Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.61 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN PHƢƠNG CHI

LUẬT ÁP DỤNG TRONG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60380108

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN MINH NGỌC

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thiện luận văn em luôn nhận
được sự quan tâm tận tình và giúp đỡ từ phía thầy cô, nhà trường và bạn bè.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Trần Minh Ngọc, người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu và các thầy cô
giáo tại Khoa sau đại học, đặc biệt là các thầy cô giáo đã giảng dạy lớp cao học
khóa XX – khoa Pháp luật Quốc tế; cảm ơn hệ thống Thông tin thư viện của
trường cùng các anh chị em học viên khóa XX đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo
điều kiện cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014.
Học viên

Trần Phương Chi


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Luật áp dụng trong trọng tài thương mại
quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Những số liệu, kết quả nghiên cứu đề cập trong Luận văn là trung thực, có
nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Tác giả Luận văn


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ........................................................... 5

1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại quốc tế .................................. 5
1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế ............................................ 5
1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài thương mại quốc tế.................................... 10
1.1.3 Các hình thức trọng tài thương mại quốc tế .................................... 12
1.2 Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế ................................... 16
1.2.1 Nội dung của luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế ....... 16
1.2.2 Vai trò của luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế ........... 21
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ......................................................... 23


2.1 Luật áp dụng cho tố tụng trọng tài .......................................................... 23
2.2 Luật áp dụng cho nội dung tranh chấp.................................................... 30
2.3 Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. ................................................... 41
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LUẬT
ÁP DỤNG TRONG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ......................... 51

3.1 Thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại
Việt Nam ....................................................................................................... 51
3.2 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về luật
áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế. ................................................. 55
3.3 Những yêu cầu cơ bản đối với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế........................................... 58
3.4 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về luật áp dụng trong
trọng tài thương mại quốc tế. ........................................................................ 61
3.4.1 Về luật áp dụng cho tố tụng trọng tài............................................... 61
3.4.2 Về luật áp dụng cho nội dung tranh chấp ........................................ 62
3.4.3 Về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ......................................... 64
3.4.4 Một số kiến nghị khác ...................................................................... 65
KẾT LUẬN…………………………………………………………………70


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự 2005

ICC

International Chamber of Commerce

Phòng Thương mại quốc tế

LTM 2005

Luật Thương mại 2005

Luật TTTM 2010

Luật Trọng tài thương mại 2010

Pháp lệnh TTTM
2003

Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003

UNCITRAL

United Nations Commission on International Trade Law
Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế

VIAC

Vietnam International Arbitration Centre
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam


DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BẢNG SỐ LIỆU

Hình 3.1: Biểu đồ Số lượng vụ tranh chấp VIAC giải quyết qua các năm ............... 52
Hình 3.2: Biểu đồ Quốc tịch các bên tranh chấp tại VIAC năm 2013...................... 53

Bảng 3.1: Thống kê các lĩnh vực tranh chấp trong năm 2013 của VIAC ................. 53


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tranh chấp thương mại được xem là một
thuộc tính mang tính quy luật. Để giải quyết các tranh chấp đó, chúng ta có thể sử
dụng nhiều phương pháp như hòa giải, trọng tài, tòa án … và ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, việc giải quyết các tranh chấp thương mại dưới hình thức trọng tài đã
trở thành hết sức phổ biến. Trong những lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là lĩnh vực thương
mại quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế là hình thức tối ưu để giải quyết các xung
đột thương mại mà các bên không thể tự giải quyết được.
Trọng tài thương mại quốc tế là một phương thức giải quyết tranh chấp xuất
hiện từ rất lâu đời. Từ đó tới nay, phương thức này không ngừng được hoàn thiện,
khắc phục những hạn chế của chính nó nhằm tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh
chấp có hiệu quả trong thương mại quốc tế. Tại Việt Nam, trọng tài thương mại quốc
tế đã xuất hiện khá sớm với hình thức đầu tiên là Hội đồng Trọng tài ngoại thương
vào năm 1963. Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế cũng được
xây dựng và hoàn thiện qua từng thời kỳ, mà gần đây nhất là Luật Trọng tài thương
mại 2010. Luật Trọng tài thương mại 2010 ra đời chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ,
khắc phục được những lỗ hổng từ trước tới nay trong pháp luật Việt Nam về trọng tài
nói chung cũng như luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế nói riêng, đồng
thời đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật trọng tài Việt Nam với pháp luật trọng tài
của một số quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, việc bổ sung nhiều quy định mới tiên
tiến cũng không đồng nghĩa với việc Luật Trọng tài thương mại đã thực sự cụ thể,
chi tiết và đầy đủ. Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế là một vấn đề có
ảnh hưởng lớn tới quá trình trọng tài cũng như hiệu lực của phán quyết trọng tài
nhưng nó vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Các quy định liên quan đến vấn đề này

