Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

VẬN DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về GIÁO dục đạo đức CÁCH MẠNG để xây DỰNG NHÂN CÁCH SỐNG CAO đẹp CHO THẾ hệ TRẺ ĐỒNG BẰNG SÔNG cửu LONG TRONG GIAI đoạn đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.78 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
--------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

TÊN ĐỀ TÀI

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
ĐỂ XÂY DỰNG NHÂN CÁCH SỐNG CAO ĐẸP
CHO THẾ HỆ TRẺ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành
: 52140204

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
ThS. GVC: TRẦN KIM TRUNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Họ tên : HUỲNH THÚY DUY
MSSV : 6055342

CẦN THƠ – 5/2009

-1-


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ lỗi lạc
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hóa kiệt xuất. Người là biểu tượng tuyệt vời về sự kết hợp hài hòa tinh
hoa văn hóa dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại. Người là nhà
nhân văn chủ nghĩa lỗi lạc, nhà đạo đức lớn với tấm gương sáng ngời về cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của người cách mạng.
Nhằm học tập tư tưởng của Người, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị số 06 – CT/TW, ngày 7 tháng 11
năm 2006 “Về tổ chức cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Chỉ thị nêu rõ: “Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết
tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân
loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng
để mọi người Việt Nam học tập và noi theo”.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” lần
này là tiếp nối các cuộc vận động trước đó với một chủ đề cụ thể là đạo đức, nhằm khơi
dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc phục các suy
thoái về đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các
tệ nạn xã hội; hình thành, phát triển các giá trị đạo đức tốt đẹp, xây dựng con người
Việt Nam có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng, lối sống văn minh, xây
dựng quan hệ xã hội lành mạnh, tiến bộ.
Ngày nay, đất nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển. Những
trào lưu văn hóa của thời đại đã ảnh hưởng tích cực và cả những tiêu cực đến thế hệ
trẻ. Một mặt, thế hệ trẻ trở nên năng động hơn, tự tin hơn và tầm hiểu biết được mở
rộng hơn, khả năng bắt nhịp và tiến lên cùng thời đại cao hơn, biết vận dụng sáng tạo
tinh hoa văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của các quốc gia

-2-



khác. Nhưng mặt khác, một bộ phận thế hệ trẻ lại bị sa ngã trong những lối sống tiêu
cực, sống không lý tưởng, chỉ biết hưởng thụ và không muốn lao động sáng tạo, lai
căng, mất gốc, ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa dân tộc. Điều này nếu không kịp
thời sửa đổi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách và tài năng của thế hệ kế thừa
sau này của đất nước.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vừa là trách
nhiệm chính trị của toàn Đảng, của tất cả các ngành, các cấp, vừa là nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ trong việc gìn giữ và phát
huy những tinh hoa và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng để
giáo dục, xây dựng nhân cách sống cho thế hệ trẻ ngày nay là một nội dung
quan trọng, mang ý nghĩa đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng con người trong
hoàn cảnh mới, nhằm giúp cho thế hệ trẻ hình thành quan điểm sống tích cực,
đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển xã hội.
Hòa chung với khí thế hoạt động sôi nổi của thanh niên cả nước trong phong
trào Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thanh niên các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long cũng không ngừng học tập và rèn luyện theo gương Bác Hồ vĩ
đại với mong muốn góp một phần công sức và nhiệt huyết của mình vào sự nghiệp xây
dựng quê hương, xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân, xứng đáng với sự
chăm lo của đất nước. Trước tình hình đó, Đảng bộ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
đã không ngừng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng để
xây dựng nên một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, tạo nguồn cán bộ trẻ “vừa
hồng, vừa chuyên” cho Đảng và Nhà nước, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp
cách mạng của Đảng và Bác Hồ, góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Để bàn sâu hơn về vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng để xây dựng nhân cách sống cao đẹp
cho thế hệ trẻ đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn đổi mới ” làm đề tài cho
luận văn tốt nghiệp.


