Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Bài 5 vấn đề dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.39 KB, 33 trang )

Bài 5:

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC
VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
(5 tiết)

A. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích: Giúp học viên nắm được:
- Khái niệm dân tộc, những đặc trưng cơ bản của dân tộc;
- Nội dung cơ bản Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác – Lênin và sự
vận dụng ở Việt Nam;
- Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta cũng như nội
dung và nhiệm vụ của quản lý Nhà nước về công tác dân tộc.
2. Yêu cầu: Học viên:
- Có lập trường, bản lĩnh vững vàng; ý thức chống lại những quan niệm,
hành động lợi dụng vấn đề dân tộc chống lại sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta;
- Có ý thức xây dựng khối ĐĐK dân tộc, tích cực tham gia vào các hoạt
động xã hội.
B. Kết cấu bài giảng
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN DÂN TỘC VÀ QUAN HỆ DÂN TỘC
(85 phút)
II. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA (90 phút)
III. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC (40 phút)
C. Phương pháp giảng
- Phương pháp thuyết trình (chủ yếu)
- Các phương pháp khác: hỏi - đáp, nêu vấn đề nghiên cứu, trắc nghiệm,...
D. Tài liệu học tập nghiên cứu
- Giáo trình trung cấp lý luận chính trị: Chủ nghĩa xã hội khoa học và
Chính trị học, Nxb Lý luận chính trị, H.2004.
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hội đồng lý luận trung ương biên soạn.
- Tập bài giảng lý luận dân tộc và chính sách dân tộc, Học viện Chính trị


Quốc gia Hồ Chí Minh, H.2001.
- Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Uỷ ban dân tộc
và miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001.
Đ. Các bước lên lớp
Bước 1: Ổn định lớp (1 phút)
Bước 2: Kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới (4 phút)
1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề dân tộc và những đối sách với các dân tộc luôn là một trong những
vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ một chính quyền nào. Đây cũng là một
truyền thống tốt đẹp về văn hoá ứng xử trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Đảng ta từ khi ra đời đã coi dân tộc là một trong những vấn đề cơ bản
trong sự nghiệp cách mạng. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định:
"Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc... là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN".
Vậy, dân tộc là gì? Căn cứ vào đâu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
chính sách dân tộc?
Bước 3: GIẢNG BÀI MỚI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN DÂN TỘC VÀ QUAN HỆ DÂN
TỘC (85 phút)
1. Những đặc trưng cơ bản của dân tộc (35 phút)
a. Sự hình thành dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài
người.
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những

cộng đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, trước khi tiến tới trình độ cộng
đồng dân tộc, loài người đã trải qua các hình thức cộng đồng khác nhau, từ thấp
đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. (Xem giáo trình Triết học, Bài 6: Giai cấp –
Dân tộc)
+ Thị tộc: Là hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử xã hội loài
người tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Đặc trưng của cộng đồng thị
tộc: quan hệ huyết thống giữa các thành viên; chưa có sự phân công lao động;
quan hệ cộng đồng về ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng văn hóa. Mỗi thị tộc có
khu vực cư trú, vùng săn bắt và tên gọi riêng.
+ Bộ lạc: Là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc có quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau trong đó có một thị tộc
gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Đặc trưng cơ bản của bộ lạc: Lúc này quan
hệ ngoại tộc xuất hiện; Có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa, tín
2


ngưỡng; Cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ; Đã có sự phân công lao
động; Đã có thủ lĩnh tối cao. Trong thời kỳ này, công cụ sản xuất bằng kim loại
đã hình thành. Sự phân công lao động đầu tiên giữa trồng trọt và chăn nuôi; giữa
nông nghiệp và thủ công nghiệp. Đó là tiền đề khách quan của sự xuất hiện sở
hữu tư nhân, bộ tộc ra đời thay thế cho bộ lạc.
+ Bộ tộc: Là cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều
bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đặc trưng của
bộ tộc: Dân cư đa dạng, đan xen, đa ngôn ngữ và văn hóa; Vùng lãnh thổ tương
đối ổn định; Sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời thay thế sở hữu tập thể; Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội có giai cấp đầu tiên xuất hiện. Dưới tác động của
các quan hệ mới, đặc biệt là quan hệ giao lưu kinh tế dẫn đến khuôn khổ chật
hẹp của bộ tộc không còn thích hợp dẫn đến quá trình hình thành một cộng đồng
người mới thay thế cho bộ tộc. Đó là dân tộc.
+ Dân tộc: Là hình thức cộng đồng người xuất hiện sau bộ tộc, thay thế

cho bộ tộc. Cũng như bộ tộc, dân tộc là cộng đồng người gắn liền với xã hội có
giai cấp và nhà nước.
-> Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết định
sự biến đổi của cộng đồng người.
- Sự hình thành dân tộc trên thế giới diễn ra không giống nhau:
+ Ở Châu Âu, sự hình thành dân tộc gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của CNTB.
Bởi vì, trước khi CNTB ra đời, các dân tộc ở phương Tây tồn tại dưới chế
độ phong kiến cát cứ, lãnh thổ dân tộc bị chia cắt, các lãnh chúa phong kiến hình
thành nên các vương quốc riêng, vai trò quản lý của nhà nước bị hạn chế.
VD: nước Đức bị chia cắt thành 38 vương quốc nhỏ,...
Sau khi CNTB ra đời, với nền sản xuất hàng hóa đòi hỏi ngày càng mở
rộng thị trường. Do đó, đã xóa bỏ ranh giới các lãnh địa hình thành thị trường
chung thống nhất cho cả dân tộc.
Mác – Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản ngày càng xoá bỏ tình trạng phân tán
về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu
sản xuất, và tích tụ tài sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của
những thay đổi ấy là sự tập trung về chính trị. Những địa phương độc lập, liên hệ
với nhau hầu như chỉ bởi những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ,
chính phủ, thuế quan khác nhau, thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc thống
3


nhất, có một chính phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc
thống nhất mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất”
+ Ở Phương Đông, trước khi CNTB thâm nhập, trong quá trình dựng
nước và giữ nước đã hình thành cộng đồng người ổn định với tư cách là
một quốc gia độc lập.
Do thường xuyên chống chọi lại với thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán,...), lại
phải đương đầu với sự xâm lược của thực dân đế quốc. Do vậy, nhân dân đã sớm

