TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
TÊN ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍNH MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ
VẬN DỤNG PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở
KIÊN GIANG HIỆN NAY
Chuyên nghành: Sư phạm Giáo Dục Công Dân
Mã nghành : 52140204
Giáo viên hướng dẫn
Th.S; GVC: Trần Kim Trung
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Quế
MSSV: 6055392
CẦN THƠ - 4/ 2009
LỜI CẢM ƠN
Được làm luận văn tốt nghiệp đó là niềm hạnh phúc không chỉ của riêng
em, mà là hạnh phúc của cả gia đình em. Có thể nói để hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này, đó chính là nhờ sự giúp đỡ của rất nhiều quý thầy cô, gia đình, địa
phương và các bạn cùng lớp.
Xin chân thành cảm ơn thầy Trầy Kim Trung đã tận tình hướng dẫn em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài để em hoàn thành luận văn đúng quy định.
Xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Văn Búa đã chỉ dẫn, giúp em xác
định đề tài nghiên cứu phù hợp với khả năng.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã truyền thụ tri thức làm nền tảng
để em thực hiện tốt nhiệm vụ học tập cũng như khả năng nghiên cứu đề tài.
Cảm ơn các bạn lớp sư phạm Giáo Dục Công Dân khóa 31 đã giúp đỡ
tôi trong thời gian thực hiện đề tài luận văn.
Sau cùng em xin gởi lời cám ơn đến Sở Giáo Dục và Đào Tạo tỉnh Kiên
Giang, Tỉnh Ủy Kiên Giang đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp cho em nhiều tư
liệu kiến thức quý giá.
Tuy nhiên với lượng kiến thức và kinh nghiệm ít ỏi của bản thân, nên
luận văn của em không tránh được những thiếu xót, kính mong được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô cùng các bạn để luận văn của em hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Quế
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Hiện nay đất nước ta đang bước sang một giai đoạn mới - đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại. Để thực hiện nhiệm vụ trên Đảng ta coi “phát triển giáo dục và
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Như vậy giáo dục - đào tạo
được coi là công cụ để đào tạo ra những con người có “đức” có “tài” để cùng chung
tay xây dựng đất nước phát triển có thể sánh vai cùng các nước phát triển trên thế
giới. Đồng thời giáo dục được coi là điều tất yếu để thực hiện có hiệu quả quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, về đào
tạo nguồn nhân lực, về sự nghiệp “trồng người”. Việc phát huy nguồn lực con người
trong sự nghiệp giáo dục có vai trò quan trọng, là chiếc chìa khóa mở ra những bước
phát triển vẻ vang cho dân tộc trên bước đường xây dựng và phát triển.
Kiên Giang là một tỉnh có nền kinh tế phát triển khá nhanh và đang dần dần
khẳng định mình đối với cả nước, bởi tiềm lực tài nguyên và trí tuệ của con người
Kiên Giang đang được phát huy mạnh mẽ. Thấy được tầm quan trọng của nguồn tài
nguyên và trí tuệ ấy, Đảng bộ, các ban ngành và nhân dân địa phương ở Kiên Giang
đã và đang tăng cường thực hiện những chủ trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực để hòa
chung vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Vì thế hơn lúc nào hết việc phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp giáo
dục cả nước nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng là một vấn đề cấp thiết.
Để hiểu rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của nguồn lực con người đối với sự
phát triển của đất nước nói chung và ở tình Kiên Giang nói riêng. Tôi đã chọn đề tài:
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, và vận dụng phát huy nguồn lực
con người trong sự nghiệp giáo dụcvà đào tạo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp đại học.
1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Mục đích của đề tài.
Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,nguồn lực con người và đánh
giá đúng thực trạng việc phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp giáo dục và
đào tạo ở Kiên Giang. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn
lực con người, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục- đào tạo ở tỉnh Kiên Giang
hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ của đề tài.
Theo mục đích trên nhiệm vụ của đề tài là:
Thứ nhất, làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về con người, những vấn
đề lý luận về nguồn lực con người, vai trò nguồn lực con người và phát
huy nguồn lực con người trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng về việc phát huy nguồn lực con người
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ những vấn đề sau đây:
Vấn đề con người, nguồn lực con người và tầm quan trọng của việc
phát huy nguồn lực con người trong giáo dục.
Phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp giáo dục Tỉnh Kiên
Giang hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Tư tưởng Hồ Chí minh rất rộng lớn, bao gồm nhiều nội dung, luận văn
chỉ tập trung trình bày tư tưởn của Bác về con người. Từ đó, làm rõ thực
trạng phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo
ở Kiên Giang hiện nay
2
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
4.1 Cơ sở lý luận.
Dựa trên quan điểm Mac- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời sử dụng
kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được nghiên cứu và công bố
của một số tác giả liên quan đến đề tài.
4.2 Phương pháp nghiên cứu cảu đề tài.
Để thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng các phương pháp:
Phương pháp logic, phương pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp.
Phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp đánh giá.
4. KẾT CẤU LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văm gồm 3
chương, 7tiết, với độ dài 65 trang.
3
NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
VÀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có ý nghĩa quan
trọng để hiểu bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh trong mối quan hệ với những tinh hoa
giá trị của dân tộc và nhân loại. Bởi vì mọi học thuyết ra đời đều kế thừa những tư
tưởng trước đó và phát sinh, phát triển trên mảnh đất hiện thực, phản ánh lợi ích của
giai cấp, dân tộc và là kết quả hoạt động nhận thức của một con người, một tập đoàn
nhất định.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là sự tích hợp của nhiều nền văn hóa.
Những giá trị tư tưởng về con người của phương Đông và phương Tây được thể
hiện nhuần nhuyễn trong quá trình khai thác, sử dụng những giá trị truyền thống
dân tộc. Nó phản ánh những cuộc vận động lớn của dân tộc, những quy luật phát
triển của thời đại nhằm giải phóng con người. Đó là kết quả tất yếu của Hồ Chí
Minh một người đi nhiều, hiểu rộng, tiếp xúc với nhiều nền văn minh và sử dụng
nhiều ngôn ngữ lớn trên thế giới.