còn mang tính chất chung chung, chưa rõ ràng. Đây là thiếu sót đã tồn tại từ Pháp
lệnh trọng tài thương mại 2003 và cho đến nay, Luật Trọng tài thương mại 2010 vẫn
chưa thể khắc phục triệt để vấn đề này.
Với quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay thì các
tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam sẽ ngày càng nhiều và phức


2

tạp. Xu hướng của các bên thường là tìm kiếm cho mình một phương thức giải quyết
tranh chấp sao cho có hiệu quả nhất, nhanh chóng nhất, bảo vệ được các quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên, đảm bảo cho các quan hệ kinh tế được ổn định, thông suốt
và phát triển. Với những yêu cầu đó, trọng tài thương mại sẽ là một sự lựa chọn hoàn
hảo. Tuy nhiên, việc để tồn tại những lỗ hổng trong pháp luật về trọng tài của Việt
Nam sẽ là trở ngại lớn khi các doanh nghiệp lựa chọn trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp.
Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Luật áp dụng trong trọng
tài thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài nghiên cứu
của mình. Luận văn không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế mà còn có sự đánh giá,
so sánh với những quy định tương tự trong luật trọng tài của một số quốc gia trên thế
giới, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế là vấn đề pháp lý đã được
nghiên cứu trong một thời gian dài và được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu khoa học cũng như bài đăng trên tạp chí. Trước khi Pháp lệnh Trọng tài thương
mại 2003 ra đời, đã có bài viết “Luật áp dụng trong xét xử của trọng tài thương mại
quốc tế” của Nông Quốc Bình đăng trên Tạp chí Luật học số 4 năm 1999 nghiên cứu
về vấn đề này. Sau khi Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 ra đời, nhiều công

trình nghiên cứu khoa học liên quan đến Luật áp dụng trong trọng tài Thương mại
quốc tế được công bố như: Bài viết: “Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng tài” của
Đào Trí Úc đăng trong tài liệu hội thảo “Góp ý dự thảo Luật Trọng tài” do Hội Luật
gia Việt Nam phối hợp với Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức
tháng 11/2008 tại Hà Nội; Luận án Tiến sỹ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về trọng
tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” của Nguyễn Đình
Thơ năm 2007; Luận án Tiến sỹ Luật học “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của Trần Minh
Ngọc năm 2009. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên chỉ


3

đề cập tới từng khía cạnh riêng lẻ của Trọng tài thương mại quốc tế, trong đó có khía
cạnh luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế. Ngoài ra, có nhiều bài viết
phân tích cụ thể về vấn đề này như bài viết “Luật áp dụng đối với nội dung tranh
chấp từ hợp đồng trong Trọng tài Thương mại quốc tế” của T.s Trần Minh Ngọc trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1 năm 2009; bài viết “Luật áp dụng đối với thỏa
thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế” của T.s Trần Minh Ngọc trên
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 1 năm 2009….
Sau khi Luật Trọng tài thương mại 2010 ra đời, đã có thêm các công trình nghiên
cứu về vấn đề này như Luận văn thạc sỹ Luật học “Luật trọng tài thương mại Việt Nam
2010 – bước phát triển mới của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam” của Nguyễn
Thị Hồng Hạnh năm 2010… Các công trình này đã nghiên cứu về luật áp dụng trong
trọng tài thương mại quốc tế một cách cụ thể hơn, song chưa thực sự rõ ràng và toàn
diện. Chính bởi lý do đó, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Luật áp dụng trong trọng tài
thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài cho luận văn của
mình.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện

hành về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế, bao gồm: luật áp dụng cho
tố tụng trọng tài, luật áp dụng cho nội dung tranh chấp và luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài. Bên cạnh đó, luận văn còn đặt luật áp dụng trong trọng tài thương
mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với các quy định
tương tự trong pháp luật trọng tài một số nước trên thế giới, quy tắc tố tụng trọng tài
của một số Trung tâm trọng tài và Luật Mẫu UNCITRAL.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của
Chủ nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quán triệt
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống
pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Các phương pháp nghiên cứu cụ
thể bao gồm: Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu; phương pháp diễn giải, quy
nạp; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích, tổng hợp.


