Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.81 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ HƯƠNG GIANG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Luật hành chính
Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ ĐÀO

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các
công trình khác.
HỌC VIÊN CAO HỌC

TRẦN THỊ HƯƠNG GIANG


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô giáo - Tiến sĩ BÙI


THỊ ĐÀO đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý và động viên em trong quá
trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tạo điều kiện của các thầy, cô chuyên
ngành đào tạo cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính – Trường Đại học
Luật Hà Nội, các bạn lớp Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính khóa 20
đã nhiệt tình giúp đỡ trong suốt khóa học.
Do thời gian và kiến thức của bản thân nên luận văn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để luận
văn được hoàn chỉnh. Cuối cùng, em xin kính chúc các thầy cô cùng gia đình
luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.
Tác giả

TRẦN THỊ HƯƠNG GIANG


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 5
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ
CÔNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ..................................... 6
1.1 Dịch vụ công và hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục .............................................................................................................. 6
1.1.1 Dịch vụ công và cung ứng dịch vụ công ............................................. 6
1.1.2 Dịch vụ công và cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ....... 8
1.2 QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ............. 9
1.2.1 Khái niệm QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục................................................................................................ 9
1.2.2 Nội dung QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục. ........................................................................................................... 11

Tổ chức bộ máy QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục ............................................................................................................ 11
1.2.3 Các yếu tố tác động đến QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục ..................................................................... 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................... 19
Chương 2. THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC HIỆN
NAY............................................................................................................. 20
2.1 Thực trạng pháp luật quản lí nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục ............................................................................. 20
2.1.1 Pháp luật điều chỉnh về công tác hoạch định chính sách đối với phát
triển dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ................................................ 21
2.1.2 Pháp luật điều chỉnh công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục .................... 24


2.1.1.3 Pháp luật về quản lý việc thành lập và quản lý về hoạt động của các
tổ chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ............................ 27
2.1.4 Pháp luật về QLNN đối với người cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục làm việc tại các cơ sở giáo dục ............................................. 31
2.1.5 Pháp luật về QLNN đối với chất lượng hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục ..................................................................... 34
2.1.6 Pháp luật về công tác tổ chức bộ máy QLNN đối với hoạt động cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ................................................. 38
2.1.7 Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ............ 40
2.1.8 Pháp luật về công tác thống kê, ứng dụng khoa học công nghệ trong
QLNN đối với dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục................................. 43
2.1.9 Pháp luật về tổ chức và quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục .. 44
2.2 Thực tiễn QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh

vực giáo dục.............................................................................................. 47
2.2.1 Những thành tựu đạt được ................................................................ 47
2.2.2 Những bất cập, hạn chế của QLNN đối với cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục ............................................................................. 60
2.2.3 Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế về QLNN đối với hoạt động
cung ứng dịch vu công trong lĩnh vực giáo dục ......................................... 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................... 71
Chương 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC ............................................................................................................. 73
3.1 Quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ................................................. 73
3.2 Các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ................................................. 74


3.2.1 Đổi mới tư duy QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực giáo dục....................................................................................... 74
3.2.2 Đổi mới QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục ............................................................................................................ 76
3.2.3 Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục .................... 80
3.2.4 Tăng cường công tác bảo đảm chất lượng giáo dục .......................... 81
3.2.5 Tăng cường nguồn lực đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý tài chính
trong các cơ sở giáo dục, đặc biệt là cơ sở giáo dục của nhà nước ............ 82
3.2.6 Bảo đảm công bằng trong tiếp cận dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục ............................................................................................................ 83
3.2.7 Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục ................................ 84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................... 85
KẾT LUẬN.................................................................................................. 86



1
LỜI NÓI ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI
Dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu
chung của cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội, do nhà nước chịu
trách nhiệm và không vì mục tiêu lợi nhuận. Trên thực tế, có rất nhiều loại dịch
vụ rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng đồng. Một trong các lĩnh
vực dịch vụ công ngày càng được nhà nước coi trọng là giáo dục. Đây là loại
hình dịch vụ khá đặc biệt vì cung ứng dịch vụ này cũng đồng thời là đầu tư tạo
nguồn nhân lực cho tương lai. Do đó, chất lượng dịch vụ không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của người thụ hưởng dịch vụ mà còn ảnh hưởng đến lợi ích
của toàn xã hội và tương lai của đất nước. Vì thế cho nên các vấn đề có liên quan
đến dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục luôn được cả xã hội quan tâm, đồng
thời cần và có khả năng thu hút rất nhiều lực lượng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào quá trình cung ứng dịch vụ này.
Muốn quản lý tốt, chúng ta cần phải có một hệ thống lý luận phù hợp
cũng như các thông tin thực tiễn đầy đủ. Lê-nin đã nhấn mạnh “từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Do đó, muốn
xây dựng hệ thống lý luận đầy đủ và phù hợp để phục vụ cho quá trình quản lý
cũng như đổi mới QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công thì phải
nghiên cứu chính đối tượng là hoạt động cung ứng dịch vụ công và thực tiễn
QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay. Chính vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch
vụ công trong lĩnh vực giáo dục” nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về
QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục; phân
tích, đánh giá các quy định hiện hành, các chính sách về giáo dục của Đảng và
Nhà nước; tổng kết, đánh giá thực tiễn và từ đó có cái nhìn tổng quan về nền
giáo dục nước nhà cả về lý luận và thực tiễn.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Không chỉ riêng Việt Nam mà xã hội hóa dịch vụ công đang diễn ra một cách
sâu rộng tại nhiều quốc gia khác trên thế giới với những tên gọi khác nhau. Đây cũng
là đối tượng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và nhiều tổ chức