-3-


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề xoay quanh
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng nhằm lấy đó làm nền tảng
cho việc giáo dục nhân cách thế hệ trẻ kế thừa có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp
và quan điểm sống tích cực, phục vụ cho dân tộc, cho đất nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn chủ yếu đưa ra những nội dung cụ thể
trong vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên dựa trên tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục thế hệ trẻ, đồng thời tìm hiểu sơ bộ về kết quả xây dựng nhân
cách sống cao đẹp cho thế hệ trẻ ở một số tỉnh của Đảng bộ các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình học tập
và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh
về giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ và việc xây dựng nhân cách sống cao
đẹp cho thế hệ trẻ.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu những nội dung cơ bản
trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ
của Đảng bộ một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình giáo dục, xây dựng
nhân cách sống cho thế hệ trẻ. Luận văn cũng đề ra một số phương hướng và giải pháp
nhằm vào việc xây dựng nhân cách sống cho thế hệ trẻ.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài:
- Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích, lịch
sử, lôgic, tổng hợp, thống kê, so sánh và một số phương pháp cụ thể khác.


5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương và 7 tiết.

-4-


NỘI DUNG
Chương 1:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO THẾ HỆ TRẺ
1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng
cho thế hệ trẻ:
1.1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng
của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về
đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người
yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư
cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết
nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là
bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng
liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa

Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức
của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá
trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

-5-


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm
chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn
luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “Tư cách một
người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong
ba mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết:
“Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ
vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang” [3, tr.289].
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển
con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” [32, tr.253].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách. Người viết : “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại không rụt rè, lùi bước”; “Khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “Lo hoàn thành

nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan
liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa” [35, tr.288-289].
Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng
viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.

-6-


+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng
ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” [Hồ Chí Minh: “Đảng ta thật
là vĩ đại” – Lời khai mạc lễ kỉ niệm 30 năm thành lập Đảng 5-1-1960, Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 1980, tr.249]. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản
phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu
yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực
hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của
con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc
biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng
đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” [38, tr.510].


1.1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng
cho thế hệ trẻ:
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Hồ Chủ tịch rất coi trọng việc giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Người thường xuyên động
viên tuổi trẻ tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là
người chủ tương lai của nước nhà.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng hàng đầu trong việc giáo
dục, bồi dưỡng đoàn viên, thanh niên là giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tư
tưởng xã hội chủ nghĩa và gột rửa chủ nghĩa cá nhân. Người dạy: “Trong việc giáo
dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ cách mạng
xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kinh tế, lao động và sản xuất” [40, tr 179]. Không phải
ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức của người cách mạng là nội dung trước

-7-


tiên của cuốn sách Đường Kách mệnh. Nội dung cốt lõi nhất của đạo đức cách
mạng theo Bác là cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa
của trời, đất. Nếu thiếu một trong bốn phẩm chất đó thì con người không trở thành
người theo đúng nghĩa. Nhưng đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn, không
phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày của mỗi người. Do vậy, Bác cho rằng đối với thế hệ trẻ, trước hết là đoàn viên,
thanh niên phải luôn nỗ lực, rèn luyện đạo đức cách mạng: thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kiêu
ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu;
thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Khi nói tới giáo dục đạo đức cách mạng, vấn đề quan trọng hàng đầu được
Hồ Chí Minh quan tâm là làm cho thanh niên nhận thức được rằng: đạo đức cách
mạng là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và hiếu với nhân dân. Khái
niệm trung, hiếu mà Hồ Chí Minh nêu lên để thanh niên tu dưỡng, rèn luyện bao

hàm những nội dung rất mới mẻ, trên cơ sở phát triển những tinh hoa của dân tộc và
nhân loại. Hồ Chí Minh nói: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và trong học thuyết của
Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta
nên học” [42, tr 22]. Trung, hiếu là khái niệm quan trọng mà Nho giáo đưa ra.
Nhưng trung, hiếu của Nho giáo chỉ bó hẹp trong phạm vi hết lòng thờ vua, thờ cha
mẹ trong bất kỳ điều kiện nào. Hồ Chí Minh cũng sử dụng khái niệm trung, hiếu,
nhưng được nâng cao, phát triển mang tính giai cấp sâu sắc để giáo dục thanh niên.
Đó là lòng trung với Tổ quốc, với Đảng và hiếu với nhân dân.Muốn có lòng trung
với nước phải giáo dục cho thanh niên tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc. Về nội
dung này, Hồ Chí Minh nói rất rõ: “Yêu Tổ quốc là cái gì trái với quyền lợi của Tổ
quốc, chúng ta kiên quyết chống lại” [41, tr 130]. Tư tưởng quán xuyến của Người
là Tổ quốc luôn gắn liền với nhân dân, yêu nước hay trung với nước là làm sao cho
“dân giàu, nước mạnh”, một khái niệm hết sức thiết tha, gần gũi mà Hồ Chí Minh
đã đưa ra rất sớm từ sau khi miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng.
Trung với Đảng, theo Người là phải giáo dục cho thanh niên có được
những đức tính trung thực, ngay thẳng, không tà dâm, không làm việc bậy. Ngoài

