Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.94 KB, 21 trang )

Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
Sao giờ lắm sách cổ học như kinh dịch, nho lão, tôn tử, đạo lão... thế nhỉ? Liệu
hoài cổ quá có hay lắm không? Luận sâu sắc về lời Hegel - Mác dạy có khi còn
ít hơn cả luận Kinh Dịch, Mạnh Tử, Tôn Tử ấy...
Bài này mong các bạn chia sẻ vài điểm khác biệt về triết học, triết lý Đông Tây, từ đó quyết định xem cân đối kiến thức sao cho hợp lý, hiệu quả cho cuộc
sống.
- Thứ nhất, ta sẽ phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây.
- Thứ hai, ta so sánh bối cảnh xã hội ra đời, pt triết học phương Đông,
phương Tây
- Thứ ba, ta so sánh đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây
- Thứ tư, ta so sánh phương pháp nhận thứ của 2 nền triết học đó
- Thứ năm, những nhận xét về vận dụng hai dòng kiến thức đó sao cho hợp lý
Phương Đông: Để chỉ các nước châu Á các nên văn minh trên ba lưu vực
sông lớn: sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và
Trung Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây.
Phương Tây: Phương Tây chủ yếu là các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức,
Ý, Áo, Tây Ban Nha... Ngày nay chúng ta gộp cả Mỹ vào.
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông - Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch
với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết
học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc
lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận... từ đó xây dựng nhân sinh
quan con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân
sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận...).
Đó là 2 nét chính của hai nền triết học Đông - Tây.
Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở
phương Đông, triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo
đức, chính trị-xã hội.
Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về giải
thích thế giới theo nhiều cách còn mục đích chính của phương Đông là cải tạo thế


giới gồm có: ổn định xã hội, giải thoát cho con người và làm sao cho con người
hoà đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc
đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết định
đến thượng tầng kiến trúc.
Về đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây


Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư
duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để giải
thích trong (con người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.
Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn
xung quanh. Do đó đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, chính
trị, đạo đức, tâm linh và do vậy xu hướng là hướng nội, lấy trong để giải thích
ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.
Về phương pháp nhận thức của 2 nền triết học đó
Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn phương
Đông thì ngả về dùng trực giác.
Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ
phát triển... và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng.
Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm,
quy luật... của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản
chất cao hơn... cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá, làm mất đi
tính tổng thể.
Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến
sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ được
cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược
điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi người mỗi khác. Và không phải
lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn nhau, nhưng ở đây
nói về thiên hướng.

Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức
cho khách quan còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và đối
tượng nhận thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận
thức sẽ dễ dàng.
Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học phương
Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn... để không bị lưới giả về nghĩa
do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của triết học phương Đông chính là sự đa
nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.
Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi
bao nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.
Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến
hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ
định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng
có nét khác biệt. Phương Đông nghiêng về thống nhất hay vận động vòng tròn,
tuần hoàn. Phương tây nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo hướng
đi lên.


Một nét nữa của triết học Tây - Đông là theo thống kê thì triết học phương
Tây thiện về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu
chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư
duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể...
Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác
huyền bí, hoà hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng
hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ...
Đông (Á)
Tinh thần - Đời người - Tĩnh lặng
cảm nhận các mối quan hệ

Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ
thuật
Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo
đức -- Con người, đạo học
Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh
quanh những lối cũ, bề ngòai
Quan tâm phần ngọn: nhân sinh
quan, cách sống, lối sống

Tây (Âu)
Vật chất - Máy móc - Mạnh mẽ, quyết liệt,
Sức động, quan tâm thực thể độc lập
Thiên về khoa học công nghệ

Sử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm sự vật/hiện
tượng -- Vũ trụ, học thuyết
Dùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày càng
phong phú, cụ thể
Quan tâm phần gốc: thế giới quan, bản thể
luận, nhận thức luận
Ảnh hưởng tới: giải thích/lý luận về thế giới,
Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn
thực hành kỹ nghệ, tự do cá nhân, cách mạng
thiện cá nhân, ổn định xã hội
xã hội
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN:……..………………………………………………………………1
MỞ ĐẦU:………………………………………………………...…………………
2
NỘI