đoàn kết thành một khối vững chắc. Vì thế, dân tộc ở phương Đông ra đời trước
khi CNTB ra đời.
b. Những đặc trưng của dân tộc
- Dân tộc được hiểu theo nghĩa rộng: (dân tộc - quốc gia) chỉ một cộng
đồng người được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử được sự
chỉ đạo của một nhà nước, trên cơ sở có một lãnh thổ chung ổn định, một nền
kinh tế chung, có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp và một nền văn
hóa mang bản sắc dân tộc.
Theo nghĩa này, dân tộc bao gồm tất cả các thành phần dân tộc sinh sống
trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia nhất định. Dân tộc gắn liền với quốc
gia (hay quốc tộc).
VD: Khi nói dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Quốc, dân tộc Lào, dân tộc
Campuchia,...cần hiểu đây là dân tộc quốc gia.
+ Có thể nói bất kỳ một dân tộc nào muốn tồn tại đều phải cư trú trên
một lãnh thổ nhất định. Lãnh thổ của một quốc gia được xác định với các
quốc gia khác bằng đường biên giới trên đất liền, trên biển và trên không
theo quy định của luật pháp quốc tế và sự hợp tác giữa các quốc gia gần
nhau.
VD: Dân tộc Việt Nam bao gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên
dải đất hình chữ S. Là một quốc gia nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương,
thuộc khu vực Đông Nam Á. Việt Nam phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp
Lào và Campuchia, phía tây nam giáp vịnh Thái Lan, phía đông và phía nam
giáp biển Đông và có hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có
vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ
Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng trên 1 triệu km²).
+ Có một nền kinh tế chung là đặc trưng quan trọng nhất của dân
tộc. Nhà nước của bất kỳ dân tộc nào trong quá trình lãnh đạo và điều hành
4



đất nước đều phải đưa ra và tiến hành hoạt động kinh tế chung trong cả
nước.
Lưu ý: Nếu Nhà nước của một dân tộc nào đó đề ra được một phương
thức sinh hoạt kinh tế chung đúng đắn, phù hợp sẽ làm cho kinh tế và đất nước
đó phát triển bền vững. Còn nếu phương thức sinh hoạt kinh tế chung đó sai lầm
sẽ làm cho nền kinh tế chậm phát triển, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
(Xem Môn Kinh tế chính trị, phần kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam).
+ Việc xác định ngôn ngữ chung cho dân tộc là hết sức cần thiết của
mọi quốc gia vì nó không chỉ thuận lợi cho việc giao tiếp, sinh hoạt, buôn
bán hợp tác,…mà còn thuận lợi cho công việc quản lý hành chính nhà
nước.
VD: Việt Nam lấy tiếng Việt (tiếng Kinh) làm ngôn ngữ giao tiếp chung.
Hay ở Trung Quốc thì ngôn ngữ giao tiếp chung là tiếng của tộc người Hán.
+ Đồng thời, dân tộc nào cũng có nét tâm lý riêng (tâm lý dân tộc),
biểu hiện kết tinh trong văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền
văn hóa dân tộc.
VD: 3000 cái tết trong năm của người Côlômbia; những làn điệu dân ca
khắp ba miền của Việt Nam,…
VD: Cũng là ăn, nhưng cách thức chế biến thức ăn, cách sử dụng dụng cụ
trong ăn uống là khác nhau. Người Ấn Độ ăn bốc. Người Việt dùng đũa.Còn
người Phương Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm dao, thìa, dĩa.
- Dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp: (dân tộc - tộc người) chỉ một cộng
đồng người có mối liên hệ chặt chẽ với ba đặc trưng chính: cộng đồng về
ngôn ngữ (ngôn ngữ tộc người); cộng đồng về văn hóa; ý thức tự giác tộc
người.
Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc - tộc người
hay cộng đồng tộc người.
VD: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Hmông, dân tộc Mường, dân tộc
Hà Nhì,...ở nước ta. Ta cũng có thể gọi là tộc người Kinh, tộc người Thái, tộc
người Hmông, tộc người Hà Nhì,...Thậm chí, đơn giản hơn là người Kinh, người

Hmông, người Thái, người Hà Nhì,...
+ Cộng đồng về ngôn ngữ. Ngôn ngữ (có thể bao gồm cả ngôn ngữ
nói, ngôn ngữ viết hoặc chỉ riêng ngôn ngữ nói hay tiếng mẹ đẻ của tộc
người) là tiêu chí cơ bản để phân biệt các dân tộc (tộc người) khác nhau.
5


VD: Ở Việt Nam hiện nay, trong 54 tộc người thì có 26 tộc người có cả
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Chẳng hạn như các dân tộc: Kinh,Thái, Mông,
Hoa, Chăm, Nùng, Tày, Êđê...
VD: Các dân tộc chỉ có ngôn ngữ nói hay tiếng mẹ đẻ như: La Hủ,...
Xem xét ngôn ngữ của mỗi dân tộc đòi hỏi phải rất cụ thể, có dân tộc vừa
dùng tiếng mẹ đẻ giao tiếp, vừa sử dụng ngôn ngữ của dân tộc khác đã trở thành
quốc ngữ.
VD: Việc 54 dân tộc ở Việt Nam đều sử dụng Tiếng Việt làm ngôn ngữ
giao tiếp chung đã giúp cho các mối quan hệ khác phát triển đồng bộ, đặc biệt là
giúp cho sự giao lưu tình cảm xuôi - ngược, đa số - thiểu số, kinh - thượng ngày
càng gắn bó.
VD: Người Tày và người Nùng (khu vực Đông Bắc) hiểu nhau đến mức
có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ của nhau. Một số vùng người Tày của tỉnh Lạng
Sơn lại có hiện tượng cứ khoảng 5 gia đình thì có một gia đình chuyển sang giao
tiếp hoàn toàn bằng ngôn ngữ Việt.
VD: Từ lâu 2 dân tộc PaCô và Tà Ôi (Thừa Thiên Huế và Quảng Trị)
dường như bị lẫn vào nhau. Do 2 dân tộc này có nhiều điểm tương đồng trong
phong tục, tập quán và tiếng nói. Kết quả khảo sát của các nhà khoa học cho thấy
người PaCô và người Tà Ôi hiểu được tiếng nói của nhau gần như đến trên 90%.
Ngoài ra, bên cạnh ngôn ngữ dân tộc lại có thêm nhiều nhóm ngôn ngữ địa
phương.
VD: Giữa các nhóm Nùng với nhau lại có hiện tượng "ngôn ngữ" bất đồng.
VD: Người Nguồn ở Quảng Bình đang được coi là thuộc dân tộc Chứt,

được xếp chung hệ ngôn ngữ Việt - Mường, nhưng trong đời sống thực tế hai
cộng đồng thiểu số này không hiểu được tiếng nói của nhau.
Do vậy, việc xác định thành phần dân tộc trong một quốc gia đòi hỏi phải
điều tra, khảo sát, phân loại ngôn ngữ một cách khoa học.
+ Cộng đồng về văn hóa. Những đặc điểm chung về văn hóa của dân tộc
(tộc người) cũng là tiêu chuẩn quan trọng để phân định thành phần dân tộc.
Những biểu hiện cụ thể của văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần - hay văn
hóa vật thể và phi vật thể - ở mỗi dân tộc phản ánh truyền thống, lối sống, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc đó. Lịch sử phát triển tộc người
gắn liền với lịch sử văn hóa tộc người.
Văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) thể hiện: kiến trúc nhà ở, trang phục,
trang sức, ăn uống, phương tiện vận chuyển,...
6