-8-


lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng. Lúc được giao việc thì bất kỳ to nhỏ đều ra
sức làm cẩn thận, có hiệu quả, và phải biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho
Đảng. Đó là những nội dung hết sức sinh động, cụ thể, đó vừa là thước đo, vừa là
chỉ dẫn không chỉ riêng đối với thanh niên, mà còn cho tất cả những ai tự nguyện
chiến đấu dưới ngọn cờ của Tổ quốc, của Đảng.
Ngoài ra, Người yêu cầu phải biết giáo dục cho thế hệ trẻ tình yêu thương
con người, sống có nghĩa, có tình. Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ
nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu
thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể

hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với
đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người
nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy
sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “Ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [31, tr 161].
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể
cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt
đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa
chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải
phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn”. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được" [38, tr 554].
Một phần không thể thiếu trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên là giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng.

-9-


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau:
-


Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh

giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
-

Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục

tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
-

Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.

Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân
chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện vị kỷ, hẹp
hòi, kỳ thị dân tộc...
Như vậy, giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng vì nó giữ vai trò quyết định trong việc đào tạo ra lớp người kết tục sự nghiệp cách
mạng của cả dân tộc, quốc gia. Đó phải là những con người ”vừa hồng, vừa chuyên”, vừa
có tài vừa có đức và với Hồ Chí Minh, đức chính là cái gốc làm nên con người.
Xét về lý luận, quan điểm “đức là gốc” của Người có nội dung phong phú, bao
trùm và xuyên suốt toàn bộ tư tưởng đạo đức cách mạng của Người. Chúng ta có thể
hiểu quan điểm “đức là gốc” của Người gồm những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng. Giống như
cây phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian khổ
khó khăn. Trong “Đường kách mệnh” tác phẩm “gối đầu giường” của những người
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giành chương đầu tiên để bàn về tư cách
người cách mệnh, sau đó mới nói về lý luận và đường lối cách mạng. Với Hồ Chí
Minh, “đức là gốc” cho nên, đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ,

xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng không ngừng cầu tiến bộ và
hoàn thiện bản thân mình. Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian

- 10 -


khổ, thất bại tạm thời... cũng không rụt dè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công,
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn
cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì “đức
là gốc” cho nên đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động
cách mạng, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người
làm việc nhỏ, nhưng bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Thứ hai, trong mối quan hệ giữa đức và tài thì “đức là gốc” nhưng đức và
tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Bởi người
nào có đức mà không có tài thì chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm
hại ai, nhưng cũng chẳng ích gì, còn nếu có tài mà không có đức thì chỉ có hại cho
dân cho nước còn sự nghiệp bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Hồ Chí Minh yêu
cầu: tài lớn thì đức càng phải cao. Vì khi đã có cái trí thì cái đức chính là cái đảm
bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp
nhận và lựa chọn tin theo. “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến
cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình
độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã thấy sức
không vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ người tài đức
hơn mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như vậy, “đức là gốc” ở đây phải là
“đức lớn” – đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh vì cách mạng, vì nước vì dân, nó
không đồng nhất với những phẩm chất đạo đức thông thường cụ thể, như hiền lành,
ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời sống hàng ngày.
Thứ ba, “Đức là gốc” trong xây dựng Đảng là Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh”. Phát triển tư tưởng của Mác - Lênin về Đảng của giai cấp công nhân, trong

bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta, Hồ Chí Minh đã đưa ra
một hình tượng về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản:
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