2
quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, Chương trình phát
triển của Liên hợp quốc… Điển hình như các tác phẩm contracting Out Government
Services (Privatizing Government: An Interdisciplinary Series), International
Handbool on Privatization. Tuy nhiên, không đề cập nhiều đến vấn đề QLNN đối với
hoạt động cung ứng dịch vụ công, trong đó có lĩnh vực giáo dục mà các tác phẩm này
phần lớn tập trung khai thác các vấn đề nghiên cứu dưới góc độ của khoa học quản lý
và kinh tế học.
Ở Việt Nam, xã hội hóa dịch vụ công, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục cũng
nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu với nhiều công trình nghiên
cứu khác nhau trong các bài báo, sách chuyên khảo, đề tài khoa học, luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ… Như Chuyển giao dịch vụ công của cơ sở ngoài nhà
nước – Vấn đề và giải pháp của TS. Lê Chi Mai, Dịch vụ công – Đổi mới quản
lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay của TS. Chu Văn Thành, Xã hội
hóa công tác giáo dục – Nhận thức và hành động của Viện Khoa học giáo dục –
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Suy nghĩ về xã hội hóa giáo dục hiện nay của Trần
Quang Nhiếp, Để tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay của Nguyễn Minh Phương… Các tác phẩm này chủ yếu phân tích về hệ
thống lý luận cơ sở cho xã hội hóa nói chung và xã hội hóa cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, phân tích thực trạng xã hội hóa và kiến
nghị giải giải pháp để nâng cao hiệu quả xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục, trong đó, có đề cập một phần nhỏ về hiệu quả QLNN như là một
nguyên nhân và một giải pháp đề nâng cao xã hội hóa giáo dục. Tóm lại, các tác
phẩm này lấy vấn đề nghiên cứu xã hội hóa giáo dục và hiệu quả xã hội hóa giáo
dục mà không phải là QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo

dục làm đối tượng trung tâm để nghiên cứu.
Liên quan đến nội dung luận văn nghiên cứu, tác phẩm Xã hội hóa giáo
dục nhìn từ góc độ pháp luật của Lê Quốc Hùng, Hoàn thiện khung pháp luật về
xã hội hoá cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam: đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Trường của Trường Đại học Luật Hà Nội đề cập trực tiếp đến vấn đề pháp lý của
xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, pháp luật về xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, bao gồm cả hoạt động cung ứng dịch


3
vụ công trong lĩnh vực giáo dục chỉ là một nội dung của QLNN đối với hoạt
động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Tác phẩm Hoàn thiện
QLNN đối với các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập của tác giả Khúc
Văn Liên mặc dù đề cập đến QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi các trường đại học và
cao đẳng ngoài công lập. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu ở luận văn này bao
gồm tất cả các cấp học, trình độ học của giáo dục Việt Nam và phạm vi bao gồm
cả dịch vụ giáo dục công do nhà nước và ngoài nhà nước thực hiện.
Như vậy, phạm vi nghiên cứu và các vấn đề nghiên cứu của luận văn là
hoàn toàn khác với các tác phẩm đã được nghiên cứu trước đây. Luận văn được
nghiên cứu sẽ hoàn thiện các vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt động cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải
pháp thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề
chủ yếu:
- Những vấn đề lý luận về dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục và QLNN
đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
- Các nội dung QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh

vực giáo dục.
- Thực tiễn QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở những nghiên cứu này, tác giả đề xuất những giải pháp cụ thể
để nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lê nin, trong đó có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử.