4

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế hướng
tới những mục đích sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề lý luận về luật áp dụng trong trọng tài thương
mại quốc tế.
- Thứ hai, phân tích và giải thích rõ hơn những quy định của pháp luật Việt
Nam về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế thể hiện chủ yếu ở các văn
bản: Luật Trọng tài thương mại 2010, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 (sửa đổi bổ sung
năm 2011).
- Thứ ba, chỉ ra các điểm chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn trong các quy định của pháp
luật về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế trong các văn bản hiện hành.
- Thứ tư, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật
về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Thứ nhất, Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về luật áp
dụng trong trọng tài thương mại quốc tế.
- Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế và có sự so sánh, đối chiếu với
các quy định pháp luật tương tự của một số quốc gia trên thế giới.
- Thứ ba, đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về
luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn được xây dựng với kết cấu: mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội
dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc
tế
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về luật áp dụng trong
trọng tài thương mại quốc tế.


5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1 Khái quát chung về trọng tài thƣơng mại quốc tế
1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế
Trọng tài thương mại quốc tế là một trong những hình thức giải quyết tranh
chấp phổ biến hiện nay trên thế giới. Muốn tìm hiểu thế nào là trọng tài thương mại
quốc tế, trước tiên cần tìm hiểu trọng tài là gì.
Hiện nay trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm trọng tài.
Theo cuốn Đại từ điển Kinh tế thị trường: “Trọng tài là một phương thức giải quyết
một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những
việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng, chính trực

xét xử, phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”[7, tr.5].
Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ lại cho rằng: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp
bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người xem xét, giải quyết và họ
sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp thi hành”
[7,tr.5]. Còn theo OKEZIE CHUKWUMERIJE, trọng tài là một cơ chế giải quyết
tranh chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên
lựa chọn hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định được lựa
chọn bởi chính các bên. Với một quan điểm tương tự như vậy, JAMES và
NICHOLAS cho rằng, trọng tài được coi như một tiến trình tư được mở ra theo sự
thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát
sinh bởi một Hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên. Hội đồng trọng tài
này là kết quả của sự lựa chọn của chính các bên tranh chấp hoặc thông qua những đại
diện của họ, và chính các bên cũng sẽ là những người thiết lập nên các thủ tục mà Hội
đồng Trọng tài phải áp dụng để giải quyết tranh chấp [9, tr.24].
Mặc dù các học giả nhìn nhận trọng tài theo quan điểm riêng của mình, tuy
nhiên có thể hiểu rằng trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự
tham gia của một bên thứ ba trung lập do các bên thỏa thuận chọn để giải quyết tranh
chấp giữa họ và quyết định của bên thứ ba này có giá trị bắt buộc thi hành. Trọng tài
có một số đặc điểm cơ bản như: quá trình trọng tài diễn ra trên cơ sở thỏa thuận trọng


6
tài được các bên tranh chấp xây dựng; thành phần hội đồng trọng tài và thủ tục trọng
tài được xác định bởi các bên; quyết định của trọng tài về vụ tranh chấp buộc các bên
phải thực hiện.
Vậy với tư cách là một hình thức trọng tài thì trọng tài thương mại quốc tế là gì?
Trước tiên, Trọng tài thương mại quốc tế với vai trò là một phương thức giải
quyết tranh chấp thì chắc chắn phải là một trọng tài, nó luôn mang những đặc điểm
chung của một trọng tài. Bên cạnh những đặc điểm chung của trọng tài, nó còn có
những đặc trưng riêng, đó là tính “thương mại” và tính “quốc tế”.