VD: Trang phục của người Thái mang quần áo bằng vải bông, nhuộm màu
chàm còn trang phục của người HMông được may từ vải lanh,...
VD: Trang phục của người phụ nữ Thái gồm có váy, xửa cỏm (áo) có một
hàng cúc bướm và khi mặc thì cài cúc, chiếc khăn Piêu là trung tâm trang trí của
bộ trang phục. Phụ nữ HMông mặc váy, áo xẻ ngực không cài cúc mà gấu áo
cho vào trong váy, cổ áo và váy là trung tâm trang trí của bộ trang phục. Còn
phụ nữ Dao, mặc áo dài, xẻ ngực, không có cúc cài, khi mặc họ dùng thắt lưng
thắt lại, giữ áo bó vào người, mặc quần (trừ Dao Tiền)
VD: Đồng bào Thái dùng nón lá nan tre để che nắng che mưa, đồng bào
HMông ít dùng nón chủ yếu dùng ô che nắng che mưa,...
VD: Về nhà ở, người Thái chủ yếu ở nhà sàn, người Tây Nguyên ở nhà
Rông, người Tày ở nhà dài,...
VD: Dân tộc Thái làm ruộng nước ở thung lũng núi, dân tộc Mông làm
ruộng bậc thang ở rẻo cao.
VD: Người Thái có truyền thống ăn cơm nếp, người HMông chủ yếu là ăn

ngô,...
VD: Cả người Mường và người Kinh đều có tục ăn trầu. Tuy nhiên, nếu để ý
vẫn thấy có khác với tục ăn trầu của người Kinh: Phụ nữ Mường vừa ăn trầu vừa hút
thuốc lào, còn phụ nữ Kinh chỉ ăn trầu nhưng lại cho cả thuốc lào vào trầu để ăn
chung chứ không hút riêng.
Văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) thể hiện: tiếng nói, chữ viết, văn
hóa dân gian, nghề thuốc dân gian, tín ngưỡng, tôn giáo,...
VD: Mỗi dân tộc có những lễ hội đặc sắc của dân tộc mình. Hội Lồng
tồng (xuống đồng) của người Tày, hội Hàn Khuống của người Thái, hội Pồn
Pôông (chơi hoa) và hội Gàu Tào của người HMông, hội Cầu Mưa của người Pà
Thẻn, hội Róong Pọoc của người Giáy,...
VD: Người Thái nổi tiếng với các điệu xòe, người Lào là múa Lăm
bông,...
VD: Trong cưới xin, người Thái có tục ở rể tại nhà cô dâu từ một đến ba
năm. Trong thời gian ở rể (thường là ở với bố mẹ đẻ) lao động, hưởng thụ như
mọi thành viên khác trong gia đình. Còn tục cưới xin của người HMông được
thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt. Con gái đã lấy chồng, do con ma nhà
chồng quản lý, không được quay về nhà mẹ đẻ nữa. Con gái Nùng lại có một
“đặc ân” đó là khi đã lấy chồng thì được tự do ở cả nhà chồng và nhà bố mẹ đẻ,
đến khi có con đầu lòng mới phải về ở hẳn bên nhà chồng.
7


+ Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất.
Đặc trưng của các dân tộc, tộc người là luôn luôn tự ý thức về cội nguồn tổ
tiên của dân tộc mình, đặc biệt nhất là ý thức về tên tự gọi (tộc danh) của dân tộc.
Đó cũng là ý thức tự khẳng định sự hiện tồn của mỗi dân tộc, dù có nhiều
biến động của sự thay đổi về lãnh thổ, địa bàn cơ trú, hay tác động, ảnh hưởng
của giao lưu kinh tế, văn hóa,...nhưng các dân tộc vẫn phát triển và tồn tại suốt
chiều dài lịch sử.

VD: Người Lào từ Lào di cư sang Việt Nam.
VD: Dân tộc Lự có nơi phát tích đầu tiên là vùng Xíp Xoong Păn Na thuộc tỉnh
Vân Nam – Trung Quốc. Tại Việt Nam, nhóm Lự đầu tiên có mặt ở vùng Điện Biên
vào đầu thế kỷ 12.
-> Do đó, nếu dân tộc nào mất đi ý thức tự giác tộc người thì dễ dàng bị
đồng hóa khi hội nhập và giao lưu hợp tác với các dân tộc khác trong nước và
quốc tế. "Không có bản lĩnh, bản sắc thì một dân tộc không thể tồn tại lâu dài"
(Phạm Văn Đồng).
Tóm lại, ba tiêu chí nêu trên phản ánh những đặc trưng của dân tộc
(tộc người), tạo nên sự ổn định trong mỗi cộng đồng dân tộc.
* Ý nghĩa thực tiễn với Việt Nam
- Xác định khái niệm dân tộc theo 2 nghĩa rộng, hẹp và vận dụng vào điều
kiện Việt Nam cần thấy rằng: khi nói dân tộc Việt Nam là nói đến cộng đồng các
dân tộc Việt Nam - đồng nghĩa với Tổ quốc, quốc tộc Việt Nam. Còn khi nói dân
tộc Kinh, Tày, Nùng, Thái, Hà Nhì, HMông,...là nói đến cộng đồng mang tính
tộc người với 3 tiêu chí trên. Hai khái niệm trên có liên quan mật thiết với nhau.
Khi nói đến dân tộc Việt Nam không thể không nói đến 54 dân tộc anh em đang
cùng sinh sống ở nước ta, ngược lại, khi nói đến các dân tộc ở Việt Nam không
thể không nói đến dân tộc Việt Nam thống nhất.
-> Cần phân biệt rõ 2 cấp độ khác nhau trong khái niệm dân tọc để khái
niệm dân tộc được sử dụng tuỷ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Đồng thời, thấy được khái niệm dân tộc khác với các khái niệm sắc tộc,
chủng tộc – nó chỉ căn cứ vào màu da hay cấu tạo tự nhiên trong cơ thể để phân
biệt dân tộc…không có cơ sở khoa học.
- Không được xem nhẹ hoặc làm lu mờ những đặc trưng dân tộc (tộc
người) trong một cộng đồng quốc gia Việt Nam đa dân tộc. Nổi bật là văn hoá,
nghệ thuật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý, tình cảm. (Ở Việt Nam, ba
8