- 11 -


Đảng ta là đạo đức, là văn minh”... [Hồ Chí Minh: “Đảng ta thật
là vĩ đại” – Lời khai mạc lễ kỉ niệm 30 năm thành lập Đảng 5-1-1960, Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 1980, tr 249].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” trong đó
đạo đức là "gốc", vẫn là vấn đề được Người đặt lên trên hết, trước hết. Bởi Đảng
cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một đảng tiêu biểu
cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân. Có lẽ trong
lịch sử phong trào cách mạng thế giới, hiếm có một lãnh tụ cách mạng nào coi trọng
vấn đề đạo đức đến tầm mức như Người, đã đặt đạo đức lên vị trí hàng đầu trong
công tác xây dựng Đảng. Bởi thế, một đảng nếu xa rời mục tiêu lý tưởng cách
mạng, nếu thoái hóa về đạo đức thì tức là đã hỏng từ "gốc" và cuộc cách mạng nếu
được tiếp tục, tất yếu sẽ bị biến chất và không còn ý nghĩa. Tất nhiên, một đảng tiên
phong cách mạng nếu chỉ có đạo đức cách mạng thì chưa đủ mà Đảng còn phải “là
văn minh”, phải tiêu biểu cho trí tuệ của cả dân tộc. Ngoài đạo đức cách mạng là
yêu cầu tiên quyết, Đảng còn phải có trí tuệ, có năng lực nhận thức quy luật và hành
động cách mạng đúng đắn, biết phân tích chính xác tình hình, đề ra đường lối, chủ
trương sát đúng, đưa cách mạng tiến lên từng bước.
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh niên và tầm quan trọng của
việc xây dựng nhân cách sống cao đẹp cho thanh niên:

1.2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên trong
cách mạng Việt Nam:
Vào những giờ phút hiểm nghèo nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, trong thư gửi thanh niên, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định vai trò đặc
biệt quan trọng và chỉ ra nhiệm vụ cao quý của họ: "Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là
do các thanh niên" [41, tr 853]. Lời khẳng định trên đây của Người phản ánh tập
trung nét đặc sắc, độc đáo và cô đọng nhất về thanh niên và vai trò của họ.

- 12 -


Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của thanh niên không chỉ
vì họ là lực lượng đông đảo nhất, mà chủ yếu là vì năng lực, bản chất của lứa tuổi
họ, được lý tưởng cách mạng dẫn đường. Vai trò to lớn đó của thanh niên trong tư
tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở mấy vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, thanh niên là đội quân xung kích trên các mặt trận. Người đã
từng khẳng định: "Khắp thành thị, nông thôn, miền xuôi, miền núi, thanh niên ta
ngày nay đã thành một đội quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy
sinh vì Tổ quốc thân yêu, vì tiến bộ xã hội" [37, tr 504]. Thực tiễn cách mạng nước
ta đã chứng minh quan điểm trên của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn. Trong
suốt quá trình đấu tranh cách mạng đầy gian khổ hy sinh để giành và giữ độc lập tự
do cho dân tộc, xây dựng xã hội mới, ở đâu, bất cứ lúc nào và trong bất cứ lĩnh vực
nào, thanh niên ta luôn có mặt và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao ở
những nơi khó khăn, ác liệt nhất, ở những nơi không cho phép lấy lợi ích kinh tếvật chất để tính toán thiệt hơn, được mất.
Thứ hai, ưu thế tuyệt đối của thanh niên là sức trẻ, năng lực sáng tạo và tính
năng động. Chính vì thế, Hồ Chí Minh luôn coi thanh niên là cánh tay đắc lực và là đội
hậu bị tin cậy của Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng, Người không ngừng quan tâm
phát triển Đảng trong lực lượng thanh niên. Người coi đó là nguồn cung cấp chủ yếu
cho Đảng những thành viên ưu tú, đầy nhiệt huyết, đủ sức lực và trí tuệ gánh vác trọng

trách nặng nề của Đảng trước nhân dân và dân tộc. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn
Hồ Chí Minh rất chú trọng phát hiện những cá nhân điển hình tiên tiến trong thanh niên
và thường xuyên quan tâm xây dựng các tổ chức Đoàn thanh niên vững mạnh. Người
đã nói "Tôi luôn luôn nói đến thanh niên, vì trong mọi công việc thanh niên luôn hăng
hái xung phong và họ xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng" [36, tr 271].
Thứ ba, thanh niên là những người giữ vai trò quyết định trong việc kế
thừa, bảo vệ và phát triển truyền thống yêu nước vẻ vang, bản sắc văn hóa của dân
tộc mà các thế hệ cha anh đi trước đã để lại. Trong thư khen gửi các chiến sĩ cảm tử
quân thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Các em đã cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần
tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đã kinh