1.1.1 Từ truyền thống con người Việt Nam.
Điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người chính là sự
phát huy những giá trị truyền thống về con người Việt Nam trong cách mạng vô sản
có nhiều quan niệm khác nhau về truyền thống, có thể hiểu: Truyền thống là tập hợp
những tư tưởng, tình cảm, thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng
đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống được thể hiện trong các chế
định xã hội, chuẩn mực hành vi, các giá trị tư tưởng, phong tục tập quán và lối
sống…, các tác dụng “Khống chế vô hình” đến hành vi con người nó là sức mạnh
“ nội sinh”, tiềm năng, là ”bản sắc” của dân tộc, của con người Việt Nam đã
có nhiều công trình nghiên cứu về truyền thống dân tộc nói chung và truyền thống
4
con người Việt Nam nói riêng. Có thể khái quát trên một số nội dung cơ bản về
truyền thống con người Việt Nam; tinh thần yêu nước ý chí dân tộc, ý chí tự lực, tự
cường: lao động cần cù, sáng tạo, nhạy cảm đối với cái mới; biết đối phó linh hoạt,
ứng xử mềm mỏng, biết thích nghi và hội nhập tồn tại và phát triển; tinh thần cộng
đồng, truyền thống đoàn kết, nhân ái, lòng bao dung, độ lượng, hiếu thảo, coi trọng
tình nghĩa tinh thần thực tế coi trọng kinh nghiệm, tôn trọng người già; hiếu học;
tôn sư trọng đạo có tài nghệ quân sự anh hùng, mưu trí, dũng cảm, trung thực giản
dị …Bên cạnh những giá trị tích cực còn tồn tại những mặt hạn chế như; tính cục
bộ, địa phương, tâm lí bình quân chủ nghĩa; tác phong lề mề luộm thuộm, qua loa
đại khái; thiếu ý thức kỉ luật, tự do tùy tiện; lối làm ăn nhỏ, lẻ, kém hoạch toán,
thiển cận, hẹp hòi, cầu an, ăn xổi, tư duy phân tích, thực nghiệm và lí luận yếu…
Những mặt tích cực hạn chế của con người truyền thống Việt Nam có
nguyên nhân từ đặc điểm kinh tế xã hội văn hóa trong lịch sử. Người Việt hay là
cộng đồng người Việt là sự cộng cư giữa người Việt Cổ, thời đại hay văn hóa Hòa
Bình, với người Việt di cư từ phương Bắc xuống, đó là một cộng đồng thống nhất
trong sự dị biệt giữa các bộ lạc, hình thành nên một dân tộc với một lịch sử lâu dài
hơn mấy nghìn năm. Nền văn minh Việt Nam là nền văn minh nông nghiệp, kết hợp
giữa trồng lúa nước, chăn nuôi cùng với tiểu công nghiệp, nghề chài lưới, kinh tế
tiểu nông, làm nền tảng với những thiết chế cộng đồng bền vững: gia đình –làng ,xã
và quốc gia đân tộc.Vì vậy, kinh tế nông nghiệp, cư dân nông nghiệp, xã hội nông
thôn là ba chỉ số quan trọng để nhận diện con người Việt Nam. Mác viết:
“Tiểu nông là một khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều
sống trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng lại không nằm trong những mối quan
hệ nhiều mặt đối với nhau …, đại khái cũng giống như một cái bao tải đựng những
củ khoai tây”[7; tr8].
Đây là thực chất địa vị, tư tưởng của giai cấp tiểu nông. Tuy nhiên, khi
nghiên cứu lịch sử Việt Nam còn thấy những đặc trưng khác. Đó là vai trò của làng,
xã, gia đình trong các thiết chế xã hội. Làng xã Việt Nam là tâm điểm của văn minh
nông nghiệp, là tổ chức cơ bản của xã hội là môi trường nhân văn tổng hợp các
quan hệ kinh tế, xã hội văn hóa, địa vị, huyết thống, giai cấp… Làng, xã là nơi bảo
5
tồn những giá trị truyền thống dân tộc. Đối với người Việt Nam, gia đình là một tế
bào của xã hội, một đơn vị kinh tế, xã hội hết sức quan trọng. Tình cảm gia đình là
cao quý nhất. Đối với người dân An Nam, cái có tính truyền thống và thiêng liêng
nhất là đạo thờ cúng tổ tiên. Người Việt coi trọng các mối quan hệ cộng đồng, gia
đình, dòng họ. Đây là cơ sở kinh tế xã hội hình thành lòng nhân ái. Tinh thần cộng
đồng, đoàn kết, hiếu thảo…, đồng thời nó cũng bộc lộ những hạn chế, tiêu cực như:
Tư tưởng cục bộ, dòng họ, phe giáp, gia trưởng, dân chủ phường hội, lối làm nhỏ
lẻ… trong con người Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử vẻ vang đấu tranh bảo vệ chủ quyền của
dân tộc. Nó đã hình thành nên những truyền thống cực kì quý báu, đó là chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí quật cường, niềm tự tôn dân tộc, tài nghệ
quân sự của người Việt Nam.
Theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và
tư tưởng của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên
qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại… yêu nước trở thành một triết
lý xã hội và nhân sinh của con người Việt Nam”[7; tr40].
Văn hóa- tư tưởng, nếu nhìn một cách tổng quát suốt chiều dài lịch sử Việt
Nam, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau cũng có thể nổi bật các điểm sau: Văn hóa
Việt Nam là văn hóa thực vật, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước với nền kinh tế
dựa trên chế độ sở hữu nhỏ là phổ biến. Đặc điểm này chi phối tới bản sắc văn hóa
Việt Nam là một nền văn hóa ngôn từ, phổ biến là truyền miệng, mà chủ yếu rút ra
từ thực tế, chứ không mang nặng hình thức chủ nghĩa, một hệ thống khoa học cơ
bản hay lý thuyết. Vì vậy tìm hiểu văn hóa hay con người Việt Nam không chỉ dừng
lại ở sổ sách, thư tịch mà phải tìm hiểu trong bản thân đời sống nhân dân, trong thi
ca, lễ nghi, phong tục tập quán, giao tiếp. Trong lịch sử văn hóa, tư tưởng Việt
Nam, có thể nói không có một thuyết chủ quan nào chi phối. Ở vị trí giao lưu với
các nền văn minh lớn: Trung Quốc, Ấn Độ, người Việt tiếp thu các nền văn hóa ấy
phục vụ cho nhu cầu, mục đích của từng thời kỳ cũng như cho sự phát triển của
chính mình. Vì vậy, Nho, Phật, Lão giáo, văn minh phương Tây đều được tiếp thu
có chọn lọc, được Việt hóa. Nền văn hóa Việt Nam luôn tồn tại trong thế độc lập
6
đan xen giữa ba yếu tố: Truyền thống- giao lưu và đổi mới. Nó gắn chặt truyền
thống dựng nước và giữ nước, trong đó chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản nhất
để đánh giá, chọn lọc, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa nước ngoài. Về kết
cấu tư tưởng, thế giới quan triết học Việt Nam thuộc thế giới quan phức tạp là một
thể kết hợp Nho - Phật - Lão. Về khuynh hướng tư duy, nó nặng về các vấn đề xã
hội và nhân sinh, mà nhẹ về vấn đề tự nhiên và hình thức tư duy của con người. Nó
chú trọng lý luận xây dựng chính trị - xã hội và luân lí hơn các khía cạnh khác. Nó
thiên về giáo dục đạo làm người hơn là cung cấp cho con người những nhận thức
mới mẻ về thế giới quan bên ngoài cũng như thế giới nội tâm… Có thể nói, lịch sử
tư tưởng của dân tộc ta phản ánh cuộc sống và nuôi dưỡng dân tộc bằng một nền tư
tưởng, một nền tư duy Triết học hành động chiến đấu. Những yếu tố thần bí, siêu
nhiên không sâu đậm mà chỉ thoáng qua, phần cố yếu là vấn đề nhân sinh thực tiễn.