Tính thương mại

Yếu tố “thương mại” là yếu tố quan trọng khi tìm hiểu về khái niệm trọng tài
thương mại quốc tế bởi lẽ trọng tài thương mại quốc tế chỉ giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại. Trên bình diện quốc tế, cho đến nay không tồn
tại khái niệm “thương mại” nào được các quốc gia cùng chấp nhận. Mặc dù Công
ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài đã nỗ
lực ghi nhận một sự giải thích về thuật ngữ “thương mại” nhưng lại dành cho các
nước thành viên quyền bảo lưu đối với khái niệm này. Luật Mẫu về Trọng tài thương
mại quốc tế được Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế thông qua ngày
21/06/1985 (Luật Mẫu UNCITRAL) có đưa ra một cách giải thích về thuật ngữ
thương mại rất rộng tại phần chú thích của Điều 1(1) nhưng nó chỉ được các quốc gia
sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng khái niệm “thương mại” trong
pháp luật nước mình. Bên cạnh đó, các quốc gia cũng có những định nghĩa khác
nhau về “thương mại”. Bộ luật thương mại Cộng hòa Pháp hiện hành không đưa ra
bất kì định nghĩa nào về “thương mại” nhưng tại Điều L110-1 đã liệt kê khá nhiều
hành vi thương mại được thể hiện bởi các thương nhân, bao gồm: mua bán hàng hóa
để bán lại, mua bán bất động sản để bán lại, mọi hoạt động trung gian về mua, thuê
hoặc bán các công trình xây dựng, cho thuê tài sản,…. Bộ luật Thương mại số 48 của
Nhật Bản năm 1899 quy định thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt
động mua bán nhằm mục đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như
dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay khí đốt, ủy thác, bảo hiểm, ngân hàng [13, tr.9].
Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam giải thích hoạt động thương mại là “hoạt


7
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 1 Điều

3). Nhìn chung, dưới góc độ lý luận, các học giả có thể đưa ra những khái niệm
“thương mại” khá toàn diện và được giải thích chi tiết mà điểm chung của nó là
những giao dịch kinh doanh giữa các thương nhân với nhau và mục đích chính của
họ là lợi nhuận. Khái niệm này dùng để phân biệt các vụ trọng tài quốc tế liên quan
đến tranh chấp kinh doanh hoặc thương mại với các vụ trọng tài quốc tế giữa các
quốc gia về các vấn đề tranh chấp biên giới và vấn đề chính trị khác. Nó cũng dùng
để phân biệt các vụ trọng tài quốc tế liên quan đến tranh chấp kinh doanh hoặc
thương mại với các vụ trọng tài liên quan đến các vấn đề như chiếm hữu tài sản, lao
động và vấn đề tài sản trong quan hệ hôn nhân gia đình [14, tr.8].
Hiện nay, ngày càng có nhiều quốc gia mở rộng phạm vi giải quyết của trọng
tài không chỉ đối với các tranh chấp thương mại mà còn đối với các quan hệ có tính
chất dân sự. Một số quốc gia như Anh, Mỹ, Đức, Nhật, Thụy Điển, Trung Quốc…
khi ban hành đạo luật trọng tài mới đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài, theo đó
trọng tài không chỉ giải quyết các tranh chấp thương mại truyền thống mà còn có thể
giải quyết các tranh chấp về lao động và dân sự khác trừ các tranh chấp bắt nguồn từ
những quan hệ liên quan tới lợi ích công và trật tự công. Còn đối với các tranh chấp
thuộc các lĩnh vực khác như: hôn nhân gia đình (chẳng hạn chia tài sản vợ chồng), sở
hữu trí tuệ (không liên quan tới tài sản), tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh, tranh
chấp lao động thì nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc giải quyết
tại Tòa án hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất định vì chúng được coi là
vấn đề thuộc chính sách công [1, tr.28]...


Tính quốc tế

Tính “quốc tế” tạo nên nét đặc trưng của trọng tài thương mại quốc tế. Thuật ngữ
“quốc tế” được sử dụng để phân biệt sự khác nhau giữa các vụ trọng tài thuần túy quốc
gia hoặc trong nước với các vụ trọng tài, ở một phương diện nào đó, vượt qua biên giới
quốc gia và được gọi là quốc tế hoặc, theo thuật ngữ được dùng bởi thẩm phán Jessup,
“vượt phạm vi quốc gia” [14, tr.14]. Các trọng tài nội địa thường bắt buộc phải tuân theo

những quy định về trọng tài của quốc gia đó như: tố tụng trọng tài, luật điều chỉnh nội