- 13 -


qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh
thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau" [41, tr 79].
Thứ tư, Hồ Chí Minh cũng xác định rõ vai trò của thanh niên là người có
trách nhiệm chăm lo, dìu dắt các em thiếu niên, nhi đồng. Trên thực tế, công việc
trên là trách nhiệm của toàn xã hội, nhưng thanh niên là những người có khả năng
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến chúng. Ở đây, Hồ Chí Minh nhận thấy
thanh niên là những người vừa trải qua lứa tuổi thiếu niên, nên hiểu rõ tâm lý, thị
hiếu và dễ gần gũi các em hơn. Mặt khác thanh niên là những người có đủ tri thức
để giáo dục, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng nhưng lại chưa bị vướng bận vào những
công việc gia đình...
Từ sự chiêm nghiệm thực tế của chính cuộc đời mình và với phương pháp
Mácxít của một người cộng sản, Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của thanh
niên trong sự nghiệp cách mạng nước nhà. Tuy nhiên trong cách nhìn nhận và đánh
giá thanh niên, Người bao giờ cũng đề cập đến hai mặt ưu và nhược điểm. Theo

Người, với tư cách là "mùa xuân của xã hội", "mùa xuân của cách mạng", thanh
niên luôn là lứa tuổi sung mãn về sức lực và trí tuệ, đầy khát khao và năng động
trong khám phá, sáng tạo cái mới, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ, có chí tiến thủ,
ham hiểu biết và tự thể nghiệm mình, không ngại khó khăn, gian khổ hy sinh, tràn
trề ước mơ, hoài bão... Đó là những yếu tố cực kỳ quan trọng để thực hiện lý tưởng
cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng Người cũng chỉ rõ rằng, vì là tuổi trẻ nên
thanh niên còn thiếu kinh nghiệm, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động và lôi kéo vào
những việc làm sai trái; họ cũng thường ngộ nhận về sự đúng - sai, thật - giả của các
định hướng giá trị... đó là những hạn chế mà Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình
cần hết sức quan tâm, chăm lo để khắc phục trong quá trình bồi dưỡng, đào tạo họ
trở thành những chủ nhân thực sự của tương lai đất nước, thành những chiến sĩ kiên
cường trong tiến trình đấu tranh thực hiện lý tưởng cộng sản cao đẹp.
Tóm lại, trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ luôn quan tâm
chăm sóc, đào tạo bồi dưỡng các thế hệ thanh niên, hướng họ đi theo lý tưởng của
Đảng vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người luôn nhắc nhở: “Giáo

- 14 -


dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh
xã hội'' [33, tr 455]. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh đối với
thanh niên là giáo dục thế hệ trẻ (giáo dục về sự phát triển toàn diện nhân cách, kết hợp
giáo dục và tự giáo dục, kết hợp giữa xây và chống, …).
“Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì.
Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích của
nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”
[33, tr 455]. “Thanh niên cần phải có tinh thần gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí
hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn gian khổ để tiến mãi không
ngừng'' [33, tr 454]. Người cũng nhấn mạnh:
“Muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với

các tầng lớp thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của
thanh niên, phải tránh thành kiến, hẹp hòi, cô độc. Phải thật thà đoàn kết với anh
chị em thanh niên trong Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam'' [34, tr 263]. Làm được
tất cả những điều Bác dạy, là nhiệm vụ trước hết của thế hệ trẻ, cũng là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của toàn xã hội chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau.

1.2.2 Tầm quan trọng của việc xây dựng nhân cách sống cao đẹp
cho thanh niên:
Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và Hồ Chí Minh luôn đặc
biệt quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thế hệ thanh niên thành
những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của giai cấp và dân tộc.
C.Mác nêu rõ trách nhiệm của các Đảng của giai cấp vô sản là lãnh đạo việc
phát triển, hình thành thế giới quan khoa học cho thanh niên, coi đó là công việc
thiết thực để xây dựng Đảng – bởi vì theo Mác:
“Đảng chúng ta là Đảng của tương lai, mà tương lai thuộc về thanh niên.
Chúng ta là Đảng của những người đổi mới, vì sự đổi mới là thanh niên luôn ham
thích. Chúng ta là Đảng của cuộc đấu tranh hy sinh, xả thân chống lại những gì là
mục nát mà thanh niên bao giờ cũng đi đầu trong cuộc đấu tranh hy sinh, xả thân ấy”