Chính vì nó gắn liền với thực tiễn, với cuộc sống nên ít duy tâm, thần bí mà là một
tư duy theo khuynh hướng duy vật. Nhiều khi mang yếu tố biện chứng sắc xảo.
Những đặc điểm kinh tế - xã hội - văn hóa đó ảnh hưởng đến con người Việt
Nam. Qua một lịch sử lâu dài của dân tộc, đã khắc họa nên bản sắc con người, bản
sắc dân tộc, là tâm hồn, là tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trước hết bắt nguồn từ việc tiếp thu, lựa
chọn, bổ xung và phát huy những giá trị truyền thống trong điều kiện mới của cuộc
cách mạng vô sản. Nó còn biểu hiện ở chính cuộc đời, tư tưởng của Hồ Chí Minh,
biểu tượng cao đẹp nhất của tâm hồn, tính cách và văn hóa Việt Nam. Đúng như
đồng chí Phạm Văn Đồng viết Hồ chủ tịch là người Việt Nam hơn bất cứ người
Việt Nam nào khác, “là hình ảnh của dân tộc Việt Nam hôm qua và ngày mai”.
Chúng ta có thể khái quát sự kết tinh những giá trị ấy trên một số nội dung sau. Hồ
Chí Minh nhận thức rõ vai trò hết sức quan trọng của giá trị truyền thống con người
Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng vô sản. Sinh trưởng trong một gia đình khoa
bảng , ở một miền quê nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”, cộng với tư chất thông minh
hiếm có, đặc biệt là sự yêu thích môn lịch sử, đã giúp Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc lịch
sử truyền thống con người và đất nước con người Việt Nam, điều này được chứng
minh trong bài viết Lời than vãn của bà Trưng Trắc 1922; Lịch sử nước ta 1942 …
7
trong điều kiện không có tài liệu nghiên cứu. Nó còn thể hiện ở lời trích dẫn chính
xác tư liệu nước ngoài nhằm khẳng định niềm tự hào dân tộc: Mặc dù là một thuộc
địa nhưng dân tộc Việt Nam trước con mắt người Pháp vẫn là một dân tộc đáng
kính trọng vì có một lịch sử lâu dài, có một nền văn hóa phong phú và phát triển,
một xã hội được tổ chức thuần thục trước cả dân tộc Pháp với những con người
những bản tính tốt đẹp .
Cách nói của Mac, muốn hiểu con người, sự vật thì phải hiểu lịch sử của nó.
Chính sự hiểu biết sâu sắc con người Việt Nam mà Hồ Chí Minh thấy được sức
mạnh của giá trị truyền thống nếu được phát huy.Vì thế, trong khi vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mac – Lênin để vạch ra con đường cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh luôn đòi hỏi phải dựa trên những giá trị truyền thống. Xem xét cơ sở lịch sử
của chủ nghĩa Mac, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông, thấy được chủ
nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại, thậm chí là duy nhất của các dân tộc thuộc địa, gắn
kết chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đây là vấn đề vừa có tính
nguyên tắc, vừa có ý nghĩa là một phương pháp cách mạng vô sản trong một nước
thuộc địa nửa phong kiến, xã hội lạc hậu, kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, Hồ Chí
Minh đã hưởng ứng giá trị truyền thống gắn bó hữu cơ với mục tiêu, lí tưởng của
chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi còn ở Pari, viết báo người cùng khổ, Hồ Chí Minh đã
luận chứng về khả năng chủ nghĩa cộng sản có thể thực hiện ở Châu Á, về sự kết
hợp giữ cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa giá trị truyền
thống với giá trị của chủ nghĩa xã hội. Trong những thời điểm đặc biệt của thời
điểm lịch sử, ở Hồ Chí Minh luôn có mối liên hệ giữa hiện đại và truyền thống thắp
hương và dự lễ kỷ niệm Lý Bát Đế ngày 19 tháng 3 năm 1945 khi nước vừa giành
được độc lập; trên đường về thủ đô ghé thăm các vua Hùng, ngày 19-9-1954; thăm
Côn Sơn, khu di tích lịch sử thờ vị anh hùng Nguyễn Trãi ngày 15-2-1965… Những
cuộc viếng thăm đầy ý nghĩa ấy là thể hiện tình cảm trân trọng với lịch sử vẻ vang
của dân tộc. Sức mạnh của các giá trị truyền thống chính là khả năng điều chỉnh
nhận thức và hành vi của con người, đó là cơ chế bên trong, khả năng tự ý thức, tự
điều chỉnh của cả cộng đồng người trước yêu cầu phát triển của xã hội.
8
Kế thừa, phát huy nâng cao những truyền thống tốt đẹp của con người Việt
Nam, cải tạo hay xóa bỏ những truyền thống lạc hậu, tiêu cực của di sản quá khứ.
Hồ Chí Minh Viết: “ Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì
cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền
phức phải sửa đổi lại cho hợp lý… cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cái gì
mới mà hay thì ta phải làm” [7; tr45].
Từ đó người kế thừa và phát huy tất cả những giá trị truyền thống của con
người Việt Nam vào sự nghiệp cách mạng mà tiêu biểu những giá trị ấy là chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, đạo lý làm người.
Hồ Chí Minh đề cao truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do lên trang giá
trị cao nhất của con người đó là một truyền thống quý báu, bắt nguồn từ sự hình
thành sớm của dân tộc và trải qua nhiều cuộc chiến tranh. Có thể nói, chủ nghĩa yêu
nước là “sợi chỉ đỏ” của các giá trị truyền thống, là cội nguồn đời sống tinh thần
của người Việt Nam. Nó thể hiện ý thức về chủ quyền đất nước, khẳng định cái
chung về nòi giống, kinh tế, tiếng nói, lãnh thổ, văn hóa, phong tục tập quán, đặt lợi
ích dân tộc lên cao nhất, coi dân tộc, nhân dân, quốc gia làm trọng. Truyền thống đó
được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới: Yêu nứơc là thà hy sinh tất cả chứ
không chịu làm nô lệ, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, yêu nước là yêu nhân
dân, yêu chủ nghiã xã hội, là tinh thần quốc tế cao cả.