8
dung tranh chấp, ngôn ngữ trọng tài. Nhưng trọng tài thương mại quốc tế có thể tiến
hành phiên xử và đưa ra phán quyết ở nước ngoài trên cơ sở một trình tự tố tụng, ngôn
ngữ và luật áp dụng cho tranh chấp do chính các bên thỏa thuận ra.
Tùy thuộc mức độ phát triển của mỗi quốc gia, và cách mà mỗi quốc gia đánh
giá năng lực của trọng tài mà pháp luật mỗi nước lại có những quy định giới hạn
riêng về tính “quốc tế”. Hiện nay, học lý cũng như thực tiễn trọng tài thường đề cập
tới hai tiêu chí chủ yếu được sử dụng (hoặc riêng biệt hoặc kết hợp) để định nghĩa
thuật ngữ quốc tế trong bối cảnh của Trọng tài thương mại quốc tế. Tiêu chí thứ nhất
tập trung phân tích tính chất của tranh chấp trong khi tiêu chí thứ hai nhấn mạnh vào
chủ thể của vụ tranh chấp.
a. Về tính chất của tranh chấp
Đây là tiêu chí quan trọng để xác định tính quốc tế của vụ tranh chấp. Hiện nay,
Tòa án trọng tài quốc tế ICC đã đưa ra sự giải thích về tính “quốc tế” của quan hệ sẽ
được giải quyết bằng trọng tài trong các sách hướng dẫn về trọng tài được xuất bản
bởi ICC, theo đó, tính chất quốc tế của trọng tài không có nghĩa là buộc các bên nhất
định phải có quốc tịch khác nhau. Hợp đồng vẫn có thể mở rộng phạm vi ra khỏi
biên giới quốc gia, ví dụ như, một hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể có cùng
quốc tịch nhưng việc thực hiện hợp đồng lại ở một nước khác, hoặc trong trường hợp
hợp đồng được ký kết giữa một nhà nước và một chi nhánh của một công ty nước
ngoài kinh doanh trên lãnh thổ đó [20, tr.19]. Như vậy, có thể hiểu rằng ICC quan
niệm một tranh chấp thương mại sẽ được coi là có tính quốc tế nếu nó có liên quan
tới bất kỳ yếu tố nước ngoài nào như: nơi giao kết hợp đồng ở nước ngoài, nơi thực
hiện hợp đồng ở nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng ở các nước khác nhau…
Sự giải thích rộng rãi như vậy cũng được tìm thấy trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Cộng hòa Pháp 1981. Điều 1492 Bộ Luật này quy định: “Một trọng tài sẽ được coi là
trọng tài quốc tế nếu nó giải quyết các tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế”.

Tuy nhiên, điều khoản này đã không định nghĩa “tranh chấp quyền lợi trong thương mại
quốc tế” là gì. Việc giải thích cụm từ này lại được thực hiện bởi Tòa án thượng thẩm
Pháp trong những phán quyết của mình [9, tr.26]. Theo đó, tính chất quốc tế của một
tranh chấp được quy định rất rộng rãi với nhiều căn cứ khác nhau như nơi giao kết hợp


9
đồng ở nước ngoài, nơi thực hiện hợp đồng ở nước ngoài, hàng hóa di chuyển qua biên
giới, các bên tham gia hợp đồng không cùng quốc tịch, việc thanh toán hợp đồng liên
quan tới hơn một quốc gia…
b. Về đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp.
Cách tiếp cận này xem xét đến quốc tịch, nơi thường trú hay trụ sở thương mại
của các bên trong thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp tranh chấp phát sinh từ
thương mại quốc tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có nơi cư trú thường xuyên
hoặc trụ sở ở các nước ký kết khác nhau nếu có thỏa thuận trọng tài thì sẽ được trọng
tài thương mại quốc tế thụ lý giải quyết.
Với vai trò là văn bản được xây dựng chuyên áp dụng đối với Trọng tài thương
mại quốc tế, việc định nghĩa về thuật ngữ “quốc tế” có ý nghĩa quan trọng trong Luật
Mẫu UNCITRAL. Điều 1.3 Luật Mẫu UNCITRAL định nghĩa một vụ trọng tài là
quốc tế nếu:
(a) Các bên tham gia thỏa thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thỏa thuận trọng
tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc
(b) Một trong những địa điểm sau đây được đặt ở ngoài quốc gia nơi các bên
có trụ sở kinh doanh:
(i) Nơi tiến hành trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo thỏa thuận
trọng tài;
(ii) Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại được
thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất;
(c) Các bên đã thỏa thuận rõ ràng rằng vấn đề chủ yếu của thỏa thuận trọng tài
liên quan đến nhiều nước.