DUNG:...............................................................................................................5
Chương 1: Khái quát chung về triết học phương Đông và phương Tây……….5
Chương 2: Những điểm khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học
phương Đông và phương Tây thời cổ đại………………………………………...9
2.1 Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ……………………..………………..9
2.2.Mặt xã hội và mặt sinh học của con người……………………..................11
2.3 Tư tưởng nhận thức luận…………………………………………………. …12
2.4 Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật……………………………….…..13
2.5 Sự đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình…………………….……….…14


2.6 Các bước phát riển nhảy vọt về chất…………………………………….... 14
2.7 Việc được nhìn nhận như một khoa học độc lập…………...……………...15
2.8 Việc sử dụng hệ thống thuật ngữ …..…………………….…………………16
KẾT
LUẬN:.............................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO:……………………………………………………….20
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Triết học là một hệ thống tri thức lí luận chung nhất của con người về
thế giới về bản than con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học có một vai trò hết sức to lớn trong xã hội.
Trước hết, triết học đặt ra và giải quyết những vấn đề thế giới quan, đó là toàn
bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung qunnh, về
bản than con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giưói đó.
Bên cạnh đó, triết học còn có chức năng phương phps luận, là hệ thống các
quan diểm, các nguyên tác chỉ đạo con người, tìm tòi xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.
Sau cùng, triế thọc không những có vai trò to lớn đối với khoa học mà còn đối

với việc rèn luyện năng lực tư duy của con người.
Như Ăng ghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tư duy lí luận”, và để hoàn thiện năng lực tư
duy lí luận thì không có một cách nào khác hơn là nghiêm cứu toàn bộ triết
hcọ thời trước.
Bước đi đầu tiên của lịch sử triết học thế giới là triết học cổ đại. Những
học thuyết triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào thế kỉ thứ XIII – VI
trước công nguyên. Ở phương Đông thể hiện rõ nét ở Ấn Độ, Trung Quốc. Ở
phương Tây, thể hiện rõ nét ở Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Nghiên cứu và so sánh sự khác nhau giữa triết học phương Đông và
triết học phương Tây thời cổ đại sẽ cho ta một cái nhìn khái quát và biện
chứng về nhữngđóng góp có giá trị đối với tri thức nhân loại trong buổi đầu
hình thành ý thức xã hội. Đồng thời giúo ta thâu tóm tri thức, trí tuệ của mỗi
thời đại lịch sử được kết tinh trong triết học.
2


Thông qua những sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây thời cổ đại sẽ cho ta một cái nhìn toàn diện, đúng đắn về ý nghĩa,
ảnh hưởng, nắm được sợi dây lien hệ giữa quá khứ và hiện tại. Bên cạnh đó,
giúp tránh tư tưởng đề cao triết học phương Đông, hạ thấp triết hoc phương
Tây thời cổ đại và ngược lại.
Xuất phát từ những lí do nêu trên nên em đã chọn đề tài: “So sánh sự
khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây thời cổ
đại” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Làm rõ những đặc điểm của hai nến triết học phương Đông và
phương Tây thời cổ đại, từ đó thấy được những nét đặc sắc riêng của mỗi nền
triết học, chúng bổ sung cho nhau và đều đóng góp vào sự phát triển của lịch
sử nhân loại.

- So sánh sự khác nhau giữa hai nền triết học, từ đó có cái nhìn khái
quát và biện chứng về những đóng góp có giá trị đối với tri thức nhân loại
trong những buổi đầu hình thành ý thức xã hội, giúp chống tư tưởng đề cao
nền triết học này, hạ thấp nền triết học kia.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu, phân tích các đặc điểm của triết học phương Đông và
triết học phương Tây thời cổ đại.
- Tìm ra và so sánh những điểm khác nhau căn bản giữa hai nền triết
học ấy.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đặc điểm của triết học phương Đông và triết học phương Tây thời cổ
đại.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánh dựa trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
triết học Mác – Lênin.
6. Giả thuyết khoa học:
Nếu so sánh được sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây cổ đại, ta sẽ thấy được mặt tích cực, hạn chế, mối quan hệ giữa


triết học phương Đông và phương Tây, đánh giá thoả đáng vị trí của chúng
trong lịch sử triết học. Qua đó, hình thành cho ta phương pháp luận và nhận
thức đúng đắn khi nghiên cứu về lịch sử triết học.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Khái quát chung về triết học phương Đông và phương Tây.
Thời xa xưa, con người đã muốn khám phá về thế giới và bản thân
mình. Khi khoa học còn chưa phát triển và trí tuệ con người còn hạn chế,