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là đặc trưng cơ bản của con người Việt
Nam Hồ Chí Minh viết: “ Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn
kết thì nước ta bị nước ngoài xâm lấn”[7; tr46]. Truyền thống đoàn kết, ý thức cộng
đồng dân tộc: nền kinh tế nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên luôn phải đối mặt với
các tai họa do thiên nhiên mang đến như lũ lụt, gió bão.Từ thời Hùng Vương, về cơ
cấu tổ chức xã hội là công xã thị tộc, công xã nông thôn - bộ lạc – liên minh bộ lạc
–nước; về cơ cấu tổ chức nhà nước: tộc trưởng – bồ chính – phụ đạo, lạc tướng –
Hùng Vương, song khi những nhân tố kinh tế - xã hội phát triển phá vỡ cơ cấu đó,
thì về cơ bản, cấu trúc dọc của xã hội Việt Nam là Nhà – Làng - Nước. Làng xã
Việt Nam là môi trường xã hội tổng hợp duy trì quan hệ giữa người với người về
9
sản xuất, văn hóa, sinh hoạt, tín ngưỡng. Đặc biệt là phải đương đầu với những cuộc
chiến tranh xâm lược, khi so sánh lực lượng thường không có lợi đối với nước nhỏ,
dân ít. Sự tồn vong của dân tộc, của giống nòi, từ khát vọng độc lập tự do, tính chất
chính nghĩa của cuộc chiến tranh…, vừa là cơ sở, vừa yêu cầu cần phải xây dựng
khối đoàn kết toàn dân, từ trên xuống dưới, từ vua cho đến thứ dân. Những giá trị
“vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận”, “ tận dân vi binh”…, là biểu hiện truyền
thống đoàn kết, ý thức cộng đồng của người Việt Nam để tạo ra sức mạnh cho dân
tộc trường tồn trong lịch sử. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực
kì quý báu của Đảng và của dân ta. Đầu những năm 20 của thế kỉ XX, trong quá
trình đi tìm con đường cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một trong
những nguyên nhân mất nước và dân tộc chưa được giải phóng chính là sự yếu kém
về tổ chức, không có sự đoàn kết rộng rãi. Muốn giải phóng dân tộc thì cuộc cách
mạng đó phải có tính chất quần chúng, phải được chuẩn bị trong quần chúng, phải
thành lập mặt trận nhằm tập hợp mọi lực lượng đánh đổ kẻ thù. Những giá trị
truyền thống đó là cơ sở hình thành tư tưởng và chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh. Trên thực tế, tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, suốt hơn nửa thế kỉ qua
đã trở thành ngọn cờ tư tưởng Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thấm sâu vào suy nghĩ
tình cảm, hành động của tất cả người Việt Nam yêu nước và tạo thành sức mạnh,
thành động lực tiến hóa của cả một dân tộc.
Những giá trị đạo đức nhân sinh hay còn gọi là đạo lí làm người được hình
thành từ rất sớm. Đó là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức trong
lối sống, nếp sống, giao tiếp của người Việt Nam, được biểu hiện chủ yếu ở nền văn
hóa dân gian, truyền miệng, kinh nghiệm và hành vi đạo đức. Nội dung đạo làm
người rất phong phú: quan trọng nhất là đạo thờ tổ tiên, thờ những người có công
với nước, “uống nước nhớ nguồn”; nhân ái, “một mặt người hơn mười mặt của”,
“nhiễu điều phủ lấy giá gương”…, tiết kiệm, cần cù, hiếu học, sự hòa đồng, hòa
mục, tín nghĩa giữa vợ chồng, anh em, bạn bè, hiếu thảo với cha mẹ: trung thực,
mưu trí, dũng cảm... Tất cả những giá trị truyền thống đó đã được phát huy và tiếp
thu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Cũng giống như nhân dân từ bao đời
nay, Hồ Chí Minh thường trích dẫn tục ngữ, ca dao để diễn đạt, đặc biệt là việc nêu
10
những tấm gương lịch sử, những chuyện người thật, việc thật, việc tốt rất phong phú
trong cuộc sống đời thường. Người quan tâm đến ý nghĩa thực tiễn của các nguyên
lí đạo đức, chú ý thực hành đạo đức, nêu gương không chỉ là để giáo dục nhân dân
mà còn đối với bản thân.
Cùng với quá trình xây dựng xã hội mới, con người mới, bên cạnh việc kế
thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp và việc loại bỏ dần những ảnh
hưởng, tàn tích lạc hậu, xấu xa của xã hội cũ. Đó là: thói quen trọng nam kinh nữ;
hội hè, đình đám, hiếu hỉ, lãng phí thời gian, tiền bạc; tập quán hạch đoán; thiển
cận, hẹp hòi; tâm lí gia đình, địa phương cục bộ, phe giáp, dòng họ; ngại đấu tranh
phê bình, dĩ hòa vi quý, thích những biện pháp nửa vời, trì trệ, bảo thủ, tự do, tùy
tiện… biểu hiện trong vô số những thứ mà Hồ Chí Minh gọi là bệnh: quan liêu, cậy
quyền, lãng phí, tham ô, … bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân đẻ ra tất cả những tệ
nạn đó. Hồ Chí Minh cho rằng: “Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng
mang trong mình hoặc nhiều hay ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói
quen…”.Muốn xây dựng xã hội mới thì cần phải diệt thói hư, tật xấu của xã hội cũ
còn lại, những thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch, nó ngấm ngầm
ngăn trở cách mạng tiến bộ. “Chúng ta lại không thể chấn áp nó, mà phải cải tạo nó
một cách rất cẩn thận, rất khó chịu, rất lâu dài”.
Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đào tạo, dìu
dắt nhiều thế hệ cách mạng xứng đáng với “con Lạc cháu Hồng”.
Đó là lớp người tận trung với nước, tận hiếu với dân: có đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có lí tưởng cộng sản, có tinh thần làm chủ
tập thể…là hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa, định hướng cho những giá trị
vừa dân tộc vừa hiện đại. Hồ Chí Minh đã cơ cấu lại, phát huy cao độ những giá trị
truyền thống trong các chuyển biến mới của dân tộc. Bản thân Hồ Chí Minh là một
nhân cách tiêu biểu, đó là tấm gương tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên cường,
tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân thắm thiết, đạo đức
chí công vô tư, tác phong; kiêm tốn, giản dị. Tư tưởng và đạo đức cao cả của Người
mãi mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn chúng ta.
11
1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân văn phương Đông và phương
Tây.
Những ảnh hưởng tư tưởng nhân văn phương Đông
Ảnh hưởng từ Nho giáo
Cần khẳng định rằng trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa Trung
Hoa có ảnh hưởng rất lớn mà Nho giáo là một bộ phận quan trọng nhất. Theo cách
học ngày xưa, không chỉ là việc học Nho mà còn mở rộng trong đủ kinh, truyện, che
tử, sự, văn. Bản thân Nho giáo có cơ sở tự Kinh, Thư, Lễ, Nhạc của nhà Tây Chu,
tức là Nho nguyên thủy. Do đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài Nho còn thấy cả
vốn kiến thức rộng lớn về văn hóa Trung Hoa Tả truyện, Chiến quốc sách, nhất là
Đường thi, tư tưởng về trồng người của Quản Trọng, phép dùng binh của Tôn tử và
nhà sách của Nhị thập tứ hiếu …với một học vấn uyên thâm về văn hóa Trung Hoa
như vậy, cho thấy Hồ Chí Minh đánh giá được những giá trị tích cực và những hạn
chế của Nho giáo.
Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho Hồ Chí Minh đã có đủ mười năm
đèn sách tiếp thu qua cụ thân sinh và những nhà Nho yêu nước như Vương Thúc
Độ, Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý. Với tư chất thông minh sẵn có, Hồ Chí
Minh không chỉ học Nho qua thư tịch, kinh điển mà còn học thứ nho đã được việt
hóa trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Đặc biệt là học Nho giáo đã tỏ ra bất lực
trước thời cuộc và đang được sàng lọc qua chủ nghĩa yêu nước,qua các phong trào
đấu tranh của các dân tộc chống ngoại xâm quyết liệt thì Nho giáo càng bộc lộ mâu
thuẫn của nó. Sau này trong quá trình tiếp thu các giá trị văn hóa phương Tây
Thì cái vốn Nho học càng cô đọng, kết tinh lại và có vị tri xứng đáng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Vì vậy Hồ Chí Minh tiếp thu những gì ở Nho
giáo: khai thác, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp đối với con người Việt
Nam mới, coi trọng đạo đức làm gốc. Hồ Chí Minh nói: “Dạy cũng như học phải
chú trọng cả tài lẫn đức”. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng.
Nếu không có đạo đức cách mạng thì cái tài vô dụng. Khổng Tử lấy chữ “Nhân”có
nhiều nghĩa khác nhau.Theo Cao Xuân Huy “Trong sách Luận ngữ, có 105 chữ nói
đến chữ nhân giống chỗ nào”. Quy tụ chữ “Nhân” là đức tính hoàn thiện là cái gốc
12
đạo đức của con người. Nhấn mạnh chính tâm, tu nhân coi là con đường cơ bản để
hoàn thiện nhân cách, Hồ Chí Minh nhiều lần nói về sự cần thiết phải chính tâm:
“Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà
mình muốn người khác chính là vô lí” và chúng ta phải nhớ câu “chính tâm tu
thân” để “ trị quốc, bình thiên hạ ” mà điều quan trọng chính là tu dưỡng bản thân,
là sự nêu gương thực hành đạo đức, một điều được Nho giáo đặc biệt chú ý, Theo
Hồ Chí Minh, mình trước hết phải siêng năng, trong sạch được; cán bộ, đảng viên
phải miệng nói tay làm xung phong gương mẫu; muốn cải tạo thế giới, cải tạo xã
hội thì trước hết phải cải tạo bản thân. Đề cao hiếu học, trọng học, Người viết:
“Người có học mới có tiến bộ, càng học càng tiến bộ”. Coi dân làm gốc nước, dân
là qúy thực hiện tư tưởng bản thân, Hồ Chí Minh viết:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ”
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
Sử dụng thuật ngữ cũ nhưng bổ sung, sửa đổi, đem lại cho nó ý nghĩa mới.
Những phạm trù: nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng, liêm, chính..., được Hồ Chí Minh khai
thác mặt tích cực nhất, làm thay đổi về bản chất nội dung đạo đức mới, đạo đức
cách mạng.
Những vấn đề chính tâm tu thân, vai trò đạo đức coi trọng học tập, sự nêu
gương giáo dục từ viêc nhỏ đến việc lớn, thực hành đạo đức, coi trọng học tập, sự
nêu gương từ việc nhỏ đến việc lớn, thực hành việc nhỏ đến việc lớn, thực hành đạo
đức, tính người, lối sống, phép xử thế, giao tiếp, vấn đề nhân cách lý tưởng… đều
được Hồ Chí Minh sử dụng với nội dung mới.
Trân trọng những mặt tích cực, phê phán những mặt tiêu cực của những con
người Nho giáo.
Mặt tích cực về con người của Nho giáo: đó là những con người sống có lý
tưởng; có sự rèn luyện công phu; sống trong sạch; liêm khiết; kiên cường bất khuất;
13
sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn; con người có nghĩa vụ cao cả không chỉ đối với mình
mà còn có nghĩa vụ đối với người khác;…..
Mặt tiêu cực: là con người của nghĩa vụ nên họ không bộc lộ rõ được cá tính;
phát triển được tài năng; hi sinh cái tôi, tự do cá nhân và lý thú của con người; dễ
bằng lòng với thực tại, thiếu những hành động cải thiện cách mạng, sống theo tôn ti,
trật tự đẳng cấp xã hội. Nho giáo nhấn mạnh khả năng hoạt động chính trị - xã hội
và những phẩm chất chính trị xã hội. Nho giáo chia con người thành nhiều loại:
Thánh nhân, hiền nhân, quân tử, trượng phu, sĩ, tiểu nhân… căn cứ vào đạo đức,
nhân cách chứ không dựa trên cơ sở kinh tế - chính trị. Hình mẫu lý tưởng của con
người Nho giáo là không tưởng vì nó không chú ý đến điều kiện hiện thực, cho việc
xây dựng con người. Nó tách con người ra khỏi mối quan hệ lịch sử cụ thể. Vì vậy
đó là con người trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp, mang tính chất phổ biến, vĩnh
cửu… đây là những nội dung mà Hồ Chí Minh phê phán dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Hồ Chí Minh ít nói về ngũ luân, tam cương, tam tòng, tứ đức, không đề cao mẫu
người quân tử, đặc biệt là thái độ coi thường chân tay, hạ thấp vai trò người phụ nữ,
tư tưởng đẳng cấp… Đánh giá một cách xác đáng vai trò của Nho giáo, Hồ Chí
Minh viết: “ Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh
thần bằng cách đọc các tác phẩm của khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc
các tác phẩm của Lênin” [7; tr60].
Ảnh hưởng từ phật giáo
Về ảnh hưởng của phật giáo đối với Hồ Chí Minh là một vấn đề cần phải
nghiên cứu. Sinh ra trong một nhà Nho nghèo, sống gần gũi với nhân dân, thì những
ảnh hưởng Phật giáo từ tư tưởng, tình cảm, phong tục tập quán lối sống… rất sâu
sắc. Bà ngoại Nguyễn Thị Kép, là người rất mộ đạo, thường siêng năng đi chùa,
chăm làm việc thiện. Thân sinh là Nguyễn Sinh Sắc, sau khi mất chức đến sống tại
Cao Lãnh (Đồng Tháp) thường cư ngụ tại các chùa, vừa nghiên cứu giáo lý Phật
vừa chữa bệnh cứu người. Bản thân Hồ Chí Minh thời kỳ ở Thái Lan (7/1928 đến
11/1929), một nước là đạo phật là quốc đạo. Hồ Chí Minh để tuyên truyền cách
mạng, chắc chắn cũng phải nghiên cứu phật pháp, có thời gian phải lánh vào chùa,
14
tạm cắt tóc đi tu. Cuối năm 1945 khi thăm chùa Bà Đá ( Hà Nội), Hồ Chí Minh đã
kể chuyện các vị sư ở Ngũ Đài Sơn xuống núi đánh ma vương, cứu dân độ thế.