Như vậy có thể thấy, Luật Mẫu UNCITRAL đã kết hợp hai tiêu chí: tính chất
quốc tế và yếu tố chủ thể để xác định tính quốc tế của trọng tài. Ngoài ra còn một
tiêu chí khác được sử dụng trong định nghĩa trên, ví dụ địa điểm mà đối tượng của
tranh chấp có mối quan hệ gần gũi nhất có thể là nước ngoài đối với các bên. Đây là
một sự giải thích khá rộng về tính “quốc tế” của trọng tài thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó, một số các Công ước quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế hay
tư pháp quốc tế của một số quốc gia cũng thừa nhận điều này. Điều I.1(a) Công ước


10
Châu Âu 1961 về Trọng tài thương mại quốc tế quy định: “Công ước này sẽ được áp
dụng với: Thỏa thuận trọng tài được ký kết với mục đích giải quyết tranh chấp phát
sinh từ thương mại quốc tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có nơi cư trú thường
xuyên hoặc trụ sở ở các nước ký kết khác nhau”… Tương tự, Điều 176 (1) Đạo Luật
Tư pháp Quốc tế của Liên bang Thụy Sĩ giới hạn việc áp dụng Chương 12 của Đạo
Luật (Chương về trọng tài quốc tế) đối với những vụ việc mà địa điểm trọng tài ở
Thụy Sỹ vào thời điểm ký kết thỏa thuận trọng tài, ít nhất một bên chủ thể không cư
trú ở Thụy Sỹ [9, tr.27].
Tất nhiên, trên đây chỉ là sự tìm hiểu những góc độ tiếp cận khác nhau của
thuật ngữ “quốc tế”. Còn, để xác định một vụ trọng tài cụ thể nào đó có phải là “quốc
tế” hay không lại phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia liên quan.
Tóm lại, Trọng tài thương mại quốc tế là một phương thức giải quyết tranh chấp
mà sự bắt đầu của nó dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp nhằm
giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố quốc tế (hay yếu tố nước ngoài) bởi
một Hội đồng Trọng tài (gồm một hay nhiều Trọng tài viên) trên cơ sở trình tự thủ tục
do các bên tranh chấp thỏa thuận chọn ra và nó kết thúc với một phán quyết có hiệu
lực pháp lý bắt buộc đối với các bên. Tính quốc tế của trọng tài được quyết định dựa
trên hai yếu tố, hoặc được sử dụng riêng rẽ hoặc được kết hợp với nhau, đó là: tính
chất quốc tế của tranh chấp và đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp.
1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài thương mại quốc tế

Trọng tài thương mại quốc tế đã và đang là một phương thức giải quyết tranh
chấp được đặc biệt ưa chuộng trong kinh doanh quốc tế. Sở dĩ Trọng tài thương mại
quốc tế trở thành một công cụ pháp lý quan trọng trong giải quyết các tranh chấp
thương mại quốc tế là vì phương thức này có những lợi thế vượt trội sau đây:


Tính nhanh chóng

Trọng tài được đánh giá là một phương thức giải quyết tranh chấp có tính nhanh
chóng. Quá trình trọng tài có thể diễn ra rất nhanh (tùy thuộc vào các bên tranh chấp) –
điều được coi là ưu thế hơn so với việc giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Các thủ tục
tư pháp tại tòa án thường kéo dài bởi hệ thống tòa án được tổ chức theo các cấp xét xử,
vì vậy việc kiện tụng có thể kéo dài từ cấp sơ thẩm tới cấp tòa án cuối cùng. Ngoài ra,


11
sự kiện tụng này còn có thể bị kéo dài do ảnh hưởng của những thủ tục tư pháp phức
tạp, cứng nhắc và tiêu tốn rất nhiều thời gian. Điều này tạo thuận lợi cho giới kinh
doanh khi đối với họ thời gian là rất quan trọng, nếu vụ tranh chấp cứ dai dẳng nhiều
năm thì công việc làm ăn của họ có thể bị đình trệ, chậm phát triển.