4
Luận văn vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật Việt Nam, kết hợp với các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.. để lý giải các vấn đề lý luận, đánh
giá các quy định của pháp luật cũng như đánh giá các vấn đề thực tiễn có liên
quan giúp cho vấn đề nghiên cứu được nhìn nhận dưới góc nhìn đa chiều và đạt
được mục đích, hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
V. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
5.1 Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ được những vấn đề lý luận về
QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục như
khái niệm, đặc điểm, bản chất của dịch vụ công và dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục, chỉ ra đối tượng của QLNN đối với giáo dục bao gồm cả hoạt động
cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực này và vai trò của QLNN đối với hoạt
động này. Thêm vào đó, luận văn xem xét các mặt của QLNN đối với hoạt động
cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, đánh giá thực tiễn, khái quát các
thành tựu đạt được, chỉ ra các hạn chế, bất cập nảy sinh và nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập này trong QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ

công trong lĩnh vực giáo dục. Từ đó, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp thiết
thực nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN đối với hoạt động cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Đây mới là mục đích chính của việc
nghiên cứu luận văn.
5.2 Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nhận thức đầy đủ và sâu sắc các vấn đề lý luận cơ bản về đối tượng
nghiên cứu: khái niệm, đặc điểm, bản chất của dịch vụ công và dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục, chỉ ra đối tượng của QLNN đối với giáo dục bao gồm cả
hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực này và vai trò của QLNN đối
với hoạt động này.
- Xác định được các mặt của QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục.


5
- Đánh giá thực tiễn, khái quát các thành tựu đạt được, chỉ ra các hạn chế, bất
cập nảy sinh và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này trong QLNN đối với
hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
- Đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN
đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ
CÔNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH
VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Chương 2 – THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Chương 3 – GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ
CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
1.1. Dịch vụ công và hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
1.1.1. Dịch vụ công và cung ứng dịch vụ công
Khái niệm dịch vụ công là một khái niệm còn mới trong khoa học pháp lý
Việt Nam. Tuy nhiên, trong hơn mười năm trở lại đây, khái niệm này đã xuất hiện
rất nhiều trong nhiều lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương của Đảng đến các văn bản
quy phạm pháp luật của nhà nước, từ các thành quả của nghiên cứu khoa học đến
các bài viết trên các báo, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ: “Xây
dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hóa… Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ theo hướng Bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công”.
Về mặt đường lối đã có đề cập đến dịch vụ công. Tuy nhiên, cả về mặt đường lối
cũng như về pháp lý vẫn chưa được khái quát bằng một định nghĩa mang tính
chính thống. Do đó, thông qua các hoạt động nghiên cứu, với nhiều cách tiếp cận
khác nhau đã có nhiều định nghĩa về dịch vụ công: Dịch vụ công là những hoạt
động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các
tổ chức và công dân, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hoặc ủy nhiệm cho các cơ
sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội1; Dịch
vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh
nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được nhà nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ
do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu chung của

cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi; bảo đảm sự công bằng và
ổn định xã hội2; Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của
xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm
1
PGS. TS. Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003,
trang 24
2
Viện Khoa học tổ chức Nhà nước – Bộ Nội vụ, TS. Chu Văn Thành (chủ biên), Dịch vụ công và xã hội hóa
dịch vụ công Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, trang 15.


7
nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện3; Dịch vụ
công là những hoạt động phục vụ nhu cầu, lợi ích chung thiết yếu của dân
chúng, gắn liền với chức năng phục vụ của nhà nước, phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội và chỉ xuất hiện khi có yêu cầu từ dân cư và xã hội4…
Như vậy, có thể thấy, dưới nhiều góc độ tiếp cận và giải quyết vấn đề
khác nhau thì dịch vụ công cũng có những định nghĩa với cách diễn đạt khác
nhau. Tuy nhiên, tựu chung lại, cho dù vẫn có sự khác biệt nhưng giữa các quan
niệm khác nhau như vậy vẫn tồn tại những đặc điểm chung được thừa nhận để
xác định dịch vụ công. Theo chúng tôi, có thể đưa ra hiểu về dịch vụ công như
sau: Dịch vụ công là khái niệm dùng để chỉ việc thực hiện các hành vi nhất định
từ phía nhà nước thông qua cơ quan, tổ chức của nhà nước hoặc các tổ chức
được nhà nước ủy nhiệm nhằm đáp ứng, giải quyết các nhu cầu thiết yếu của xã
hội, trên cơ sở có thu phí hoặc không thu phí nhằm bảo đảm sự công bằng trong
việc hưởng thụ của mọi người dân, tổ chức trong xã hội.
Dịch vụ công muốn đi vào thực thế phải thông qua việc tổ chức thực hiện
các công việc nhất định để tạo ra các lợi ích đáp ứng nhu cầu cụ thể của tổ chức,
công dân trong xã hội. Hoạt động này gọi là cung ứng dịch vụ công hay hoạt
động cung ứng dịch vụ công. Như vậy, cung ứng dịch vụ công là việc nhà nước

thông qua các tổ chức, cá nhân làm việc trong các bộ phận của bộ máy nhà
nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong xã hội được nhà nước ủy nhiệm thực hiện
các công việc nhất định của dịch vụ công trên cơ sở có thu phí hoặc không, để
biến nó thành các lợi ích trao cho các công dân, tổ chức có nhu cầu trong xã hội
đã yêu cầu được hưởng lợi ích đó. Như vậy, qua khái niệm này, cung ứng dịch
vụ công bao gồm các đặc điểm:
- Thứ nhất, cung ứng dịch vụ công là việc hiện thực hóa dịch vụ công cụ
thể thành các lợi ích để người yêu cầu được thụ hưởng.
- Thứ hai, trách nhiệm cung ứng dịch vụ công do nhà nước thực hiện. Nhà
nước cung ứng các dịch vụ công này thông qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước.
3

Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, trang 3
Trường Đại học Luật Hà Nội – Bộ Tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, TS. Nguyễn Văn
Quang (chủ nhiệm đề tài), Hoàn thiện khung pháp luật vè xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam,
trang 68
4


8
- Thứ ba, hoạt động cung ứng dịch vụ công không mang bản chất hoạt
động cung ứng dịch vụ trên thị trường. Bởi vì, hoạt động cung ứng dịch vụ công
không phải là một sự “mua bán ngang bằng” mà là một sự mua bán “không
ngang bằng”. Người dân trả chi phí cho việc cung ứng dịch vụ công bằng hình
thức trả gián tiếp thông qua thuế là chủ yếu, phần còn lại được bù đắp thông qua
hoạt động chi trả trực tiếp – thông qua phí, l




10
rằng, dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục phục vụ thiết yếu nhu cầu của đại đa
số dân chúng, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của xã hội, lợi ích của dân cư, sự
ổn định, tồn tại và phát triển của cả xã hội. Chính vì vậy, nhà nước tất yếu phải
quản lý đối với dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Dù là nhà nước trực tiếp cung ứng dịch vụ công hoặc ủy nhiệm cho các
đơn vị ngoài nhà nước cung ứng vẫn cần có sự tách biệt giữa chức năng cung
ứng dịch vụ công và chức năng QLNN đối với dịch vụ công. Đây là hai mặt của
sự quản lý thống nhất của nhà nước nói chung và đối với dịch vụ công nói riêng.
Việc tổ chức và hoàn thành trách nhiệm cung ứng dịch vụ công nói chung và
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng chính là sự thể hiện việc hoàn thành trách
nhiệm của nhà nước đối với xã hội và dân cư.
Quan hệ cung ứng dịch vụ công là quan hệ thị trường không đầy đủ. Cùng
với việc xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì bản chất của
quan hệ cung ứng dịch vụ công cần phải được giữ vững, không để cho quan hệ
cung ứng dịch vụ công bị thị trường hóa. Nguyên tắc căn bản trong cung ứng
dịch vụ công là bảo đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử trong cung ứng
dịch vụ công. Do đó, nhà nước sẽ có trách nhiệm điều tiết việc cung ứng dịch vụ
công để bảo đảm quyền, lợi ích của nhân dân – những người hưởng thụ dịch vụ.
Xuất phát từ tầm quan trọng của dịch vụ công là do nhu cầu của đại bộ phận
nhân dân. Do đó, muốn đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội, giữ vững
mục tiêu công bằng xã hội thì rất cần sự quản lý của nhà nước để tham gia điều
tiết, giữ vững bản chất này của dịch vụ công.
QLNN đối với cung ứng dịch vụ công nói chung, cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng cũng sẽ bảo đảm quyền lợi cho các tổ chức, cá
nhân thực hiện, cung ứng dịch vụ công. Cung ứng dịch vụ công là một hoạt động
nghiệp vụ. Tuy nhiên, xuất phát từ tôn chỉ phi lợi nhuận trong cung ứng dịch vụ
công mà nhiều khi không thúc đẩy được sự đảm bảo và nâng cao chất lượng
cung ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, nếu nhà nước bao cấp hết các hoạt động cung
ứng dịch vụ công thì mặc dù xét theo chiều rộng có thể cung cấp đầy đủ các loại

dịch vụ công cho xã hội nhưng xét theo chiều sâu thì do nguồn lực đầu tư có hạn
nên chất lượng cung ứng sẽ không cao. Do đó, việc thu hút các nguồn lực xã hội
vào cung ứng dịch vụ công là điều hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả cung


11
ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, muốn thu hút được thì cũng phải có những lợi ích,
những quyền lợi nhất định dành cho các chủ thể này để họ cung ứng dịch vụ
công một cách tốt nhất. Và lợi ích đó, quyền lợi đó phải được nhà nước đảm bảo,
hiện thực hóa để thực hiện trách nhiệm của nhà nước đối với các chủ thể này.
Khi đó, các chủ thể này sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình để được hưởng các
quyền lợi đó. Và cũng cần phải thiết lập một cơ chế quản lý hợp lý để bảo đảm
việc cung ứng dịch vụ công không thay đổi về bản chất cũng như tránh tình trạng
độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh trong cung ứng dịch vụ công. Đặc biệt,
đối với các loại dịch vụ công có thu phí rất dễ xảy ra các điều không mong muốn
và rất có thể bị thị trường hóa. Chính vì vậy, trách nhiệm của nhà nước ở đây là
phải hạn chế tiêu cực trong quá trình cung ứng dịch vụ công, nhất là các loại
dịch vụ công đã và sẽ được chuyển giao cho lĩnh vực ngoài nhà nước cung ứng.
Như vậy, qua những sự phân tích trên, có thể thấy, QLNN đối với cung
ứng dịch vụ công nói chung, cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục nói
riêng là hết sức cần thiết. QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục – ngay trong tên gọi chúng ta đã xác định được đối tượng của QLNN và
lĩnh vực QLNN ở đây. Đối tượng của QLNN ở đây chính là hoạt động cung ứng
dịch vụ công liên quan đến hoạt động truyền thụ kỹ năng, kiến thức cho người
học. Từ đó, có thể thấy, QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực giáo dục có thể được hiểu là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục, do các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở
tiến hành nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp cụ thể nhằm
phát triển sự nghiệp giáo dục, duy trì trật tự, kỷ cương, đáp ứng nhu cầu thụ

hưởng dịch vụ giáo dục của nhân dân.
1.2.2 Nội dung QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Tổ chức bộ máy QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
QLNN được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan QLNN. Nhà
nước cần phải thiết lập hệ thống cơ quan quản lý để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhất định đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công. Đó là việc
tổ chức bộ máy, là việc bố trí nguồn nhân lực… Những công việc này ảnh hưởng


12
trực tiếp đến hiệu quả và hiệu lực QLNN đối với cung ứng dịch vụ công nói
chung, cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
Công tác tổ chức bộ máy QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục bao gồm những công việc như quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ máy QLNN đối với cung ứng dịch vụ công;
xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN trong việc quản lý cung ứng
dịch vụ công; công tác cán bộ cho bộ máy QLNN đối với cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục…
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục
Đây là hoạt động rất quan trọng. Bất kỳ hoạt động quản lý nào cũng phải
có những kế hoạch để thực hiện. Đó có thể là kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung
hạn, kế hoạch ngắn hạn. Tất cả các kế hoạch này cần phải được chủ thể quản lý
xây dựng để bảo đảm cho các hoạt động quản lý đi đúng phương hướng, mục
tiêu cũng như đạt hiệu quả tốt nhất.
Ở tầm vĩ mô, chỉ nhà nước mới có trách nhiệm và có khả năng tốt nhất để
tổng kết và đưa ra các dự báo có tính chiến lược và các quy hoạch để phát triển
các dịch vụ công nói chung, dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục nói riêng trong
phạm vi quốc gia mình, đảm bảo cho sự phát triển của dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục có hiệu quả nhất.

Trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, nhà nước ban hành các chiến lược,
quy hoạch trong việc cung ứng và phát triển dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục. Các chiến lược, quy hoạch này ban hành phải có chất lượng. Chất lượng có
thể được đánh giá bằng nhiều loại tiêu chí khác nhau, chẳng hạn như phù hợp
với lý luận chung về cung ứng dịch vụ công, về khả năng thực tế của đất nước
cũng như đặt ra các mục tiêu có tính khả thi, đưa ra các dự báo có cơ sở….
Chiến lược phải được ban hành một cách đa dạng, như chiến lược mười năm, hai
mươi năm, năm mơi năm… Cụ thể hóa các chiến lược này bằng cách xây dựng
các quy hoạch, kế hoạch cụ thể. Các quy hoạch, kế hoạch này cũng phải đảm bảo
tính đa dạng và đặc biệt là phải bám sát các mục tiêu đã đặt ra dựa trên các đòi
hỏi, yêu cầu của người dân và tình hình thực tế của đất nước và trên thế giới.


13
Ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật về hoạt động cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục
QLNN trong một xã hội hiện đại phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật,
trong khuôn khổ pháp luật cũng như phải hiện thực hóa pháp luật đã được đặt ra.
Pháp luật quản lý dịch vụ công trong QLNN đối với cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu QLNN và hiệu quả
QLNN đối với lĩnh vực này. Đó là các nội dung về phạm vi tác động, biện pháp
tác động của QLNN, các nội dung QLNN…. Cụ thể, bao gồm các nhóm nội
dung sau:
- Xác định mục tiêu, nhiệm vụ, các nguyên tắc của hoạt động cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục;
- Quy định trách nhiệm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức trong cung
ứng và hưởng thụ dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục;
- Quy định điều kiện và cách thức thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ
công; quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục;

- Quy định biện pháp thanh tra, kiểm tra; vi phạm và xử lý vi phạm đối
với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Các quy định của pháp luật QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
công này phải đảm bảo các yêu cầu chung như phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch đã đề ra, phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với tiến trình
phát triển… Mặt khác, cũng cần phải thấy, các quy định này có thể được tập
trung trong một văn bản quy phạm pháp luật, cũng có thể nằm rải rác ở nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Điều này đòi hỏi phải có những cơ chế
nhất định để đảm bảo sự thống nhất, đảm bảo sự đầy đủ của pháp luật QLNN về
hoạt động cung ứng dịch vụ công.
Sau khi ban hành được các quy định của pháp luật cần phải có những biện
pháp tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật QLNN về hoạt
động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Các quy định này cần phải
được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm minh, chính xác. Trong quá trình đó,
nếu có những quy định còn chưa đầy đủ hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, chưa