công cụ để nhận thức thế giới của họ lúc đầu là huyền thoại và thần thoại, tức
là giải tích các hiện tượng tự nhiên bằng các yếu tố thần thoại. Nhưng từ khi
xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời thay thế xã hội nguyên thủy, sự giải thích thế
giới bằng huyền thoại, thần thoại không còn đáp ứng nhu cầu hiểu biết ngày
càng cao của con người. Một công cụ nhận thức mới của loài người xuất hiện,
đó là triết học.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ VIII – VI trước Công nguyên gắn
liền với sự ra đời của các nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp. Đó là kết quả của sự tách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
cùng với sự phát triển ở trình độ cao (trình độ hệ thống hoá, khái quát hoá,
trừu tượng hoá) của tư duy nhân loại.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về triết học. “Triết” theo nghĩa chữ
Hán là trí - sự hiểu biết của con người, là truy tìm bản chất của đối tượng
trong quá trình nhận thức thế giới. “Triết” theo nghĩa tiếng Ấn Độ là
“Darshna”, là sự suy ngẫm con đường đến chân lí, là sự hiểu biết nói chung
“Triết học” theo tiếng Hy Lạp là “Philosophya” - sự ham mê hiểu biết cộng
với sự thông thái. Như vậy, dù là Trung Quốc, Ấn Độ hay Hy Lạp, dù ở
phương Đông hay phương Tây, triết học thời cổ đại đều có nghĩa là sự hiểu
biết chung, sự nhận thức chung của con người về thế giới.
Do nghiên cứu những qui luật chung nhất của thế giới nên triết học với
tư cách là một khoa học đề cập tới nhiều vấn đề. Trong những vấn đề ấy, nổi
5
lên vấn đề cơ bản là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề cơ bản của
triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi giữa tư duy với tồn tại, giữa ý
thức với vật chất, giữa tinh thần và tự nhiên thì cái nào có trước cái nào có


sau; và cái nào có vai trò quyết định đối với cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu
hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trong lịch sử triết học, có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm trí đối

lập nhau khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Đây chính là tiêu chuẩn để
phân biệt lập trường tư tưởng của các nhà triết học, hình thành nên các trường
phái triết học khác nhau. Đi sâu giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các
nhà triết học phương Đông và phương Tây thời cổ đại có nhiều quan điểm
không giống nhau. Điều này đã một phần tạo nên sự khác biệt giữa triết học
phương Đông và phương Tây nói chung và thời cổ đại nói riêng.
Dù lịch sử triết học là quá trình hình thành, biến đổi, tác động và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học nhưng nó có tính quy
luật. Sự hình thành và phát triển triết học có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, tư tưởng triết học là một hình thái ý thức xã hội được hình
thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử xã
hội nhất định là sự phản ánh của tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại
xã hội. Như vậy, sự phát triển của lịch sử triết học gắn liền với điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, gắn với sự biến đổi, thay thế nhau giữa các chế độ xã
hội… Điều này hình thành nên tính giai cấp trong triết học. Từ đó, tạo nên sự
khác nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học, giữa triết học phương Đông và
phương Tây.
Thứ hai, lịch sử triết học là quá trình thống nhất và đấu tranh của hai
trường phái triết học duy vật và duy tâm, hai phương pháp biện chứng và siêu
hình.
6
Thứ ba, lịch sử triết học luôn gắn bó chặt chẽ không thể tách rời với các
thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội cùng với các thành tựu khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội cùng sự thâm nhập tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học cùng sự tác động của các hình thái ý
thức xã hội khác như: Tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, văn hoá,…
Thứ tư, chiến tranh là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự biến
đổi của tư tưởng triết học.
* Tóm lại:
Triết học là một khoa học bao gồm hệ thống tri thức lí luận chung nhất

về thế giới của con người và vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự qui


định của tồn tại xã hội. Đồng thời, triết học là một yếu tố của kiến trúc thượng
tầng, là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, chịu sự qui định của cơ sở hạ tầng. Đây
cũng là nét chung của triết học mọi thời đại cũng như triết học phương Đông
và triết học phương Tây cổ đại.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá, bối cảnh
lịch sử, khác nhau nên triết học phương Đông và phương Tây cổ đại có những
nét đặc thù, riêng biệt, tạo nên thiên hướng riêng của nó. Dựa vào phần khái
quát chung làm cơ sở nền tảng, sự khác nhau giữa triết học phương Đông và
triết học phương Tây thời cổ đại được phân tích cụ thể ở mục tiếp theo.
7
8
CHƯƠNG II: Những điểm khác nhau giữa triết học phương Đông và
triết học phương Tây thời cổ đại
2.1. Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ
Nếu như triết học phương Tây cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể còn thế giới quan là khách thể mà con người cần nghiên
cứu, chinh phục thì triết học phương Đông thời cổ đại lại nhấn mạnh mặt
thống nhất trong mối quan hệ giưũa con người và vũ trụ.
Chúng ta có thể lí giải cho sự khác biệt này bởi con người phương
Đông sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, được thiên nhiên ưu đãi, nguồn
sống nông nghiệp dồi dào, đã hoà quyện con người với thiên nhiên và với vụ
trụ. Chính điều này đã được khái quát thành tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”,
trong đó con người được xem như là một “tiểu vũ trụ”.
Hơn thế các nền vă minh của phương Đông chủ yếu được hình thành ở lưu
vực các con song. Nền văn minh Ấn Độ được hình thành trên lưu vực song
Ấn và song Hằng, nền văn minh Trung Hoa được xây dựng trên sự hợp lưu

của hai song Hoàng Hà và Trường Giang.
Do vậy nền văn minh phương Đông chủ yếu dựa trên sự phát triển nông
nghiệp của một chế đọ nhà nước quân chủ lập quyền.
“Thiên nhiên hợp nhất” là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường phái, học
thuyết ở Trung Quốc. Đạo gia cho rằng; con người và vũ trụ không ở ngoài
nhau mà cùng hoà hợp, lien thong thành một khối.
Lão tử nói: “Người phỏng theo đất, đất phỏng theo trời, trời phỏng theo
đạo, đạo phỏng theo tự nhiên”. Trời, đất, người liên thong với nhau băng một


đạo.
9
Những điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của từng con
người và văn hoá Trung Quốc. Có lẽ vì thế mà khoa học tự nhiên và chủ
nghĩa duy vật trong triết học Trung Quốc phát triển không mạnh.
“Thiên nhiên hợp nhất” lại được thể hiện theo cách khác ở Ấn Độ.
Trong kinh thánh Vêđa, để cắt nghĩa các hiện tượng tự nhiên mà con người
kông thể lí giải, người Ấn Độ đã xây dựng hệ thống các vị thần. Thần linh và
con người có nhiều mối quan hệ với nhau, có tính cách như nhau, các vị thần
cũng mang tính người. Triết học Ấn Độ khẳng định tính hợp nhất của con
người và vũ trụ. Vạn vật trong thế giới đồng nhất thể, con người và vũ trụ có
chung bản chất.
Như vậy, triết học phương Đông lấy con người mà đặc biệt là phương
diện tâm linh làm đối tượng chủ yếu để nghiên cứu. Những triết học lớn thời
đó đều xoay quanh những vấn đề lien qian tới số phận, đạo đức của con
người.
Trái lại, triết học phương Tây thời cổ đại lại tách con ngưòi ra khoie vũ
trụ, coi con người là chủ thể còn thế giới khách quan là khách thể mà con
người cần nghiên cứu, chinh phục.
Với tư tưởng quan tâm tới bản nguyên thế giới thì các nhà triết học Hy

Lạp cổ đại đã giải thích sự xuất hiện của thế giới khách quan theo nhiều cách
khác nhau. Các nhà duy vật giải thích bằng sự xuất hiện của một dạng vật
chất cụ thể như: nước, lửa, không khí…
Đại diện đầu tiên là Talet, ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên
của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phá huỷy, nó
cũng trỏ thành nước.
Đại diện thứ hai là Amximen, ông cho rằng: không khí và bản chất, là nguồn
gốc của mọi sự việc, vì nó giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống.
10
Đại diện thứ ba tiếp tục đứng trên quan điểm duy vật là Heraclit, ông đã dựa
trên quan điểm của duy vật đẻ giải quyết vấn đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới
từ một dạng vật chất cụ thể. Nhưng ông cho rằng mọi vật sinh ra từ lửa, là bản
nguyên của thế giới.