đặc trưng của các dân tộc (tộc người) đã và đang được coi là căn cứ để xác định
các thành phần dân tộc).
- Đảng, Nhà nước ta khi hoạch định và thực hiện chính sách chung của
quốc gia, cần chú ý đến cái riêng và có chính sách riêng cho từng dân tộc.
2. Hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc và quan hệ
dân tộc (25 phút)
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào giải phóng dân tộc,
V.I.Lênin đã phát hiện ra 2 xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và
quan hệ dân tộc.
- Xu hướng thứ nhất (xu hướng phân lập), do sự thức tỉnh, sự trưởng
thành của ý thức dân tộc mà cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập cộng
đồng dân tộc độc lập và tự lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc mình.
Xu hướng này biểu hiện rõ nhất trong phong trào đấu tranh chống áp bức
dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
VD: Ở Việt Nam, ngay từ năm 938, với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô
Quyền thì Nhà nước Đại Việt ra đời tách khỏi sự phụ thuộc vào đế quốc Hán.
Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ, nước ta thoát khỏi ách nô dịch của
Thực dân Pháp, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Năm 1975, với chiến dịch Hồ
Chí Minh đại thắng chúng ta thoát khỏi sự thống trị của Đế quốc Mỹ, giải phóng
hoàn toàn đất nước. Từ đây, cả nước quá độ đi lên CNXH.
VD: Dưới âm mưu của thực dân, ĐQ các dân tộc bị phân lập như:
Pakistan bị tách ra khỏi Ấn Độ, Hàn Quốc bị chia tách khỏi Triều Tiên,
Đôngtimo tách khỏi Inđônêxia, Tây Tạng tách khỏi Trung Quốc...
- Xu hướng thứ hai (xu hướng liên hiệp) sự liên hiệp giữa các dân tộc
trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện.
Do sự phát triển khách quan của LLSX, của khoa học công nghệ đã mở ra
sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Các dân tộc xích lại gần nhau
không chỉ trong một quốc gia đa dân tộc mà còn ở phạm vi nhiều quốc gia liên
hiệp lại với nhau. Có như vậy mới phát triển được.
VD: Ở nước ta, 54 dân tộc anh em cùng tự nguyện đoàn kết dưới sự lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm xây dựng nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, tự chủ, "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ,
văn minh".
VD: Trung quốc là một quốc gia đa dân tộc và bao gồm rất nhiều các khu
tự trị (5 khu, khu tự trị dân tộc Choang ở Quảng Tây, khu tự trị Nội Mông Cổ,
9


khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ, khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, khu
tự trị Tây Tạng), có thêm 2 vùng lãnh thổ: Đài Loan và Hồng Kông. Song tất cả
các dân tộc, các khu tự trị, các vùng lãnh thổ đều tự nguyện liên hiệp, đoàn kết
với nhau để xây dựng nên một Trung Quốc hùng cường như ngày nay.
=> Trong thời đại hiện nay, hai xu hướng này đang thể hiện rất đa
dạng và phong phú.
Xu hướng phân lập:
+ Trên phạm vi thế giới, phong trào giải phóng dân tộc thu nhiều thành
tựu, hàng loạt nước thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc thực dân thành
lập các quốc gia dân tộc độc lập.
VD: ba nước Đông Dương (VN, LÀO, Campuchia) thoát khỏi cách thống
trị của thực dân Pháp năm 1954
VD: Những năm 60 của thế kỷ XX, hàng chục các quốc gia ở Châu Phi
giành được độc lập, gọi là "năm Châu Phi". Và còn rất nhiều các quốc gia ở
Châu Á, châu Mỹ La Tinh.
+ Trong nhiều quốc gia vốn là các nước liên bang, do những mâu thuẫn
nội tại kéo dài không được giải quyết đã dẫn đến sự phân rã liên bang và tái lập
các quốc gia dân tộc độc lập.
VD: Sau khi Liên Xô sụp đổ, liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết bị phân
ra thành 8 quốc gia dân tộc độc lập, Nam Tư phân lập thành 6 quốc gia,…
Xu hướng liên hiệp:
+ Trên phạm vi thế giới, diễn ra việc liên kết dưới nhiều hình thức khác

nhau giữa các quốc gia trên nhiều lĩnh vực, các vùng lãnh thổ.
VD: Ở Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của quy luật này nên
chúng ta đã gia nhập vào các tổ chức ASEAN, APEC, WTO,...để tranh thủ sự
giúp đỡ của khu vực và quốc tế.
Giải quyết những vấn đề chung của nhân loại (có tính toàn cầu): ngăn chặn
chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, hạn chế nạn đói, hạn chế đại dịch,…
VD: khối ASEAN – Đông NamÁ, Khối EU – Châu Âu, các nước G7 +
Nga,…
+ Trên phạm vi quốc gia, xu hướng liên kết để thống nhất cộng đồng các
dân tộc vì sự phát triển phồn vinh của quốc gia, dân tộc là nguyện vọng chung
của cộng đồng cư dân các quốc gia.
Ý nghĩa thực tiễn: Việc nắm bắt hai xu hướng này có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các chính đảng của các quốc gia nhằm giải quyết tốt quan hệ
10


dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc ở các khu vực
và phạm vi quốc tế.
Liên hệ Việt Nam: Nước ta là quốc gia XHCN nhiều dân tộc, 2 xu hướng
trên tác động mạnh, ta đấu tranh chống các lực lượng thù địch lợi dụng xu
hướng tách ra để kích động việc …dân tộc, đòi thành lập những khu tự trị…dẫn
tới sự chia rẽ dân tộc, phá hoại truyền thống đại đoàn kết của dân tộc.
- Phải có hệ thống chính sách phù hợp với từng dân tộc, để các dân tộc
trong nước không ngừng xích lại gần nhau thành một khối vững chắc.
- Do vậy, mỗi dân tộc - quốc gia phải biết thực hiện chính sách mở cửa để
hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại đang tiến lên phía trước. Đồng
thời, phải tìm được giải pháp hữu hiệu giữ gìn, phát huy bản sắc độc đáo của
dân tộc, quốc gia, lấy nó làm nền tảng để giữ vững độc lập, chủ quyền, tránh
nguy cơ bị đồng hóa do những thế lực lợi dụng toàn cầu hóa gây nên.
Nước ta là nước có nhiều dân tộc. Sự gắn bó của các dân tộc trong đại gia

đình các dân tộc Việt Nam đã được Đảng ta khẳng định: "Sự phát triển mọi mặt
của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng dân tộc trên
đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình
hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không
bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc".
Cùng với sự xuất hiện giai cấp và dân tộc, thì mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp cũng nảy sinh và trở thành mối quan hệ nổi bật trong xã hội.
3. Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng ở
Việt Nam (30 phút)
Ngay từ những năm giữa thế kỷ XIX, các nhà kinh điển thấy rõ vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc. Việc giải quyết vấn đề dân tộc được Mác
- Ăngghen từng nói: "Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì dân tộc ấy cũng
không thể có tự do". Trên cơ sở quan điểm của C,Mác và Ph.Ăngghen; phân tích
hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc dưới CNTB; dựa vào kinh
nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng nước Nga trong
việc giải quyết vấn đề dân tộc và khắc phục chủ nghĩa dân tộc để khôi phục và
thống nhất các lực lượng cách mạng ở nước Nga những năm đầu thế kỷ XX,
V.I.Lênin đã xây dựng nên Cương lĩnh dân tộc với ba nội dung cơ bản là:
Vậy Cương lĩnh dân tộc là gì? Nó có những nội dung nào?
Cương lĩnh là mục đích, đường lối, nhiệm vụ cơ bản của một tổ chức
chính trị, một chính đảng.
11


Cương lĩnh dân tộc là một chương trình hành động thể hiện đường lối
và những nhiệm vụ quan trọng nhất của GCCN và các Đảng Cộng sản về vấn
đề dân tộc.
Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm 3 nội dung cơ
bản: Các dân tộc có quyền bình đẳng, các dân tộc có quyền tự quyết, đoàn kết
GCCN các dân tộc.