14
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn thì cần phải có những sự sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp, để đạt được hiệu quả cao nhất trong QLNN đối với cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục.
Quản lý việc thành lập và hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục
Như đã đề cập, cung ứng dịch vụ công có thể do chính các cơ quan nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp của nhà nước cung ứng hoặc có thể đó là chuyển giao
cho các đơn vị ngoài nhà nước tổ chức cung ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, do
tính chất và tầm quan trọng của dịch vụ công, cho nên, không phải bất kỳ tổ
chức nào cũng có thể cung ứng được. Pháp luật về cung ứng dịch vụ công và
QLNN về cung ứng dịch vụ công quy định về việc thành lập và quản lý đối với
các tổ chức cung ứng dịch vụ công. Đó là các quy định về: cá nhân, tổ chức có

quyền thành lập tổ chức cung ứng dịch vụ công; điều kiện thành lập, thủ tục
thành lập tổ chức cung ứng dịch vụ công….
Tuy nhiên, để đảm bảo cung ứng dịch vụ công một cách đầy đủ cho xã hội
cũng như tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ
công thì cần xây dựng quy hoạch mạng lưới cung ứng dịch vụ công. Trên cơ sở
quy hoạch mạng lưới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập
hoặc cho phép thành lập các tổ chức, đơn vị cung ứng dịch vụ công. Việc thành
lập hoặc cho phép thành lập các cơ sở cung ứng dịch vụ công được hiểu là sự ủy
nhiệm của nhà nước cho các cơ sở này trong việc cung ứng dịch vục công.
Đối với lĩnh vực giáo dục, dịch vụ công được cung ứng thông qua hệ
thống mạng lưới các cơ sở giáo dục đào tạo, đó là các trường học, các trung tâm
đào tạo, bồi dưỡng… Hiện nay, đã có quy hoạch toàn quốc, quy hoạch các khu
vực trong việc thành lập các đơn vị này. Việc thành lập các đơn vị này thông qua
quy trình chặt chẽ do pháp luật quy định. Và tùy thuộc vào mức độ hoạt động và
tầm quan trọng của mỗi lĩnh vực đào tạo, mỗi cấp độ đào tạo mà có sự phân cấp
quản lý hợp lý trong việc thành lập và quản lý hoạt động đối với các cơ sở này.
Chẳng hạn như việc thành lập các trường đại học thuộc thẩm quyền quyết định
của Thủ tướng Chính phủ, thành lập các trường học cấp độ trung học phổ thông
thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh….


15
Sau khi cho phép các cơ sở cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
được phép thành lập và hoạt động, trong quá trình hoạt động của mình, các cơ
quan nhà nước được giao trách nhiệm QLNN tiến hành giám sát toàn bộ hoạt
động của các đơn vị này, đảm bảo hoạt động đúng các quy định của pháp luật.
Việc giám sát hoạt động này đảm bảo cho lợi ích và quyền lợi của tất cả các bên
tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục do đơn vị
được thành lập đó cung ứng.
Tổ chức, chỉ đạo việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cá nhân, tổ chức thực hiện

cung ứng dịch vụ công
Cung ứng dịch vụ công nói chung, dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
nói riêng là các hoạt động mang tính nghiệp vụ chuyên biệt. Tất cả các dịch vụ
công đều yêu cầu có những kỹ năng chuyên biệt, nhưng phải đảm bảo tính thống
nhất trong toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ được cung cấp để đảm bảo tính công
bằng trong hưởng thụ dịch vụ công. Cung ứng dịch vụ công thuộc trách nhiệm
của nhà nước, do đó, nhà nước phải có những chuẩn chung cho các nghiệp vụ
cung ứng dịch vụ công. Việc cung ứng dịch vụ công, hiệu quả cung ứng dịch vụ
công ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện trách nhiệm của nhà nước đối với
người dân. Chính vì vậy, nhà nước cũng có trách nhiệm trong việc trang bị kỹ
năng nghiệp vụ cần thiết cho những người cung ứng dịch vụ công và các tổ chức
thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ công. Đó cũng là việc phải thường xuyên
bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin, văn bản quy phạm
pháp luật cho những người cung ứng dịch vụ công và tổ chức cung ứng dịch vụ
công. Các hoạt động này phải bảo đảm sự tiếp cận công bằng của tất cả những
người và tổ chức cung ứng dịch vụ công. Ngoài ra, cần phải chú trọng đào tạo
nhân lực chất lượng cao, xây dựng các mô hình dịch vụ công chất lượng cao
cũng như tập trung trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết để đáp ứng các yêu
cầu trước mắt cũng như lâu dài trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay.
Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục
Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn trong QLNN nói chung, quản lý dịch
vụ công nói riêng. Đây là những biện pháp hữu hiệu để giúp cơ quan QLNN nắm