Cũng có quan điểm cho rằng: bản nguyên đầu tiên của thế giới là những phần
nhỏ bé, siêu cảm giác, không thấy được qua đất, nước, không khí, lửa; chúng
gọi là mầm sống,hạt giống của muôn vật.
Tuy rằng, trong triết họcphương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc cũng
chứa những tue tưởng triết học duy vật sơ khai, chất phác về bản nghuyên của
htế giới, nhưng các nhà triết học phương Đông vẫn luôn xem xét sự phát sinh,
phát triển của vũ trụ, của thế giới khách quan trong sự gắn kết với con người.
Ngược lại, triết học phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới,
vấn đề con người được bàn tới chỉ nhằm mục đích giải thích thế giới.
Do vậy, vấn đề bản thể luận của triết học phương Tây được thể hiện rất
đậm nét, trong khi vấn đề bản thể luận của triết học phương Đông lại thể hiện
một cách mờ nhạt hơn.
2.2. Mặt xã hội và mặt sinh vật của con người.
Trong khi triết học phương Đông chú trọng vào việc giải thích mối
quan hệ giữa người với người và đời sống tâm linh của con người, hầu như rất

ít quan tâm tới mặt sinh vật. Traid lại, triết học phương Tây cổ đại lại chủ yếu
quan tâm tới khía cạnh sinh vật, về nguồn gốc xuất hiện của sinh vật, hầu như
ít quan tâm tới mặt xã hội của con người.
Những mặt hạn chế của hai nền triết học cổ đại này sau đã được khắc phục
bởi triết học Mac-Lênin.
`Triết học Trung Quốc cổ đại khi nghiên cứu đã lấy con người làm gốc, lấy
triết lí nhân sinh làm nội dung. Theo Khổng Tử, cái mà con người nên biết và
11
có thể biết là bản than con người. Yêu mến con người,thờ phụng con người là
bổn phận của con người. Còn theo Mạnh Tử, bản tính con người ta là thiện,
nó được thể hiện ở bốn đức: Nhân, nghĩa, lế, trí.
Chúng ta có thể nói rằng: triết học ở đây đề cao long nhân ái, đạo đức, và sức
mạnh của đạo đức.
Cũng đề cao đạo đức nhung triết học Ấn Độ cổ đại lại thông qua những tư
tưởng giải thoát con người.
Trong khi đó, triết học phương Tây cổ đại lại ít quan tâm đến sức mạnh
đạo đức, mà chủ yếu quan tâm nghiên cứu khía cạnh sinh vật, nguồn gốc xuất
hiện của con người.
Như vậy, các nhà triết học phương Đông cổ đại nghiêng về nghiên cứu nội
tâm, hướng nội thì các nhà triết học phương Tây cổ đại lại đi sâu vào phương


diện lí trí. Do vậy phải thường xuyên trau dồi lí trí, tiép thu những quy luật
của tự nhiên và quy luật của con người.
2.3. Về tư tưởng nhận thức luận
Trong khi các nhà triết học phương Đông cổ đại có những phương thức tư
duy triết học là nhận thức trực quan, trực giác, thì các nhà triết học phương
Tây cổ đại lại đề cao vai trò của nhận thức lí tính, phát triển các tư tưởng
thành lí thuyết với các chứng minh rõ rang, mạch lạc.
Ở Ấn Độ cổ đại, các trường phái triết học đề cao nhận thức trực giác, thuẹc

nghiệm tâm linh khi nghiên cứu thế giới, nhhư phái Vaisesika, Lokayata, kinh
Uparishop..
Ở Trung Quốc cổ đại, Lão Tử và Trang tử đề cao tư duy trừu tượng và coi
khinh nghiên cứu sự vật hhiện tượng cụ thể.
Cho dù các nhà triết học phương Đông cổ đại đã có sự sang tạo phương thức
tư duy trực quan, nhưng do thiếu luận chứng và phân tích, lại dùng phương
12
pháp tư duy giácc ngộ bằng trực giác nên đã làm cho các khái niệm thiếu
logic, khoa học.
Trái lại, các nhà triết học phương Tây cổ đại lại không đặt mình vào
giữa đối tượng để suy nghiệm, mà tách con người ra khỏi đối tượng nhận thức
để đảm bảo được tính khách quan. Mặc dù vẫn có quan điểm như Epiquga
nhưng ông đã thừa nhận tác động của vật chất vào các giác quan của con
người. Hầu hết các triết gia Hy Lạp đã đưa ra quan điểm về nhận thức luận
đúng đắn, đó là nhận thức một quá trình kinh nghiệm đến nhận thức lí tính. Vì
thế, logic học đã được phát triển ở phương Tây cổ đại.
2.4. Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật:
Ở triết học phương Đông cổ đại, các trào lưư, học thuyết thường đan
xen yếu tố duy vật và duy tâm. Chính vì thế mà cuộc đấu tranh giữa duy vật
và duy tâm không gay gắt như ở phương Tây.
Ở Trung Quốc cổ đại với trường phái nho giáo mà đại diện là Khổng
Tử. Trong quan niệm của ông, bên cạnh các yếu tố duy tâm là các yếu tố duy
vật. Ông đưa ra thuyết “Thiên mệnh”, và coi việc hiểu biết mệnh trời là một
hiểu biết tất yếu cần có để trở thành một con người hoàn thiện. Song ông lại
phê phán sung bái, mê tín. Trong phật giáo, sự đan xen giữa yếu tố duy vật và
duy tâm cũng thể hiện rất rõ nét.
Còn ở Triết học Ấn Độ cổ đại, các quan niệm tự nhiên về các vị thần