- 15 -


[29, tr 118]. Ph.Ăng ghen cho rằng thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, điều đó
dẫn đến phải tổ chức họ lại vì “Họ là đội quân xung kích của giai cấp vô sản quốc tế
và đội hậu bị của Đảng” (tức Đảng Cộng Sản) [29, tr 120]. V.I.Lênin cho rằng “Thanh
niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng”; người viết: “Người ta quan sát thấy
thanh niên công nhân một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm được sự vươn tới lý
tưởng dân chủ và CNXH” [28, tr 67]. Với nhận định đó, Lênin thấy sự cần thiết như
thế là tất yếu, phải giáo dục đi đôi với tập hợp, tổ chức thanh niên lại. Người chỉ ra

rằng: “Chúng ta phải chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để họ biết xây dựng đến
cùng và hoàn thành triệt để sự nghiệp mà chúng ta bắt đầu” [28, tr 231].
Vì lẽ đó, V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Đoàn Thanh niên Cộng sản phải là một đội
xung kích, một đội ngũ mà ở đó đều có tinh thần chủ động và quyết tâm” [28, tr 148].
Thật vậy, tổ chức Đoàn phải thật sự là một đội xung kích mới có thể làm cho mỗi
thành viên trong tổ chức tự tiến hành giáo dục thành những người cộng sản.
Rõ ràng là các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học trong quá trình đấu
tranh xây dựng một xã hội mới không còn người bóc lột người, một xã hội văn
minh, tiến bộ, hạnh phúc đã sớm nhận thấy cần phải tập hợp, tổ chức thanh niên,
đặc biệt là phải dồn tâm sức giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo họ vì mục tiêu phát huy
những tiềm năng to lớn và khát vọng của họ trong sự nghiệp cao cả của giai cấp,
dân tộc và nhân loại.
Là người thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng của
Mác – Lênin, Bác Hồ kính yêu đã sớm thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng
nhân cách sống cho thanh niên. Bác luôn tuân theo di huấn của Lênin:“… Chúng ta
phải chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để họ biết xây dựng đến chùng và hoàn
thành triệt để sự nghiệp mà chúng ta đã bắt đầu…”. Suốt cả cuộc đời cách mạng vẻ
vang, Bác dành biết bao tâm sức bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thế hệ thanh niên này
đến thế hệ thanh niên khác sao cho họ đảm đương được sứ mệnh lịch sử trao cho.
Một trong những thành công lớn mang tính thời đại sâu sắc của cách mạng Việt
Nam trong gần một thế kỷ qua chính là vấn đề này: cách mạng hóa thanh niên, giác
ngộ thanh niên về lý tưởng của Đảng tiên phong.

- 16 -


Trước lúc đi xa Bác Hồ đã ân cần dặn toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [38, tr 510].
Đây là luận điểm xuyên suốt mang tính thời đại sâu sắc đồng thời mang
tính thời sự nóng hổi đối với công cuộc đổi mới cũng như sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước theo tinh thần nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung
ương Đảng trong nhiều năm qua về công tác thanh niên.
Luận điểm này của Bác thể hiện ở hai mặt:
a. Trước hết về mặt ý nghĩa:
Bác chỉ rõ: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng”… Thật vậy, ngày nay Đảng ta đề xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đây là sự nghiệp vừa trước mắt vừa lâu dài
không thể thực hiện và hoàn tất ngày một, ngày hai. Vì vậy không ai khác chính là
các thế hệ thanh niên sẽ kế tiếp nhau đảm đương sứ mệnh này trước lịch sử. Việc
chuẩn bị cho thanh niên (tức là đào tạo, bồi dưỡng) trong hiện tại diễn ra như thế
nào, thực hiện được đến đâu sẽ dẫn đến hệ quả trong tương lai như thế ấy. Không
phải xa xôi gì lắm mà có thể cảm nhận được ngay trong một chu kỳ chuyển giao thế
hệ (chừng 15 đến 20 năm). Ở đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên một tầm nhìn
thật rộng, thật bao quát như đưa ra ý nghĩa về tầm quan trong với tư cách là hệ quả
trực tiếp, hiển nhiên. Thật vậy, sự tồn tại và phát triển của mỗi thế hệ đều có giới
hạn nhất định nhưng sự nghiệp mà thế hệ đi trước đã tạo dựng nên sẽ được sống
mãi và đời đời phát triển bằng sự kế tục cách mạng của các thế hệ sau..
b. Thứ hai là về mặt quy luật:
Nhận biết quy luật, phát hiện quy luật là vấn đề mà các nhà kinh điển quan
tâm hàng đầu bởi lẽ không có lý luận cách mạng thì chẳng thể tạo được phong trào
cách mạng và ngược lại. Luận điểm mà Bác Hồ đưa ra trong một mệnh đề hoàn chỉnh
về ý nghĩa của tầm quan trọng đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ cũng như
đã chỉ rõ đó là việc “rất cần thiết” (đi đôi với “rất quan trọng”). Rất cần thiết là vấn đề