16
bắt được tình hình tổ chức và cung ứng dịch vụ công, nắm bắt được tình hình
thực hiện pháp luật, phát hiện vi phạm trong cung ứng dịch vụ công… Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý, thanh tra, kiểm tra không can thiệp vào các hoạt động của

các tổ chức cung ứng dịch vụ công nếu như các hoạt động của các tổ chức này
diễn ra trong khuôn khổ pháp luật và không được làm gián đoạn hoạt động bình
thường của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra.
Cùng với công tác thanh tra, kiểm tra, công tác phát hiện và xử lý vi phạm
cũng là một nội dung quan trọng của QLNN. Hoạt động cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục được đảm bảo công bằng trong tiếp cận và được hưởng
lợi ích từ việc cung ứng dịch vụ này. Xử lý vi phạm đảm bảo xác định trách
nhiệm của các chủ thể vi phạm, đồng thời cũng là biện pháp để khôi phục quyền
lợi vi phạm, bảo đảm công bằng trong thụ hưởng dịch vụ công. Các chế tài khi vi
phạm pháp luật trong cung ứng dịch vụ công có thể là các biện pháp xử lý hành
chính, có thể là các biện pháp xử lý kỷ luật cũng có thể đó là các biện pháp dân
sự, thậm chí là các biện pháp hình sự. Các vi phạm pháp luật nói chung là gây ra
thiệt hại đáng kể cho xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục nó ảnh hưởng đến lợi ích của số đông, và thậm chí ảnh
hưởng cả đến một thế hệ, có thể làm suy yếu chế độ và xã hội trong tương lai.
Các hành vi vi phạm này được xác định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp
luật về xử lý vi phạm, và các chế tài cũng được đặt ra đối với mỗi hành vi và
mức độ vi phạm. Việc xử lý vi phạm này được thực hiện theo một yêu cầu chung
đó là phải nghiêm minh, đúng pháp luật nhưng cũng phải đảm bảo có tính giáo
dục, phòng ngừa vi phạm tiếp tục xảy ra.
Thực hiện các công tác thống kê, thông tin, ứng dụng khoa học, công
nghệ vào dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
Công tác thống kê giúp cho các nhà quản lý nắm bắt tình hình thực tế của
việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Trên cơ sở đó, xây dựng các
chiến lược, chính sách, quy hoạch và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống tổ
chức quản lý và cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục một cách phù
hợp với có hiệu quả. Công tác thống kê là công tác nghiệp vụ trong QLNN.
Công tác này chủ yếu được thực hiện bằng các báo cáo về tất cả các nội dung



17
liên quan đến cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục như hệ thống cung
ứng dịch vụ công được tổ chức, số lượng người được phục vụ và chưa được
phục vụ dịch vụ công…. Trên cơ sở những số liệu đó sẽ phân tích theo nhiều
hướng tiếp cận khác nhau, đặc biệt là xác định những điểm chưa hiệu quả và
nguyên nhân của chúng để có hướng điều chỉnh cho phù hợp, nâng cao hiệu quả
cung ứng dịch vụ công.
Khoa học, công nghệ trợ giúp cho việc cung ứng dịch vụ công đạt hiệu
quả. Khoa học công nghệ cũng trợ giúp cho hoạt động QLNN đối với cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Hỗ trợ cho các cơ quan QLNN thực hiện
tốt nhất quyền quản lý của mình như công tác thông tin, báo cáo được nhanh
nhạy, công tác lưu trữ thông tin và tìm kiếm thông tin được thuận tiện…. Trong
thời gian qua, việc tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ đã giúp cho
QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục được
thực hiện một cách có hiệu lực và hiệu quả, giúp việc quản lý được dễ dàng,
thuận lợi, nhanh chóng và chính xác.
1.2.3 Các yếu tố tác động đến QLNN đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục
Các yếu tố tác động đến QLNN trong công tác QLNN đối với dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục bao gồm:
- Chất lượng của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và pháp luật. Thực hiện
QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, trong
các hoạt động QLNN khác nói chung được thực hiện trên cơ sở các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và pháp luật đã được đặt ra. Các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và pháp luật đặt ra phải được dựa trên nền tảng lý luận vững chắc và phù
hợp với tình hình thực tế. Chính tính hợp pháp và đặc biệt là tính khả thi của các
văn bản này làm nên chất lượng của nó. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và pháp
luật đặt ra có chất lượng thì hoạt động triển khai nó mới có chất lượng được.
Chẳng hạn như một quy định của pháp luật về QLNN đối với cung ứng dịch vụ
công nếu phù hợp với thực tiễn thì nó mới có thể hiện thực hóa trong thực tế và