dần mờ nhạt, thay vào đó là những nguyên lí trừu tượng, duy nhất, tối cao

được coi là nguồn gốc của vũ trụ, đó là thần sang tạo tối cao. Tuy nhiên trong
thời kì này cũng xuất hiện một làn song đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy
tâm.
Không như ở phương Đông, triết học phương Tây cổ đại lại có những
cuộc đấy tranh gay gắt. Ở đây, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái lại có một ý
13
kiến riêng biệt về bản nguyên của thế giới, về mầm mống ban đầu của thế
giới.
2.5. Sự đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình:
Trong triết học phương Đông cổ đại, yếu tố bịên chứng và siêu hình
cùng tồn tại với nhsu, đan xen nhau, không có sự đấu tranh gay gắt. Điều này
trái ngược với triết học phương Tây cổ đại.
Với triết học Trung Hoa cổ đại, ta xem xét đại diện là Lão Tử. Ông cho
rằng trời không phải căn cứ của đạo mà trái lại, đạo có trước thần linh, hiện
tượng trong vũ trụ ông gọi là đạo thường. Ở đây, tư tưởng biện chứng được
thể hiện rõ nét. Ông cũng chỉ ra rằng, bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất
của hai mặt đối lập, vừa xung khắc lại vừa dựa vào nhau, và lien hệ, rang
buộc bao hàm lẫn nhau.
Ở phương Tây, Hêraclit là người có đóng góp to lớn trong lịch sử phát
triển biện chứng. Đối lập với ông là phép biện chứng phủ định của trường
phái Êlê với chủ nghĩa vạn vật bất biến, không sinh thành, không diệt vong.
Có nhiều quan điểm đối lập nhau khau và khác nhau rất nhiều về thế giới.
Quan điểm biện chứng về thế giới của các nhà triết học phương Tây cổ đại có
ý nghĩa to lớn đối với lịch sử triết học. tuy nhiên, nó mới chỉ là quan điểm
mang tính tự phát.
2.6. Các bước phát triển nhảy vọt về chất:
Ở triết học phương Tây, mỗi giai đoạn lịch sử bên cạnh những tư tưởng
triết học cũ, luôn xuất hiện những trường phái triết học mới với quan điểm có
tính phát triển nhảy vọt, tính cách mạng. Trong khi đó, triết học phương Đông
cổ đại ít có những bước nhảy mang tính cách mạng.