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Bình đẳng là gì?
Bình đẳng là sự thể hiện ngang nhau về địa vị và quyền lợi.
- Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của tất cả các dân tộc và
không có sự phân biệt dù lớn hay nhỏ hoặc trình độ phát triển cao hay thấp.
VD: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nước ta là một nước thống nhất gồm
nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ. Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng
giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên CNXH".
Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh
tế, chính trị, văn hóa.
Bình đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước, quyền
tham chính của các dân tộc.
Bình đẳng về kinh tế là sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các dân tộc và
các vùng.
Bình đẳng về văn hoá là các dân tộc có sự phát triển hài hoà trong một
nền văn hoá đa dân tộc, không những không làm mất đi bản sắc dân tộc mà trái
lại bản sắc văn hoá của các dân tộc còn được giữ vững và ngày càng phát triển;
các dân tộc có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của mình, sự hưởng thụ văn
hoá và dân trí của các dân tộc đều được nâng cao.
- Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, không một
dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột các dân tộc khác. Trong một quốc gia
có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp
lý và quan trọng hơn nó phải được thể hiện trên thực tế ở tất cả các lĩnh vực
của đời sống.
Điều này, tạo cơ sở pháp lý chung để giải quyết các quan hệ dân tộc trên
phạm vi thế giới, trong các khu vực hay trong phạm vi từng quốc gia. Song điều
12



quan trọng hơn là phải được thực hiện trong cuộc sống để tránh khuynh hướng
hình thức, sách vở.
VD: Hiến pháp nước ta ghi rõ: "Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là
nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập
quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số" (Điều 5, HP 1992, đã sửa đổi bổ sung năm 2001).
Văn kiện ĐH X của Đảng chỉ rõ: "Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN".
- Con đường thực hiện trước hất phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai
cấp trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc; kết hợp sự phát triển tự
thân của mỗi dân tộc với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc khác để mỗi
dân tộc phát triển bền vững.
Ở nước ta, do hậu quả của chính sách cai trị của Thực dân trước đây, nên
các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch về trình độ phát triển. Bởi vậy, thực
hiện bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta chính là cơ sở cho việc xoá bỏ sự nô
dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác, là tạo điều kiện để khắc phục sự
chênh lệch về trình độ phát triển trên mọi lĩnh vực giữa các dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay, bình đẳng dân tộc nổi lên hàng đầu là việc xoá
bỏ sự kỳ thị của dân tộc này đối với dân tộc khác, là tạo điều kiện để khắc phục
sự chênh lệch về trình độ phát triển trên các lĩnh vực giữa các dân tộc. Bình
đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hợp tác, giao lưu
giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết

Tự quyết là sự tự quyết định, tự định đoạt những công việc về vận mệnh
của mình.
- Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển của dân tộc mình.
13


VD: Nước ta vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, hàng trăm năm bị
đè nén và đầu độc bởi chính sách chia để trị của thực dân Pháp. Chúng truyên bố
thành lập xứ Nam kỳ tự trị, Tây kỳ tự trị, xứ Thái tự trị, xứ Mường tự trị,...với mục
đích thực sự là chia cắt đất nước ta, chia rẽ nhân dân các dân tộc để từ đó tước bỏ
quyền độc lập của nước ta, kìm kẹp nhân dân ta trong vòng nô lệ lâu dài.
-> Do vậy, ở nước ta, nội dung cao nhất của quyền tự quyết là các dân tộc
đoàn kết đấu tranh để đánh đuổi thực dân Pháp, giành và giữ vững nền độc lập
của Tổ quốc, xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN - để các dân tộc đều được
phát triển tự do, đầy đủ và được hạnh phúc, ấm no. Sau này, cuộc đấu tranh của
dân tộc ta đánh đuổi Đế quốc Mỹ để giải phóng hoàn toàn đất nước, xây dựng
CNXH trên toàn đất nước.
VD: Các ĐCS ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc đã lãnh đạo các tầng
lớp nhân dân đứng lên chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc. Một số
nước sau khi đã giành được ĐLDT đã tuyên bố đi lên CNXH: Việt Nam, Trung
Quốc, Cu Ba, Triều Tiên, Lào,...và một loạt nước ở vùng Trung Á: Mông cổ,
Uzơbếch,...
- Quyền dân tộc tự quyết bao gồm:
+ Quyền tự do phân lập thành cộng đồng dân tộc độc lập;
VD: Những năm trước Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Sa Hoàng là
nhà tù của các dân tộc. Nga Hoàng đã thống trị các dân tộc một cách tàn bạo,
đồng hoá thậm chí thủ tiêu cả dân tộc, kích động các dân tộc chống đối lại nhau.
Vì vậy, Lênin đã ủng hộ yêu sách của dân tộc bị áp bức, đòi phân lập. Nhờ vậy

đã góp phần làm suy yếu chế độ chuyên chế Nga Hoàng, làm thất bại chính sách
dân tộc Sôvanh Đại Nga của nó, điều kiện đưa cách mạng đi tới thắng lợi.
+ Quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
VD: Sau Cách mạng tháng Mười, Lênin lại ủng hộ nguyện vọng liên hiệp
lại của các dân tộc để bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, xoá bỏ những
thù hằn để liên kết các dân tộc thành một quốc gia rộng lớn nhằm bảo vệ những
thành quả cách mạng đã giành được và cùng nhau xây dựng xã hội mới.
VD: Ngày nay, Việt Nam gia nhập các tổ chức: ASEAN, APEC, WTO, uỷ
viên không thường trực của Hội đồng bảo an LHQ,...trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, hợp tác cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau.

14


- Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên
lập trường của GCCN, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích
của GCCN.
Bởi vì, GCCN các dân tộc vừa đại diện cho lợi ích, nguyện vọng của
GCCN nói chung, vừa đại diện cho lợi ích của NDLĐ và của cả dân tộc.
VD: ĐCSVN khẳng định: "ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của GCCN,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của GCCN, NDLĐ và của dân tộc". "Lợi ích của GCCN
thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Ở Việt Nam, quyền tự quyết thể hiện tập trung nhất trong giai đoạn hiện
nay là quyền tham gia quản lý đất nước của toàn thể nhân dân các dân tộc, đoàn
kết trong một khối thống nhất vì mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH, vì "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Chuyển ý, quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc không phải tự

nhiên mà có. Ngược lại, chúng là kết quả của cuộc đấu tranh chống mọi thế lực
xâm lược, áp bức dân tộc và gây nên sự đồng hoá, cưỡng bức đối với nhiều dân
tộc. Đồng thời, việc thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc còn phụ
thuộc vào nội dung thứ 3 của Cương lĩnh.
Ba là, liên hiệp công nhân các dân tộc lại.
- Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và
thời đại.
- Liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiến tới hoàn thành SMLS của GCCN.
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của GCCN. Chỉ có đoàn kết được
GCCN ở tất cả các dân tộc, đoàn kết công nhân các nước và các dân tộc bị áp
bức mới có thể đoàn kết được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, dân chủ và CNXH.
Hồ Chí Minh khẳng định: cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa
và phụ thuộc với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp của công nhân chính quốc như
"hai cánh của một con chim" để đánh vào CNĐQ như "con đỉa 2 vòi". Cả 2 cánh của
con chim cùng phải đập thì chim mới có thể bay cũng như công nhân của các nước
thuộc địa và chính quốc cùng phải đấu tranh mới hoàn toàn đánh bại CNĐQ.
15