đem lại hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, nếu quy định đó là không phù hợp thì
nó không thể đi vào cuộc sống, mà nếu có đi vào được cuộc sống thì sẽ gây phản


18
tác dụng, mục đích điều chỉnh không đạt được và có thể là gây ra thiệt hại nhất
định, điều này không tạo nên hiệu quả cho QLNN đối với hoạt động cung ứng
dịch vụ, thậm chí là làm giảm hiệu quả của hoạt động quản lý này.
- Tính hợp lý, hiệu quả của bộ máy quản lý và chất lượng nguồn nhân lực
làm công tác quản lý: các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và pháp luật đi vào
cuộc sống thông qua hoạt động của bộ máy QLNN và đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Đối với tính hợp lý và hiệu quả của bộ máy quản lý, bất kỳ hoạt động tổ
chức nào cũng vậy, mong muốn lớn nhất là thiết lập một bộ máy quản lý gọn,
nhẹ nhưng đủ năng lực để giải quyết tốt nhất các nhiệm vụ đặt ra và đảm bảo
tính hài hòa đối với các bộ máy khác của nhà nước. Do đó, khi thiết lập bộ máy
quản lý cần đảm xem xét đến sự hài hòa với toàn bộ bộ máy nhà nước cũng như
căn cứ vào yêu cầu công việc cụ thể để xác định bộ máy cho phù hợp. Cùng với
đó, phải xem xét đến nguồn nhân lực cần phải bố trí và yêu cầu đối với mỗi vị trí
cần bố trí. Mỗi vị trí trong bộ máy đều cần phải được cơ cấu một cách hài hòa và
đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhất nguồn nhân lực, phát huy hết các khả năng
của mỗi người làm việc trong bộ máy ấy.
Đối với chất lượng của nguồn nhân lực, cần phải xác định các yêu cầu cụ
thể đối với vị trí việc làm. Trên cơ sở đó, cần tuyển dụng, bố trí những người có
kiến thức, kỹ năng phù hợp, nhất là kỹ năng làm việc và khả năng hoàn thành
các nhiệm vụ được giao của những người này. Chất lượng nguồn nhân lực được
đánh giá bằng trình độ, kỹ năng đã được đào tạo, và đặc biệt là khả năng và hiệu
quả hoàn thành công việc, hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Cùng với đó, để
thúc đẩy hiệu quả công việc, cần phải có chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút
nguồn nhân lực. Cùng với những cơ chế để hạn chế tiêu cực trong QLNN đối với

cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
- Tính hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa và xử lý vi
phạm. Thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa và xử lý vi phạm là một trong những nội
dung của QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục như đã
phân tích. Hiệu quả của những hoạt động này là một bộ phận của hiệu quả
QLNN đối với cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Điều này có nghĩa


19
là hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa và xử lý vi phạm càng
cao thì hoạt động QLNN và cung ứng dịch vụ công càng tuân theo các nội dung
của pháp luật đã quy định, tạo nên hiệu quả cao trong QLNN đối với cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục. Và lẽ đương nhiên, điều ngược lại sẽ làm
giảm hiệu quả QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
- Hiệu quả của các công tác hỗ trợ quản lý: Cơ sở vật chất, nguồn lực tài
chính, công tác thông tin, ứng dụng khoa học công nghệ…. Các công tác này
cũng tác động trực tiếp tác động đến hiệu quả QLNN đối với cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục. Nếu thực hiện có hiệu quả các công tác này sẽ giúp
các nội dung quản lý khác đạt được hiệu quả. Chẳng hạn như: công tác thông tin
kịp thời về vi phạm giúp cho việc xử lý vi phạm và khắc phục hành vi vi phạm
được kịp thời, công tác lưu trữ hồ sơ được sắp xếp thuận thiện và dễ tiếp cận sẽ
làm cho các thông tin cần thiết được cung cấp kịp thời…
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trách nhiệm đầu tiên trong cung ứng dịch vụ giáo dục thuộc về Nhà nước
với tư cách là tổ chức quyền lực công. Thêm vào đó, việc giáo dục thế hệ sau
giúp cho việc ổn định xã hội, duy trì nhà nước và chế độ cũng góp phần tạo nên
trách nhiệm cung ứng dịch vụ giáo dục của Nhà nước.
Cùng với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục cho xã
hội thì nhà nước cần phải QLNN đối với cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục để bảo đảm quyền lợi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện, cung ứng

dịch vụ công. Cần phải thiết lập một cơ chế quản lý hợp lý để bảo đảm việc cung
ứng dịch vụ công cho dù là do nhà nước cung ứng hay do các chủ thể được
chuyển giao cung ứng không thay đổi về bản chất cũng như tránh tình trạng độc
quyền, cạnh tranh không lành mạnh trong cung ứng dịch vụ công. Do đó, QLNN
đối với cung ứng dịch vụ công nói chung, cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục nói riêng là hết sức cần thiết.


×