14


Triết học phương Đông có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ,
đi sâu vào từng chi tiết, từng tư tưởng trên cơ sở cái cũ, có cải tiến về phương
diện nào đó. Điều đó thể hiện ở chỗ, những nhà tư tương ở giai đạon lịch sử
sau thường cho mình là học trò, là người kế tục sự nghiệp của những nhà sáng
lập ở giai đoạn trước.
Những tư tươnngr mới mà họ đưa rachỉ là để giải thích sâu hơn hoặc nhằm
bảo vệ những ý tưởng của nhũng vị tiền bối.
Vì vậy ở giai đoạn sau ít thấy những trường phái triết học mới xuất hiện, điều
đó cho chúng ta thấy tính bảo thủ, trì trệ, kiệm tiến của triết học phương Đông
cổ đại.
Ngược lại, ở phương Tây lại có những trường phái triết học mới, thể
hiện sự đột phá về tư tưởng.
Ở Hy Lạp, triết học đã đi sâu và bàn đến vấn đề con người, đặc biệt về thuyết
nguyên tử của Đemocrit đã tạo ra bbước nhảy vọt về chất trong lịch sử triết
học cổ đại.
Đặc điểm này còn được thể hiện qua quan điểm mới của Hêraclit và nhận
thức luận của Empedoclo.
Chính những điều đó đã tạo ra những bước phát triển nhảy vọt về chất của
triết học phương Tây cổ đại.
2.7. Việc được nhìn nhận như một khoa học độc lập:
Những tư tưởng triết học phương Đông cổ đại ít khi tồn tại dưới dạng
triết học thuần tuý mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn dấu đằng sau
những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật
Ngược lại, triết học phương Tây cổ đại là một hệ thống các tư tưởng
được trình bày trực tiếp, rõ rang, triết học được coi là một khoa học độc lập.
15
Với triết học Trung Hoa thời cổ đại, khổng Tử thể hiện tư tưởng triết

học về con người, về xã hội thong qua một số chính sách, bài học vè trị quốc.
Ở Ấn Độ, triết học mang đậm máu sắc tôn giáo, triết học và tôn giáo luôn hoà
nhập với nhau, rất khó phân biệt rõ rang.
Triết học phương Tây cổ đại là một hệ thống triết học thuần tuý, ngay
từ khi ra đời đã chứa đựng các khoa học khác.
Xen lẫn trong các học thuyết Hy Lạp cổ đại là những định luật toán học, vệt
lí, hay thiên văn học. Với các nhà triết học điển hình như Talet, Pitago,
Democrit..đều là nhũng nhà khoa học tự nhiên.


2.8. Việc sử dụng hệ thống thuật ngữ của triết học :
Trong triết học phương Đông cổ đại, thường dung châm ngôn, ngụ
ngôn, ẩn ngữ có tính hình tượng để diễn đạt quan điểm, càng đi sâu vào suy
nghĩ thì càng thấy sự sâu sắc của triết học phương Đông cổ đại.
Còn triết học phương Tây cổ đại thì các tư tưởng triết học được diễn
đạt, lập luận với ngôn ngữ và phong cách tư duy mạch lạc, khoa học, có tính
hệ.
Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ: “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”; còn phương Đông lại cùng “thái cực”, “đạo sắc, hình, vạn
pháp,… Để nói về bản chất của vũ trụ, đặc biệt mối quan hệ giữa con người
với vũ trụ, phương Đông dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người - tự
nhiên, vật chất – ý thức, tồn tại – tư duy, còn phương Đông lại dùng Tâm vật, năng
– sơ, lí – khí, hình - thần”.
Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới: Phương Tây dùng thuật ngữ
biện chứng, siêu hình, vận động, dứng im,…, thì phương Đông dùng bằng
thuật ngữ động - tỉnh, biến dịch, bô thường, vô ngã…
16
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy luật”, còn phương
Đông dùng thuật ngữ “đạo”, “lý”, “mệnh”, “thần”… Có nhịp điệu là hài hoá

âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc.
17
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và trình bày như ở trên , ta thấy rằng giữa hai nền
triết học có những đặc điểm khác xa nhau, mỗi nền triết học lại có những
néy đặc sắc riêng, nhưng chúng lại bổ sung cho nhau và đều có những
đóng góp to lớn và lịch sử phát triển triết học của nhân loại.
Ở phương Đông, ta tìm thấy sự sâu sắc, ý vị, tinh thần, đạo đức,
tính nhân đạo, màu sắc đời sống. Trong khi đó, tinh thần khoa học của
triết học phương Tây cổ đại lại làm cho triết học có tính logic và trở thành
khoa học của các ngành khoa học.
Sự khác biệt này do nhiều nguyên nhân chi phối song nguyên nhân chủ
yếu chính là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. Bởi lẽ triết


học là một hình thái ý thức xã hội va chịu sự qui định của tồn tại xã hội.
Việc nghiên cứu triết học phương Đông và triết học phương Tây cổ đại
có ý nghĩa hết sức to lớn. Bởi lẽ, thông qua hoạt động nghiên cứu triết học,
chúng ta đã thấy được sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học của nhận loại
thời cổ đại, nắm bắt được quá trình hình thành và phát triển của những
phương pháp nhận thức khoa học. Từ đó, cho ta biện pháp hữu hiệu để nghiên
cứu, đánh giá một học thuyết triết học trong triết học cổ đại nói riêng và trong
lịch sử triết học nói chung, đồng thời, góp phần hình thành và phát triển
phương thức tư duy khoa học.
Việc chỉ ra sự khác nhau giữa triết học phương Đông và phương Tây cổ
đại đã giúp ta có cách đánh giá thoả đáng vị trí hai nền triết học này trong lịch
sử. Triết học phương Đông cổ đại ra đời từ rất sớm và là cái nôi của triết học
nhân loại. Triết học phương Tây cổ đại ra đời muộn hơn nhưng “đã có mồng
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”
18