- 17 -


thuộc quy luật, mà đã là quy luật thì sớm, muộn đều bắt buộc phải nhận ra, phải thực
hiện theo yêu cầu đó nếu không muốn phải trả giá đắt.
Lịch sử là sự tiếp nối của các thế hệ. Phát hiện ra sự tác động mang tính

quyết định và cần thiết giữa hai thế hệ gần kề nhau là việc có ý nghĩa quan trọng.
Rõ ràng là thế hệ sau nhìn vào thế hệ ngay trước mình với sự quan tâm đặc biêt vì
họ tìm thấy ở thế hệ này những gì cần cho mình cũng như những hạn chế mà chính
bản thân mình cần vượt qua. Còn thế hệ trước lại có trách nhiệm nặng nề tạo dựng
ra lớp kế tục chắc chắn, đủ tin cậy, đủ tài năng hơn mình để đảm đương một cách
xuất sắc sự nghiệp mà mình bắt đầu hoặc đang trên đường đi tới. Đó chính là “sự
cần thiết” như Bác đã dạy. Sự cần là thế, là quy luật nên không thể né tránh.
Nghiên cứu cả hai mặt như trên đã trình bày trong luận điểm nổi tiếng của
Người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trong và rất
cầm thiết” chính là để từ đây, Đảng và Nhà nước ta xác định một chiến lược phát
triển thanh niên trong thời kỳ mới. Chiến lược ấy cần được cụ thể hóa thành đường
hướng, chủ trương, chính sách, cơ chế, thể chế… đúng đắn có tính khả thi cao và
chủ động trong mọi tình huống.

1.2.3 Học tập và làm theo tấm gương đao đức Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả
tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu
mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời
đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối
với mỗi người Việt Nam chúng ta nói chung và thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng.
· Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu
với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai
đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển:

- 18 -



Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần
yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn
tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành
cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “ đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn
của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất
trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng
của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính.
Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng,
chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực
tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời
những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói vô
cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết
tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong
khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây
dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh
không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội, hòng chia
rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết
là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với


- 19 -


tinh thần yêu nước chân chính.
- Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với
công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt
và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương
giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học
và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học,
công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi
hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân
tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng
đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và
quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy
sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí
làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất
nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam,
vụ lợi, vun vén cá nhân...
·

Thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư "

nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới:
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức truyền
thống trong quan hệ “đối với mình”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng
và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ
bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư”. Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là:
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của
nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật
tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.

- 20 -


- Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối
sống thực dụng. Đối với cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh
vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm
đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân..., cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải
thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo
vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không
bao che, giấu giếm khuyết điểm...
- Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống
bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm
ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu
óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì "hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì
không "kiếm chác" được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Không làm dối, làm
ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có
thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ
mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
·

Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân

dân phục vụ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính

Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần
chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người
luôn luôn phê phán "óc lãnh tụ", phê phán thói "quan cách mạng", phê phán những
biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân.
- Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong
tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu
hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để "kéo bè, kéo cánh", để làm rối loạn kỷ
cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng
trên quần chúng..., làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở

- 21 -


bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy
trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với
nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động
viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc
và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán
bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình.
Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ
phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa
chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình
phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh "phải
nghiêm khắc với chính mình". Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây
dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội
lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích
nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để

giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ
những động cơ cá nhân, vụ lợi mà "đấu đá", nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo,
chia rẽ, làm rối nội bộ.
· Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy
chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu
nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu
thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải
phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là
hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà
văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của
phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên

- 22 -


tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần
quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.
- Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc
tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để
xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn
sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa
bình, hợp tác và phát triển.
- Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập
tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi,
phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền,
áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc

cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần
nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm
lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo
tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao
đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người
Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi
chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha,
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp
quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên,
thanh niên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự
ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững.