VD: GCCN Việt Nam nếu không có sự giúp đỡ to lớn của GCCN và nhân
dân lao động các nước: Liên Xô, Đông Âu, CuBa, Trung Quốc,...thì sự nghiệp
đấu tranh giải phóng đất nước của chúng ta sẽ còn gặp khó khăn.
VD: Xã hội ngày nay xuất hiện nhiều vấn đề: ô nhiễm môi trường, các tệ
nạn xã hội, bệnh tật (AIDS, H1N1,...),...thì không một quốc gia riêng lẻ nào đó
có thể giải quyết được. Nó đòi hỏi phải có sự hợp tác liên kết của tất cả các nước
trên thế giới mà nòng cốt là GCCN thì mới giải quyết được.

Chính vì thế, nội dung đoàn kết GCCN các dân tộc được nêu trong cương
lĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là giải pháp hữu hiệu bảo đảm việc thực
hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng và
giải pháp để liên kết các nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Kết luận: ba nội dung của Cương lĩnh về vấn đề dân tộc của chủ nghĩa
Mác - Lênin có quan hệ biện chứng. Trong đó, bình đẳng, tự quyết là mục
tiêu, còn sự đoàn kết GCCN các dân tộc vừa là kết quả vừa là điều kiện thực
hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc.
Đây là những vấn đề lý luận rất cơ bản cần phải được nhận thức sâu sắc,
là cơ sở cho việc xem xét, giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới hiện nay.
II. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA (90 phút)
Khi tiến hành hoạch định chính sách dân tộc, đặc điểm của các dân tộc là
một trong những căn cứ cơ bản cho việc hoạch định chính sách. Vậy các dân tộc
ở nước ta có những đặc điểm gì?
1. Đặc điểm về dân cư và quan hệ tộc người ở Việt Nam (25 phút)
a. Khái quát con đường hình thành dân tộc Việt Nam
- Chế độ công xã nguyên thủy ở Việt Nam tồn tại kéo dài hàng chục vạn năm.
- Việt Nam không trải qua thời kỳ phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ.
- Chế độ phong kiến Việt Nam mang đặc điểm chế độ phong kiến phương
Đông khác với phong kiến Phương Tây. Nghĩa là trong thời kỳ phong kiến ở
Việt Nam không có thời kỳ tồn tại của chế độ lãnh địa với quan hệ lãnh chúa –
nông nô, không trải qua thời kỳ phân quyền cát cứ lâu dài. Nhờ đó tính cố kết
cộng đồng và sự phát triển của tinh thần, ý thức dân tộc của người Việt Nam
được giữ vững -> đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành sớm dân tộc
Việt Nam.
- Các yếu tố cấu thành cho sự ra đời dân tộc Việt Nam
+ Thứ nhất, nhu cầu làm thủy lợi, chống thiên tai, phát triển nông nghiệp
trồng lúa nước.
16



Với một vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình khí hậu, một thiên nhiên
nhiệt đới gió mùa phong phú đa dạng, vừa thuận lợi vừa gặp không ít khó khăn,
con người Việt Nam phải có một lối ứng xử đặc biệt. Một mặt vừa thích nghi,
vừa khai thác những tài nguyên và những thuận lợi của thiên nhiên để duy trì và
phát triển cuộc sống. Mặt khác phải liên kết lại trong cuộc đấu tranh khắc phục
những trở ngại của thiên nhiên chống bão lụt, hạn hán. Công cuộc xây dựng đất
nước, phát triển kinh tế – xã hội trong những đặc điểm của thiên nhiên Việt Nam
đã nảy sinh yêu cầu khách quan thúc đẩy sự liên kết dân cư trong công xã nông
thôn và trong cộng đồng quốc gia tập quyền.
+ Thứ hai, nhu cầu chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc.
Chống giặc ngoại xâm không phải là đặc điểm riêng của dân tộc ta mà
trong xã hội có giai cấp để bảo vệ nền độc lập của mình các dân tộc khác cũng
luôn phải có kế sách chiến lược chống ngoại bang xâm lược. Tuy nhiên, nước ta
có lịch sử chống giặc ngoại xâm triền miên. Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ
III trước Công nguyên, đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa kết thúc,
trong hơn 22 thế kỷ, tính ra thời gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống
đô hộ ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa địa phương và chiến tranh giải
phóng dân tộc, đã lên đến trên 12 thế kỷ, chiếm quá nửa thời gian lịch sử. Trong
1000 năm Bắc thuộc có những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa Hai Bà
Trưng năm 40, Bà Triệu, Lý Bí… Đến năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, nước ta bắt đầu
thời kỳ quốc gia phong kiến lâu dài.
Các triều đại phong kiến Việt Nam phải đối đầu với tất cả các triều đại
phong kiến lớn của Trung Quốc như Tống, Nguyên, Minh , Thanh… và không
trừ một lần nào, chúng đều bị nhân dân ta đánh bại.
Đến kháng chiến chống CNĐQ, chúng ta chiến thắng cả những tên
CNĐQ đầu sỏ như Nhật , Pháp , Mỹ…
=> Trong vòng 22 thế kỷ, cuộc đấu tranh chống ngoại bang diễn ra hơn 12
thế kỷ. Vì vậy đòi hỏi nhân dân Việt nam phải đoàn kết nhất trí, luôn củng cố sự

thống nhất quốc gia.
+ Thứ ba, liên kết dân tộc trong kết cấu thành phần tộc người của cộng
đồng dân cư Việt Nam.
Do vị trí đại lý, đất nước ta có nhiều tôn giáo và là một quốc gia đa dân
tộc, sống tập trung ở vùng đồng bằng và đo thị, đồng thời sống xen kẽ ở trung
17