(Ph.Ăngghen). Tuy nhiên, cả hai đều tồn tại những hạn chế nhất định. Điều
này được khắc phục dần trong những học thuyết triết học sau này. Và phái khi
triết học Mác-lênin ra đời thì triết học mới thực sự là một công cụ nhận thức
và cải tạo thế giới.
19


So sánh triết học phương Đông và phương Tây
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và
đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây về cả
điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất...

Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được
thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất
hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc
cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Theo quan điểm của mác xít triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết
về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người
đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Như vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của
xã hội và đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây
về cả điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất của
phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây là phương thức sản
xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác: văn hoá phương Đông
mang nặng tính chất cộng đồng còn phương Tây mang tính cá thể.
Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông còn được thể hiện
cụ thể như sau:
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên
nhân hợp nhất”. Cụ thể là:

Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất, hình
thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó là những kho
tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm của nhân dân Trung
hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ con người với thế giới xung quanh, họ coi con
người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn... trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là


một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính chất, những điều huyền
bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng như:
khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong
ý thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan
điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú
vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách
quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo
ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không có
gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ
trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của
con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín
phương, con người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ
ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết quả của quá trình khái quát
những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân Trung hoa thời cổ đại. Quan
điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang tính chất
trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử
xã hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư
tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động,
biến hoá của sự vật hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ II
đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn
giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có
nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc

“thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo
trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sángtạo và chi phối thế
giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà
khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải
thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống trần tục và ràng buộc của
thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy nhất, có trước
nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập


về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy
nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.
Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hoá, là chủ thể
và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con người mà thôi. Linh hồn con
người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của “tinh thần tối cao”. Vì
Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống trần tục, nên ý
thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ
trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.
Vậy nên kinh Vêđa nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước hoà
điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên ngoài. Còn kinh Upanishad
quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá nhân với vũ trụ bằng tri thức
thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là
chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan. Và cũng
chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận
cũng khác nhau:
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều đặc
điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người làm đối tượng nghiên
cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ
con người và vấn đề bản thảo luận trong triết học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng

ngược lại triết học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất
hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà
thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng quan niệm
khác phương Tây:
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người
và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu
mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú


con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, không
thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên
– mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức,
không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần
tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm
chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết gia với những
tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là
khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan xen với chính trị lý luận, còn
triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung ở phương Đông thì
triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học độc lập với các
môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Và thời
kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự
biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có
tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn
độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi
cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến thế kỷ 19).

Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào
từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ – chính
danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời tiền Tần là
cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ thường, đời Tống
biến thành chữ Lý...
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ, bảo vệ
quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hớn là vạch ra
những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thức triết học mới. Do vậy nó không
mâu thuận với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định


nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không gay gắt và
cũng không triệt đêt. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và
bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên
cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời
đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit... đến Đêmôcrit rồi thời đại
khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức... Và hơn nữa cuộc
đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu
hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung
cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị
nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của
triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc
như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các
hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu
hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với triết

học phương Tây ở 3 mảng:
- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật
chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc, hình, vạn pháp,...
hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt
là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù
khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy.
Còn phương Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó
hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.


- Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ “biện
chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động
là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường,
thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông
triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương
Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương Đông dùng thuật
ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất
nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái
cực đến lưỡng nghi... Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp
khổng lồ các xoắn ốc...
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về giải quyết
mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có liên quan. Ngược lại ở
phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai phương pháp tư
duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy vật lý
chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông
đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những cấu cách ngôn, ngụ
ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được, nó gói được cả cái

ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.(...).



×