Giáo lý phật giáo rất uyên thâm nhưng là một tôn giáo, thần bí: quan niệm về
luân hồi, nghiệp báo; bi quan yếm thế giải thích sai lầm về nguyên căn nỗi khổ và
con đường giải thoát; từ bỏ đấu tranh, cải tạo xã hội… Song Phật giáo có nhiều mặt
tích cực mà Hồ Chí Minh khai thác đó là:
Phản đối chế độ bất công, chế độ đẳng cấp bằng thái độ phủ định trật tự
xã hội hiện thời, đòi bình đẳng tự do, dân chủ cho mọi người. Hồ Chí
Minh viết:“ Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu
chúng sinh ra khỏi khổ nạn người phải hi sinh tranh đấu từ lũ ác ma”
Khuyên con người sống có đạo đức, từ bi, bác ái, hỷ xả, quan tâm giúp
đỡ người khác, chăm làm việc thiện, trong sạch, giản dị, giữ giới
Phát huy truyền thống “ nhập thế” của Phật giáo trong lịch sử chống
ngoại xâm, bảo tồn văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự đoàn kết tôn
giáo, coi việc đạo như việc đời hướng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới. Theo Hồ Chí Minh, làm phật phép không xa
rời thế gian, kêu gọi mọi người hãy tham gia cứu đói, diệt dốt. Người đã nêu cao
tấm gương “phụng đạo yêu nước” của hòa thượng Thích Quảng Đức: ngọn đuốc tự
đốt mình của hòa thượng Thích Quảng Đức đang góp phần vào đám lửa cháy cơ đồ
phát xít của Mỹ – Diệm.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân văn phương Tây
Nền nhân văn phương Tây nói chung và chủ nghĩa nhân văn phương
Tây nói riêng đã có ảnh hưởng ít nhiều ngay từ khi Hồ Chí Minh còn học ở trừơng
tiểu học Vinh, trường tiểu học Đông Ba và trường quốc học Huế. Mặt khác thông
qua cuộc vận động dân tộc, dân chủ diễn ra hết sức sôi nổi như: phong trào Đông
Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… qua đó từng bước ảnh hưởng đến nước ta.
Văn minh phương Tây với những tự do dân quyền, dân ước, dân chủ, bác ái… xuất
hiện ngày càng nhiều, không chỉ lôi cuốn những nhà Nho tiến bộ mà còn có sức hấp
dẫn đặc biệt với thế hệ trẻ. Hồ chí Minh nhớ lại: “ khi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi
được nghe ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái… Và thuở ấy, tôi rất muốn làm
15
quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì bí ấn ở đằng sau chữ ấy”. Sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc, dân chủ trước những câu hỏi lớn
của dân tộc: Nguyên nhân vì sao mất nước? Con đường cứu nước như thế nào? Lực
lượng nào có thể giải phỏng đất nước khỏi họa xâm lăng đang cần giải đáp, càng
thúc đẩy Hồ Chí Minh đền với nền văn minh trên con đường cứu nước.
Chủ nghĩa nhân văn phương Tây xuất hiện trong thời kỳ văn hóa phục hưng,
bắt đầu từ thế kỷ XIV ở Italia và hoàn thiện vào thời kỳ khai sáng thế kỷ XVII –
XVIII. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản là cơ sở chủ nghĩa nhân
văn phương Tây, nó kết hợp với những giá trị tích cực của đạo Cơ Đốc, một nền
tảng văn hóa tinh thần của Phương Tây. Nói đến chủ nghĩa nhân văn Châu Âu mà
không thấy vai trò ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc thì thật là một thiếu sót lớn. Trải qua
nhiều thế kỷ phát triển, chủ nghĩa nhân văn phương Tây một thành tựu đặc sắc của
tư tưởng nhân loại.
Hơn 10 năm đi khắp châu Á, Phi, Mỹ đặc biệt là thời gian ở Pháp - nơi giao
lưu của nền văn hóa lớn, của cuộc cách mạng tư sản điển hình, nơi hội tụ của nhiều
chính khách nổi tiếng, nhiều văn hóa lớn trên toàn thế giới; sống hòa bình với nhân
dân lao động, tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội của Đảng xã hội
Pháp, câu lạc bộ Phobua , tiếp xúc nhiều nhà văn hóa, nhà hoạt động xã hội nhà
hoạt động chính trị nổi tiếng: M. Casanh, P.V.Cutuyrie… hăng hái tham gia tranh
luận, viết báo, viết văn, đi du lịch…
Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của cộng hòa Pháp 1789; đã dịch tinh thần luật pháp của
Môngtexkio, những tên tuổi của Gớt, Bethoven, Anhxtanh được nhắc đến khi người
thăm cộng hòa Đức 1957; những nhà khoa học Rugio Baycon, Bruno, Xecvet, được
ghi nhận là những người góp phần vào sự tiến bộ xã hội, cho thấy những giá trị của
chủ nghĩa nhân văn phương Tây ở Hồ Chí Minh là rất sâu sắc và nhuần nhuyễn.
Điều này được chứng minh ở những bài báo như: “Nền văn minh thượng đẳng”
đăng ở báo LeLibertaire ngày 13/9/1921 đặc biệt ở bản tuyên ngôn độc lập sau này.
16
1.1.3. Quan niệm con người của chủ nghĩa Mac – Lênin
Học thuyết Macxit về con người không chỉ kế thừa những giá trị thời
phục hưng và khai sáng, triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp,
mà là học thuyết cách mạng - kết quả của quá trình đấu tranh giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản trong xã hội hiện đại.
Chủ nghĩa Mác không có nhiều tác phẩm chuyên nghiên cứu về con người,
nhưng ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác là: Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ
nghĩa xã hội khoa học, lại luôn xuất phát từ những vấn đề con người và nhằm mục
tiêu cuối cùng là con người. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên như: Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hegen (1843), Bản thảo kinh tế triết học (1844) đã
có những mầm mống của một thế giới quan về con người. Đặc biệt là trong Hệ tư
tưởng Đức (1845-1846) đã phác thảo tương đối có hệ thống về vấn đề con người
trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giai đoạn chín muồi của triết học
Mác được đánh dấu bằng các tác phẩm: Chống Duyrinh (1891); Sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức (1886)… khẳng định tính nhất quán, tính khoa học trong sự
phát triển của học thuyết Macxit về con người. Tiếp thu có phê phán những tư
tưởng về con người trong lịch sử triết học, Mac – Ăngghen đã dần dần hoàn chỉnh
những vấn đề hết sức cơ bản, đặt cơ sở vững chắc cho thế giới quan và phương
pháp luận khoa học cho vấn đề con người.
Học thuyết Macxit về con người bao gồm nhiều nội dung: mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên; bản chất xã hội của con người; Cá nhân và xã hội, vai trò
của cá nhân và nhân dân trong lịch sử; bản chất ý thức, những vấn đề nhận thức của
con người….