du và miền núi. Gồm 54 dân tộc anh em, trong đó người Kinh chiếm đa số với
86% dân số.
Mỗi thành phần dân tộc đều có sắc thái riêng về văn hóa, ngôn ngữ nhưng
bao trùm lên lại là toàn dân tộc Việt Nam ta thờ cúng ông bà, tổ tiên, cùng thờ
một đức vua chung là vua Hùng và những anh hùng có công dựng và giữ nước.
Hồ Chí Minh từng viết:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta,
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”.
Sự thống nhất và đa dạng đó, góp phần làm tăng thêm tính đa dạng của
văn hóa Việt Nam và là cơ sở hình thành dân tộc Việt Nam.
=> Những nhân tố đó là điều kiện cho quá trình hình thành sớm và phát
triển của dân tộc Việt Nam.
b. Đặc điểm
- Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh chiếm
khoảng 86% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm khoảng 14% dân số. Giữa các
dân tộc thiểu số, tỷ lệ cũng không đồng đều.
Bốn dân tộc (Tày, Thái, Mường, Khơme) có dân số trên 1 triệu người.
Bốn dân tộc (Hoa, Nùng, H’mông, Dao) có dân số từ 60 vạn tới dưới một

triệu người.
Chín dân tộc (Giarai, Ê-đê, Hrê, Ba-na, Sán Chay, Chăm, Cơ-ho, Xơđăng, Sán Dìu) có dân số từ 10 vạn đến 50 vạn người.
19 dân tộc có số dân từ 10.000 tới 100.000 người.
12 dân tộc có số dân từ 1000 đến 10.000 người.
5 dân tộc có số dân dưới 1000 người (SiLa, Pu Péo, Ơ-đu, Rơ-măm, Brâu).
- Các dân tộc ở Việt Nam, nhìn chung cư trú xen kẽ là chủ yếu, không
dân tộc nào có lãnh thổ riêng biệt.
Cư dân của một dân tộc cư trú ở nhiều tỉnh, trên từng địa bàn một tỉnh,
huyện, xã, thôn, bản có thể có nhiều dân tộc cùng cư trú.
VD: Theo thống kê thì ở nước ta, người Kinh cư trú trên tất cả các tỉnh,
người Mường cư trú tại 7 tỉnh, người Thái cư trú tại 8 tỉnh, người Dao cư trú tại
17 tỉnh, người Tày cư trú tại 11 tỉnh,...
18


VD: Trên địa bàn tỉnh Lai châu của chúng ta cũng là địa bàn cư trú đan
xen của 20 dân tộc anh em.
VD: Trước đây, khu vực miền núi là địa bàn cư trú chủ yếu của đồng bào
các dân tộc thiểu số, song trong vòng 20 năm trở lại đây, dân số của dân tộc
Kinh đã tăng lên đáng kể (do hệ quả của các chương trình định cư xây dựng kinh
tế mới của Chính phủ).
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có
điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác
cần đề phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập
quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn
đến va chạm giữa những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn.
Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao
lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do
sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác
nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các

dân tộc anh em.
- Dân tộc Kinh sống chủ yếu ở đồng bằng, còn các dân tộc khác ngoài
một bộ phận cư trú ở đồng bằng, ven biển, còn lại cư trú chủ yếu ở vùng biên
giới, miền núi. Đây là khu vực có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về biên
giới, thông thương, quốc phòng, môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm 3/4 diện
tích cả nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết
là tiềm lực về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, miền núi còn có
vai trò đặc biệt quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hoà
khí hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng
định. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền
núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân
dân ta.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp,
Nhật, Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc
của Tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ
vững chắc chủ quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ,
bảo vệ sự nghiệp hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
19


Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các
nước láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh
tế, văn hóa giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của
Ðảng và Nhà nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích
của cả nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã
hội, mà cả về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.
- Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời
trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng cộng đồng dân tộc

thống nhất.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc có chung cội nguồn.
Nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết như truyện "Quả
bầu mẹ" giải thích các dân tộc có chung nguồn gốc; truyện "Ðôi chim" đẻ ra
hàng trăm, hàng ngàn trứng nở ra người Kinh, người Mường, người Thái, người
Khơ-mú...; truyện của dân tộc Ba-na, Ê-đê kể rằng người Kinh, người Thượng là
anh em một nhà; đặc biệt là truyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc
trăm trứng nở ra trăm người con, một nửa theo cha xuống biển trở thành người
Kinh, một nửa theo mẹ lên núi thành các dân tộc thiểu số. Vua Hùng được coi là
Tổ tiên chung của cả nước.
Còn các tài liệu lịch sử cũng cho thấy, người Việt, người Mường là con
cháu của người Lạc Việt, là chủ nhân của nền văn hoá Ðông Sơn. Theo nhiều
nhà nghiên cứu, việc tách nhóm Việt -Mường thành các dân tộc là một quá trình
lâu dài, bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ I, đầu thiên niên kỷ II sau công nguyên.
Người Tày, Thái, Nùng là những bộ phận của người Tày, Thái cổ, trong quá
trình lịch sử đã tách thành các dân tộc Tày, Thái, Nùng. Người H'mông, Dao xưa
kia có cùng nguồn gốc, sau tách thành các dân tộc H'mông, Dao và Pà Thẻn.
Cũng có những dân tộc khác nhau về nguồn gốc lịch sử như các dân tộc
La Hủ, Lô Lô, Vân Kiều, Sán Dìu...
Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều
kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một
nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là
người trong một nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân
tộc nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nước ta ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng
rất khắc nghiệt. Do nắng lắm mưa nhiều nên hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt.
Do yêu cầu tồn tại và phát triển ở một nước nông nghiệp, trồng lúa nước là
20



chính, cư dân ở Việt Nam phải liên kết nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang,
chống thú dữ, xây dựng các hệ thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm
bảo phát triển sản xuất. Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó,
giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như
một tiêu chuẩn đạo đức.
Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn
cầu, càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh,
giảm nhẹ thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc
đấu tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của
khối đoàn kết dân tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc
Việt Nam càng thêm gắn bó chặt chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống
giặc ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục
đường giao thông Bắc - Nam, Ðông - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên
phong phú và vị trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành
trướng và xâm lược luôn nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm nổi
bật của lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong
đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có
và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam
luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh thắng
quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất
của các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự
nghiệp cách mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết
dân tộc được phát huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng nước ta.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự
hào cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu
mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực
của cách mạng nước ta ngày càng được tăng cường.

Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xẩy ra những
va chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân
tộc. Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động
chia rẽ dân tộc. Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời
21


đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là
nhiệm vụ của mỗi người dân Việt Nam.
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không
đều nhau do điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử chi phối.
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân
tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân
tộc sống ở vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít
người sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao.
Có những dân tộc ít người có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém.
Nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc
nghiệt. Ðiều kiện canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào
thường bấp bênh. Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật.
Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân
chủ yếu là do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và
đất nước phải liên tục đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là
những nguồn gốc của sự không bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải
quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài
mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ chung.
VD: Vào thời điểm trước Cách mạng Tháng Tám, cuộc sống của một số
dân tộc vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên (săn bắt, hái lượm) như dân tộc La
Hủ, dân tộc Chứt. Trong khi đó, đã có một số dân tộc đã tiến sang hoạt động
kinh tế sản xuất, lấy trồng trọt làm loại hình kinh tế chính như làm nương rẫy
như: dân tộc Khơ mú, Bru - vân kiều,...hoặc làm ruộng nước như các dân tộc:

Tày, Nùng, Thái,...
VD: Tỷ lệ đi học ở bậc tiểu học của vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt ổn định
ở mức 80%, trong khi đó dân tộc Kinh đạt tới trên 95%.
VD: Về ytế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân: khoảng 23% trẻ em dân tộc
thiểu số ở Việt Nam còn thiếu cân so với tuổi (Tỷ lệ này ở miền núi phía Bắc là
34,3%). Tỷ lệ nữ sinh con tại nhà không có sự trợ giúp của cán bộ ytế chuyên
môn ở các tỉnh miền núi phía Bắc rất cao, trong đó, Tây Bắc là 64,6%, Đông
Bắc là 32,6%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ chung của cả nước là 16,6%.
Từ tình hình, đặc điểm của quan hệ dân tộc ở Việt Nam, đòi hỏi Đảng
và Nhà nước ta phải đề ra chính sách dân tộc hợp lý để tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
2. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam (40 phút)
22


a. Những căn cứ khoa học để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng
chính sách dân tộc
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc.
* Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đề cập một cách toàn diện vấn đề dân tộc và
đề ra những giải pháp triệt để giải quyết vấn đề dân tộc.
- Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định sự áp bức bóc lột của giai cấp này đối
với giai cấp khác là nguồn gốc áp bức dân tộc này đối với dân tộc khác. Cách
mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi gắn liền với cách mạng vô sản.
Sự nghiệp giải phóng GCVS không tách rời giải phóng dân tộc, ngay từ đầu đã
gắn với dân tộc và mang tính dân tộc. GCCN mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, vươn lên địa vị một giai cấp dân tộc, “phải tự mình trở thành dân
tộc”. GCCN với tư cách là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải có nhiệm vụ phục
vụ lợi ích dân tộc, phục vụ nhân dân. Lợi ích dân tộc chân chính phải gắn với sự

phát triển bền vững và tiến bộ xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đồng thời, GCCN chỉ có thể được giải phóng triệt để khi giải phóng được tất cả
mọi người bị áp bức trên thế giới. Sự nghiệp giải phóng GCCN không phải là sự
nghiệp riêng rẽ của từng dân tộc mà mang tính quốc tế. Đây là sự nghiệp lâu dài,
diễn ra cùng với sự tiến bộ của văn minh nhân loại và sự giác ngộ của các giai
cấp, tầng lớp tiến bộ trong xã hội.
- Trong thời đại ĐQCN, vấn đề dân tộc càng trở lên quan trọng và bức
thiết, mối quan hệ đấu tranh giữa GCVS với GCTS và cuộc đấu tranh của các
dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân đế quốc càng trở lên chặt chẽ.
Lênin đã phát triển học thuyết Mác về vấn đề dân tộc trong điều kiện
CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN. Cương lĩnh dân tộc của Lênin bao gồm
những nội dung cơ bản: thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc; thực hiện
quyền dân tộc tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc
Đây là biểu hiện tập trung của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX.
- Tư tưởng xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, thực hiện đại đoàn kết toàn dân. “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và dân tộc ở Việt Nam trong tiến trình cách
23


mạng của GCCN, Hồ Chí Minh chỉ ra: mục tiêu bao quát của cách mạng nước ta
là đánh đuổi thực dân để giành độc lập cho dân tộc, đánh đổ phong kiến để
giành quyền làm chủ cho nhân dân và tiếp tục đưa đất nước qúa độ lên CNXH.
- Chính sách dân tộc của Đảng phải xuất phát từ đặc điểm của tình hình
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam: quốc gia đa dân tộc, các dân tộc có sự gắn
bó lâu đời trong tiến trình dựng và giữ nước, tình trạng phát triển không đồng đều
giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến tính thống nhât, cái chung;

đồng thời không xem nhẹ tính đặc thù, cái riêng của mỗi dân tộc.
b. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chính sách dân tộc là một hệ thống những quan điểm chính trị của
một giai cấp, đại diện là chính đẩng và nhà nước để giải quyết vấn đề dân tộc
và mối quan hệ giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chính sách dân tộc là cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về vấn
đề dân tộc, tác động trực tiếp đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước không có gì
khác là khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ đời sống nhân dân các dân
tộc, thực hiện từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xoá đói giảm
nghèo, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Trong điều kiện của một quốc gia đa dân tộc, có điều kiện và đặc điểm
mang tính đặc thù, sự cư trú xen kẽ, các dân tộc có bản sắc văn hoá riêng, các
dân tộc có truyền thống đoàn kết gắn bó với nhau trong quá trình dựng nước và
giữ nước…vì vậy, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước là chính cách chung
cho tất cả các dân tộc.
Chính sách dân tộc được thực hiện thông qua việc thực hiện các chính
sách kinh tế, chính sách xã hội được cụ thể hoá ở từng vùng dân tộc nhằm củng
cố mối qua hệ bình đẳng, đoàn kết giúp nhau cùng phát triển.
c. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc
Các nguyên tắc trong chính sách dân tộc được thể hiện trong các kỳ đại
hội của Đảng. Đại hội VI (1986), Đảng ta khẳng định: “Trong việc phát triển
kinh tế- xã hội ở những nơi có đồng bào dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ
chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên
tình đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể” (caua trích)

24



Đại hội VII (1991) của Đảng tiếp tục khẳng định các nguyên tắc trong
chính sách dân tộc: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc,
cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc…”
Đại hội VIII (1996) Đảng đã xác định: thực hiện “Bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.”
Quan điểm của Đảng được nêu trong Đại hội IX (2001): “Thực hiện tốt
chính sách dân tộc, bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển.”
Đại hội X (2006) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”
Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trên ba nguyên
tắc cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Các nội
dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau,tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một
thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Có bình đẳng
thì mới thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển
thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc.
Đoàn kết các dân tộc, các dân tộc đều là những thành viên của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Không phân biệt, chia rẽ, khinh miệt dân tộc. Đoàn kết là
truyền thống và sức mạnh của dân tộc để đi tới thắng lợi.
Bình đẳng giữa các dân tộc, là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bình đẳng giữa các dân tộc xuất phát từ
quyền cơ bản của con người. Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Vịêt Nam,
không phân biệt lớn, nhỏ,giàu, nghèo đều có quyền bình đẳng. Thực hiện quyền
bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá. Bình
đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước. Bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ nhưng trước hết là quyền tham chính của các dân tộc.
Đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như đa số đều có quyền làm chủ, có đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ công dân, có quyền và trách nhiệm xây dựng thế chế

chính trị, phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số.
Không ngừng nâng cao ý thức chính trị và văn hoá chính trị cho đồng bào các
dân tộc.
Bình đẳng về kinh tế, là phải tạo điều kiện cho các dân tộc, nhất là dân tộc
thiểu số phát triển về kinh tế-xã hội. Từng bước khắc phục sự chênh lệch về
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×