- 23 -


Chương 2:

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH SỐNG CAO ĐẸP
CHO THẾ HỆ TRẺ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách sống của thế hệ trẻ đồng bằng
sông Cửu Long và đặc điểm của thế hệ trẻ đồng bằng sông Cửu Long:
2.1.1 Những nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách sống của thế hệ trẻ đồng
bằng sông Cửu Long:
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu
nhất Đông Nam Á và thế giới; là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn
trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất quan
trọng đối với Nam Bộ và cả nước trong phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao

thương với các nước trong khu vực và thế giới. Chính điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho thế hệ trẻ có cơ hội tham gia vào quá trình hội nhập một cách năng
động và dễ dàng hơn, có điều kiện tiếp thu và học tập những công nghệ tiên tiến
cũng như những tinh hoa văn hóa của các quốc gia khác trên cơ sở giao lưu, học hỏi
và trãi nghiệm. Qua đó, lớp trẻ sẽ có bản lĩnh hơn, năng động hơn và tiên tiến hơn
trong cách nghĩ, cách làm nhưng cũng dễ sa ngã hơn, dễ quen với lối sống hưởng
thụ và bằng lòng với những gì đã có. Đồng thời, việc tiếp thu văn hóa không qua
chọn lọc cũng dễ dàng làm bản thân bị lai căng, mất gốc, đánh mất giá trị văn hóa
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Đồng bằng sông Cửu Long có 13 đơn vị hành chính,bao gồm: 1 thành phố
trực thuộc trung ương (Thành phố Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An
Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau). Với số lượng đông đảo các tỉnh thành như thế, thanh
niên các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long sẽ có nhiều cơ hội giao lưu, học tập lẫn
nhau, cùng nhau bổ khuyết và hoàn thiện bản thân cả về mặt nhân cách lẫn kỉ năng.

- 24 -


Điều này giúp cho mặt bằng thanh niên các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có sự
đồng đều hơn.
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiệt độ cao và ổn định trong toàn vùng. Đây
cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu, đặc biệt là bão. Những đặc điểm khí hậu này đã
tạo ra một nguồn lực rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của thực vật đạt được
năng suất sinh học cao, tạo ra một thảm thực vật và một quần thể động vật phong phú đa
dạng, nhưng có tính đồng nhất tương đối trong toàn vùng. Đó là những điều kiện thuận
lợi để tổ chức sản xuất và phát triển sản xuất lương thực - thực phẩm, phát triển sản xuất
chế biến sản phẩm nông - thuỷ - hải sản lớn nhất cả nước. Do đó, thanh niên đồng bằng
sông Cửu Long đã kế thừa được đức tính cần cù trong lao động do ảnh hưởng về điều
kiện tự nhiên của nơi sinh sống, ở họ luôn có sự sáng tạo trong lao động và ham muốn

phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống, thỏa mãn nhu cầu tinh thần.
Trong những năm qua, khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả, bền vững; các mặt văn hoá xã hội tiến kịp mặt
bằng chung của cả nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năm
2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng đạt 10,41%/năm, thu nhập bình quân đầu
người đạt 7,83 triệu đồng/người/năm, tăng 22% so với năm 2000. Nhiều chỉ tiêu về
lĩnh vực đời sống, văn hoá, xã hội đã thực hiện có kết quả như giảm từ 27,03% số
hộ nghèo năm 2001 xuống còn 11,02% năm 2005; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm
còn 22%, số hộ nông thôn được cung cấp điện đạt 89,7%, tạo việc làm mới cho hơn
1,4 triệu lao động; đời sống người dân được cải thiện.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế khu vực này vẫn chưa ổn định, chưa tương
xứng với tiềm năng, tốc độ tăng GDP bình quân đầu người đạt thấp, mới bằng 67%
so với mức bình quân chung của cả nước; Hệ thống kết cấu hạ tầng, chất lượng
nguồn nhân lực và mặt bằng dân trí thấp hơn bình quân cả nước, tỷ lệ đói nghèo còn
cao, tình hình an ninh, chính trị còn phải tăng cường củng cố…
Trong những năm gần đây, kinh tế đồng bằng sông Cửu Long có những bước
khởi sắc đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đời sống người dân
ngày càng được nâng cao. Một số kết quả đạt được trong năm 2004 như sau:

- 25 -


×