Có thể khái quát bản chất học thuyết Macxit về con người là: Giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử, học thuyết Macxit vạch ra những quy luật vận
động khách quan của xã hội và luận chứng về những điều kiện hiện thực để giải
phóng con người. Đó là một quá trình phát triển lý luận gắn liền với thực tiễn đấu
tranh của giai cấp vô sản trong điều kiện xã hội tư sản hiện đại.
17
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin như là một cuộc hẹn hò lịch sử,
sự bắt gặp, sự tìm thấy những chân lý của thời đại. Trước khi đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh vẫn
còn là nhà yêu nước theo lập trường dân chủ và chịu ảnh hưởng của cụ Phan Chu
Trinh, căn cứ vào bản yêu sách năm 1919, tâm địa thực dân, vấn đề dân bản xứ….
Sự phát triển nhanh chóng về nhận thức do tích cực tham gia hoạt động xã hội đã
giúp Hồ Chí Minh thấy những giá trị tinh thần của chủ nghĩa nhân văn phương Tây
chưa đem lại con đường thực sự giải phóng con người. Những giá trị tự do, dân chủ,
bình đẳng, bác ái thực chất là phản ánh ý thức hệ tư sản. Hồ Chí Minh cho rằng các
cuộc cách mạng tư sản đó là “chưa phải là cách mạng đến nơi”, “chủ nghĩa
Uynsơn là trò bịt bợm lớn”. Khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái trên thực tế đã
không còn ý nghĩa đối với nhân dân lao động.
Luận cương Lênin đã đem lại sự “giác ngộ” xúc động, một khoảng khắc “vui
mừng đến phát khóc” mà Hồ Chí Minh đã diễn đạt là tìm thấy ánh sáng. Từ đó
Người hoàn toàn theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba. Đây là kết quả của mười năm
đi khắp nơi trên thế giới, tiếp xúc với nhiều người, khảo sát những cuộc cách mạng
tư sản điển hình, những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều dân tộc, suy nghĩ, trăn trở
với nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng, chính kiến nhưng chưa tìm ra lời giải đáp cho
cách mạng Việt Nam. Luận cương của Lênin chỉ rõ: trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của cách mạng vô sản,
những người cộng sản phải ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự giúp
đỡ của giai cấp vô sản, các nước tiên tiến, giai cấp vô sản ở các nước chậm tiến sau
khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Khi đến với chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nắm bắt
được linh hồn của chủ nghĩa Mac – Lênin là phép biện chứng duy vật, tiếp nhận lập
trường, quan điểm, phương pháp vừa cách mạng, vừa khoa học của học thuyết ấy.
Từ đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có sự chuyển biến về chất và từng
bước hình thành nên toàn bộ hệ thống những luận điểm về con người một cách triệt
để. Bởi vì, chỉ dựa trên cơ sở lý luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
thể đánh giá, so sánh, lựa chọn, chắt lọc, tổng hợp những tư tưởng về con người mà
18
Hồ Chí Minh đã tiếp thu. Nếu những tư tưởng về con người Hồ Chí Minh đã tiếp
thu được không bắt gặp chủ nghĩa Mác- Lênin thì Hồ Chí Minh cũng chưa vượt qua
được những người đi trước như: Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu về con người.
Chính chủ Nghĩa Mac – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh đưa các giá trị truyền thống
dân tộc lên một tầm cao mới, những tinh hoa tư tưởng về con người của nhân loại
vào phục vụ trực tiếp cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, có thể khẳng định: Chủ
nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Nội dung đánh dấu bước ngoặt lịch sử đó chính là: từ chủ nghĩa yêu nước, theo lập
trường dân chủ trở thành người cộng sản theo lập trường của chủ nghĩa Mac- Lênin.
1.1.4. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Đó là tư chất, bản lĩnh, nhân cách của Hồ Chí Minh được tôi luyện trong
hoạt động thực tiễn hết sức phong phú của người. Những giá trị tư tưởng về con
người của dân tộc và nhân loại muốn hợp lưu được phải thông qua yếu tố nội sinh
đó chính là tư duy kiệt xuất và sự cống hiến toàn tâm, toàn lực vì con người Việt
Nam của Hồ Chí Minh.
Ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa tư tưởng và tình cảm về con người, đó
là hoài bão, lí tưởng yêu nước thương dân, xúc động trước nỗi đau của động trước
nỗi đau của đồng bào và nhân loại cần lao bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người
gắn liền với ý trí đấu tranh giải phóng con người đã trở thành một động cơ, mục
đích thành niềm ham mê suốt cuộc đời người.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người không thể không tìm hiểu
nhân cách, lối sống, phong cách Hồ Chí Minh. Đó là một hình mẫu nhân cách lí
tưởng, một con người khi còn sống đã trở thành huyền thoại. Hồ Chí Minh là sự kết
hợp hài hòa giữa cái vĩ đại và cái bình thường, giữa lí tưởng với hiện thực cụ thể,
giải quyết những vấn đề lớn của con người trong những công việc tỉ mỉ, cụ thể hàng
ngày. Ở Hồ Chí Minh là sự thống nhất trong một con người những phong cách của
một nhà chính trị già dặn, một nhà ngoại giao từng trải, một tri thức uyên bác với
phong cách của một người bình thường như người nông dân trên đồng ruộng, người
công nhân trong nhà máy, như ông Ké ở Việt Bắc, như người cha, người bác, người
anh trong gia đình, hết sức gần gũi, thân thiết với mọi người. Đó là sự thống nhất
19
trong con người những giá trị dân tộc và nhân loại, giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai
Trước khi đến với học thuyết Macxit về con người. Hồ chí Minh vẫn luôn tìm
tòi, khảo sát các học thuyết, tư tưởng khác để làm phong phú thêm nhận thức của
mình, đó là quá trình tiếp thu, gạn lọc, bổ sung, phát triển gắn liền với nhu cầu thực
tiễn cách mạng. Do đó việc phân chia quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người chỉ mang tính chất tương đối. Có thể chia làm ba giai đoạn:
Từ thời niên thiếu cho đến tháng 12 – 1920: Đây là thời kỳ hấp thụ những
giá trị truyền thống con người Việt Nam, các giá trị nền văn hóa phương
Đông, phương Tây về con người. Hình thành nhân cách một con người yêu
nước, có tình cảm yêu thương những người cùng khổ, bị áp bức, bóc lột, ý
thức về sự giải phóng giai cấp, giải phóng con người, từng bước tích lũy
những kinh nghiệm đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân ở
chính quốc và thuộc địa.