Tính trung lập

Trong nhiều trường hợp, các bên tham gia tranh chấp đến từ các quốc gia khác
nhau và họ sẽ phải cân nhắc về việc đưa vụ việc ra trước một tòa án quốc gia. Các
bên thường có tâm lý thiếu tự tin khi phải đối mặt với những thủ tục tư pháp nghiêm
khắc, cứng nhắc và các thẩm phán – những người có thể sẽ có những định kiến hoặc
bị chi phối bởi tình cảm dân tộc khi đưa ra phán quyết. Và như thế, sẽ chỉ làm lợi cho
một bên là những người có cùng quốc tịch với thẩm phán. Trong bối cảnh đó, trọng

tài có thể giúp cho các bên tranh chấp tự do và bình đẳng để lựa chọn địa điểm xét xử
trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong quá trình trọng tài, các quy tắc tố tụng, quốc tịch
của các Trọng tài viên và người đại diện. Về điểm này không thể phủ nhận vị trí ưu
thế của trọng tài so với tòa án.


Tính bí mật

Các nhà kinh doanh tham gia vào tranh chấp luôn e ngại rằng, tranh chấp liên
quan tới bí mật thương mại cũng như công việc kinh doanh của họ nếu bị xét xử dưới
sự theo dõi của công luận sẽ ảnh hưởng tới công việc trong tương lai. Với yêu cầu
công việc như vậy, lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp là một lựa chọn phù
hợp bởi hội đồng trọng tài được thành lập theo yêu cầu của các bên và thực hiện theo
phương thức xét xử kín tách rời khỏi sự chú ý của công luận. Phiên tòa xét xử chỉ
tiến hành với sự có mặt của các bên, thậm chí việc xét xử phải dựa trên những tài
liệu, chứng cứ được cung cấp bởi các bên mà không nhất thiết phải mở một phiên tòa
trọng tài. Phán quyết trọng tài cũng sẽ chỉ được trao cho các bên nếu họ không có
thỏa thuận khác. Về điểm này, tòa án không phải là phương án tối ưu bởi tòa án sẽ
chỉ dựa vào trình tự tố tụng đã được quy định trong pháp luật quốc gia, xét xử và đưa
phán quyết về vụ việc một cách công khai. Do vậy, khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp là trọng tài, các vụ tranh chấp liên quan tới bí mật kinh doanh, khiếm
khuyết của hàng hóa, sự kém chất lượng của sản phẩm sẽ được bảo đảm giữ bí mật.


12


Tính chuyên nghiệp

Các lĩnh vực tranh chấp thường rất rộng lớn, ở các lĩnh vực, các ngành nghề

khác nhau. Trong khi không phải tất cả các thẩm phán đều là những chuyên gia có
trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực của thương mại quốc tế thì các trọng tài viên
thường là những chuyên gia có trình độ cao về từng lĩnh vực xét xử. Họ có thể là
những luật sư chuyên sâu về lĩnh vực đầu tư, hàng hải, cũng có thể là những kỹ sư
xuất sắc trong lĩnh vực xây dựng, chế tạo máy hoặc là những chuyên gia làm việc lâu
năm và rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng…. Chính yếu tố
chuyên môn đó đã góp phần đảm bảo cho phán quyết trọng tài thường có độ chính
xác cao và mang tính khách quan hơn so với phán quyết của tòa án trong lĩnh vực
thương mại quốc tế.


Tính chung thẩm

Trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp tư, việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh ý
chí của các bên đương sự. Tuy nhiên, không phải vì thế mà quyết định trọng tài không
có giá trị ràng buộc đối với các bên. Khi phán quyết trọng tài được Hội đồng trọng tài
đưa ra, về nguyên tắc, phán quyết trọng tài là chung thẩm, buộc các bên phải thi hành.
Tòa án không thể xét xử lại vụ tranh chấp nếu đã có phán quyết của trọng tài mà chỉ có
thể hủy phán quyết của trọng tài trên cơ sở xem xét các thủ tục tố tụng trọng tài có
được chấp hành đầy đủ hay không. Trong khi đó, các quyết định của tòa án thường bị
kháng cáo lên nhiều cấp xét xử và hậu quả có thể là, phán quyết mới của tòa án cấp
cao hơn khác với nội dung phán quyết ban đầu được đưa ra.
1.1.3 Các hình thức trọng tài thương mại quốc tế
Hiện nay, pháp luật nhiều nước trên thế giới công nhận trọng tài thương mại
quốc tế có hai loại chủ yếu: trọng tài thường trực (trọng tài quy chế) và trọng tài vụ
việc (trọng tài Ad-hoc) [18, tr.354]. Mỗi hình thức trọng tài đều có những ưu điểm và
hạn chế của nó, vì vậy các bên tranh chấp phải tự cân nhắc, lựa chọn cho phù hợp.



Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế)

Trọng tài thường trực là một giải pháp trọng tài được quản lý bởi một tổ chức
trọng tài nhất định và tuân theo những quy tắc trọng tài của tổ chức đó [9, tr.44]. Tùy


13
theo phạm vi hoạt động và năng lực chuyên môn cũng như khả năng thu hút khách
hàng mà mỗi tổ chức trọng tài được cơ cấu bởi nhiều hay ít cơ quan nhưng thông
thường bao gồm, cơ quan phụ trách về tài chính có nhiệm vụ thu chi tài chính cho tổ
chức trọng tài, ban thư ký có nhiệm vụ giúp việc trực tiếp cho Hội đồng trọng tài trong
suốt quá trình trọng tài như chuẩn bị hồ sơ vụ tranh chấp, tống đạt giấy tờ, thuê địa
điểm xét xử khi cần thiết…
Mỗi tổ chức trọng tài đều đưa ra một bản quy tắc tố tụng riêng cũng như danh
sách trọng tài viên của riêng mình và đây là nguồn quan trọng để các bên tranh chấp
lựa chọn trọng tài viên khi thành lập Hội đồng trọng tài. Các trọng tài viên tham gia
các tổ chức này là các luật sư, các chuyên gia giỏi giàu kinh nghiệm trong các lĩnh
vực tư pháp, thương mại, bảo hiểm, đầu tư,… Nhìn vào danh sách trọng tài viên có
thể xác định đẳng cấp của tổ chức trọng tài đó bởi chỉ những tổ chức trọng tài uy tín
mới có khả năng có được sự cộng tác từ những trọng tài viên ưu tú.
Để đi tới quyết định lựa chọn hay không lựa chọn trọng tài thường trực, ngoài
việc căn cứ vào mức độ, tính chất của tranh chấp, khả năng tài chính, quốc tịch của
các bên, vấn đề thi hành quyết định trọng tài, danh tiếng của tổ chức trọng tài…, các
bên cần nắm rõ những ưu điểm và nhược điểm của trọng tài này.
+ Ưu điểm của trọng tài thường trực
Thứ nhất, với hình thức trọng tài này, quá trình tố tụng trọng tài diễn ra sẽ luôn
được đảm bảo thông suốt, theo một quy trình được xác định trước trong bản quy tắc
trọng tài đã được đề ra. Trong những trường hợp không lường trước được xảy ra
như: nếu bị đơn đột ngột từ chối lựa chọn trọng tài viên cho mình hay trong trường
hợp bị đơn hoặc nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa trọng tài thì bộ quy tắc giúp

phiên họp giải quyết tranh chấp vẫn có thể tiến hành một cách bình thường.
Thứ hai, hầu hết các tổ chức trọng tài thường trực đều có đội ngũ trọng tài viên
theo danh sách trọng tài viên của tổ chức trọng tài và nhân viên hành chính giám sát
và quản lý trọng tài. Những nhân viên này được đào tạo chuyên nghiệp, có trình độ
chuyên môn cao, sẽ trợ giúp trong toàn bộ quá trình trọng tài, giúp cho quá trình
trọng tài có thể vận hành trơn tru, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy
ra. Về mặt này, rõ ràng trọng tài thường trực đã tỏ ra vượt trội so với trọng tài vụ


14

việc về tính chuyên nghiệp và có tổ chức.
+ Hạn chế của trọng tài thường trực
Ngoài những ưu điểm trên, trọng tài thường trực có một số nhược điểm sau:
Thứ nhất, chi phí cho các quá trình trọng tài này thường khá cao. Thông
thường, các bên phải trả trước một khoản chi phí cho tổ chức và hội đồng trọng tài –
được ấn định trên cơ sở giá trị vụ việc. Mỗi tổ chức trọng tài có mức phí riêng nhưng
thường tương đương mức phí do ICC thu (không kể những tổ chức trọng tài kém
chất lượng và không có tiếng tăm). Một vụ kiện trị giá 50.000 USD được giải quyết
bởi trọng tài viên duy nhất của ICC, phí trọng tài ứng trước khoảng 12.800 USD (tức
25% giá trị tranh chấp). Đối với các vụ kiện trị giá 1.000.000$ được giải quyết bởi ba
trọng tài viên, phí trọng tài trả trước cho ICC là 128.400$ (tương đương 13% giá trị
tranh chấp và mỗi bên trả 6.5%). