Nhưng tham nhũng chỉ trở thành vấn đề xã hội và phát
triển mạnh kgi xã hội bắt đầu có giai cấp, Nhà nước. Như vậy là trong các chế độ
xã hội công xã nguyên thủy không có hiện tượng tham nhũng.
Lịch sử loài người đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn, mà
qua mỗi lần thì xã hội có bước tiến mới làm sâu sắc hơn quá trình tan rã của chế
độ công xã nguyên thủy. Sau lần phân công lao động xã hội đầu tiên: chăn nuôi
tách ra khỏi trồng trọt thành một ngành kinh tế độc lập thì những mầm móng đầu
tiên của chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội đã phân chia thành người giàu và người
nghèo. Đến lần phân công lao động thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp, nô lệ đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội và lần
phân công lao động thứ ba: ngành thương nghiệp phát triển, xuất hiện tầng lớp
thương nhân.
Những thay đổi trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, chế độ thị tộc đã tỏ ra
bất lực, những xung đột về lợi ích giữa các giai cấp, giữa người giàu và người
nghèo diễn ra gay gắt. Xã hội đòi hỏi cần phải có một tổ chức mới đủ sức mạnh
để giải quyết những mâu thuẫn xung đột đó - tổ chức đó chính là Nhà nước.
SVTH: Ung Thị Ngọc Nhi
4
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ts. Lê Duy Sơn
Nhà nước ra đời cùng với bộ máy của nó kịp thời giải quyết những mâu
thuẫn, xung đột nhưng cũng từ trong bộ máy của nó kế thừa những mầm móng
tham nhũng đã manh nha từ thời thị tộc, bộ lạc giờ đã trỏ thành căn bệnh tham
nhũng tồn tại song song với bộ máy nhà nước, gắn liền với bộ máy nhà nước.
Tham nhũng là căn bệnh muôn thở, căn bệnh ung thư của mọi nhà nước. Cội
nguồn của nó chính là ở thuộc tính tự nhiên của con người kết hợp với những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định đó là các xã hôi có giai cấp và nhà nước. Khi
xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức xã hội,
một khuynh hướng thường thấy là người ta cố tình không thấy hoặc không nhìn
nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên vốn
có của nó. Nếu nhìn nhận một cách tĩnh táo, chúng ta không thể không nhìn nhận
sự tồn tại của những khuyết tật, cái mà chúng ta phải thừa nhận rằng: tham nhũng
tồn tại trong mọi thời đại, mọi nhà nước, mọi hệ thống chính trị và mọi quốc gia
dân tộc. Vì vậy, mỗi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với nạn tham nhũng
với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi.
Như vậy, tham nhũng xuất hiện rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực
và hình thành nhà nước, tham nhũng là một căn bệnh của nhân loại. Và cũng như
các bệnh xã hội khác tham nhũng là khuyết tật tự nhiên mang tính bản năng, là
một phần thuộc về bản chất đời sống con người, đồng thời cũng chịu những tác