Từ 1921 đến tháng 2/1940: Tiếp thu học thuyết Macxit về con người, tìm
thấy con đường của cách mạng Việt Nam, trở thành người cộng sản. Được
soi sáng bởi chủ nghĩa Mac- Lênin, chứng kiến những thành tựu của nhân
dân Liên Xô, khảo sát thực tiễn đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân
phong kiến của nhân dân Trung Quốc, bước đầu tổ chức, giáo dục nhân dân
Việt Nam đấu tranh giành độc lập. Đây là thời kỳ hoàn chỉnh về cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Từ 1941 đến 1969: Về nước lãnh đạo nhân dân tiến hành hai cuộc kháng
chiến chông Pháp, Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Đây là thời
kỳ vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Macxit về con người vào hoàn
cảnh Việt Nam và lúc này Hồ Chí Minh hoàn toàn tin tưởng vào con người
Việt Nam với tư chất thông minh, cần cù, sáng tạo... sẽ làm nên lịch sử vẻ
vang mà bắng chứng là người đã lập ra mặt trận Việt Minh và rồi tiếp tục
lãnh đạo cách mạnh tháng tám thành công.... Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người lúc này được bổ sung, phát triển và tỏa sáng, được thực tiễn cách
mạng Việt Nam chứng kiến và khẳng định.
20
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người đã có lịch sử hình thành, phát triển
và trải qua thử thách 70 năm, đã chứng tỏ sức sống, tính khoa học, tính cách mạng,
sáng tạo và trở thành một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng Sản và nhân dân Việt Nam.
1.2 Tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một bộ phận hợp thành bản chất
tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kết tinh những giá trị của chủ nghĩa nhân văn Việt
Nam và thế giới được vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện nước ta,
nhằm giải phóng con người theo lý tưởng chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày
nay.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về con người đề cập đến nhiều vấn đề:
1.2.1. Con người là vốn quý nhất
Đây là nội dung bao trùm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, có ý
nghĩa như một tiền đề xuất phát, một tư tưởng chủ đạo, đồng thời là mục đích của tư
tưởng: bắt đầu từ con người, vì con người và trở về với con người - con người vừa
là lực lượng, là động lực chủ yếu, trực tiếp, vừa là mục tiêu của lịch sử. Đó là sự
thống nhất biện chứng của các yếu tố đó trong con người với tư cách là nhân tố
quyết định sáng tạo ra lịch sử.
Những quan điểm về con người từ buổi bình minh của lịch sử cho đến khi
triết học Macxit ra đời, thường được hiểu như là con người- công cụ, con ngườiphương tiện.
Theo quan niệm Macxit, con người là lực lượng, công cụ, phương tiện chỉ
khi đồng thời là động lực và mục tiêu của lịch sử. Con người nằm trong sự thống
nhất hai mặt của một quá trình hoạt động, giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa
sự tác động của con người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và con người với con
người ( quan hệ sản xuất). Chỉ trong sự thống nhất đó con người mới tiến hành hoạt
động nói chung và hoạt động lao động sản xuất nói riêng. Tất nhiên quan niệm triết
học Macxit coi quan hệ con người với tự nhiên là tính thứ nhất, có ý nghĩa phương
pháp luận, chỉ ra cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.
21
Ở đây chúng ta tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh xem con người là “ vốn quý
nhất” như thế nào?
Hồ chí minh coi con người là vốn quý nhất xuất phát từ những giá trị truyền
thống của dân tộc: từ quan niệm chung về một cội nguồn “con Lạc cháu Hồng”, tư
tưởng “còn người còn của”, “người ta là hoa của đất”… của chủ nghĩa nhân ái
Việt Nam. Những tư tưởng đó được đặt trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa MacLênin, khi xem con người là chủ thể tích cực sáng tạo ra lịch sử, vai trò con người
được quy vào vai trò của quần chúng nhân dân trong mối quan hệ với vai trò cá
nhân lãnh tụ trong lịch sử.
Như vậy Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, yếu tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam được phát biểu ở những nội dung sau:
Con người được coi là giá trị cao nhất của thang giá trị xã hội. Con người là một
nhân cách, thể hiện bản chất nhân tính, nhân đạo, nhân văn của nó trong các mối
quan hệ xã hội, các thể chế chính trị - kinh tế - văn hóa. Từ đó đòi hỏi phải có thái
độ đối xử với con người theo ý nghĩa tốt đẹp nhất, xứng đáng với con người, chủ
thể của lịch sử.
Vai trò thể hiện tập trung ở vai trò quần chúng nhân dân là ngưới sáng tạo chân
chính ra lịch sử chứ không phải “vài ba cái lịch sử nào đó” thông qua cái thực tiễn
cơ bản nhất: lao dộng sản xuất, đấu tranh chính trị xã hội và sáng tạo các giá trị văn
hóa tinh thần.
Hồ Chí Minh nói: “Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản, dễ hiểu: tức là vô luận
việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”.
“Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm
ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát
triển” [7; tr97].
Hồ Chí Minh giải thích cơ sở khoa học cho vai trò xuất phát từ chỗ:
“Lực lượng của quần chúng nhiều vô cùng… Dân chúng biết giải quyết vấn
đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn
thể to lớn nghĩ mãi không ra.
1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn,
22
2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới”, “… vì chủ nghĩa xã
hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động
sáng tạo của hàng chục triệu người”[7; tr98].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự bắt gặp giữa các giá trị phương
Đông và phương Tây: Con người được coi là vốn quý nhất của thiên hạ không phải
từ một lý thuyết, một cách nhận thức mà đã kết hợp trong những hành động một
cách thực tiễn mang tính cải biến cách mạng.
Để hiểu rõ hơn tư tưởng có tính chất bao trùm này, cần phải nghiên cứu thêm
những khía cạnh khác.
a. Đó là lòng yêu thương vô hạn, sự tin tưởng tuyệt đối vào con
người, ý chí đấu tranh để giải phóng con người theo lý tưởng của
chủ nghĩa công sản.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề tiết kiệm sức người.
c. Tư tưởng Hồ chí Minh về vấn đề sử dụng con người.
Phải biết dùng người, tức là hiểu đúng, dùng khéo, thưởng phạt công minh,
có như thế mới phát huy cao độ tính tích cực của con người. Bởi vì lãnh tụ không
thể biết hết, giỏi hết mọi việc. Phải biết sử dụng đội ngũ những người có khả năng
làm việc vì lợi ích chung, chứ không bè cánh, tụ tập quanh mình những kẻ nịnh hót,
cơ hội.
1.2.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiền trình cách mạng
Việt Nam
Trong các học thuyết kinh tế xã hội ngày nay đang đi đến sự thống nhất rằng:
Sự vận động khách quan của thế giới hiện đại là sự thiết lập một hệ thống mới. Hệ
thống sản xuất lấy con người làm trung tâm, trên cơ sở mối tương quan giữa phát
triển kinh tế với sự phát triển người, mà đặc trưng chung của hệ thống kinh tế xã hội
này là:
Một là, từ việc lấy kĩ thuật làm trung tâm đến lấy con người làm yếu tố trung
tâm, là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển, khi mà quá trình sản xuất, các
23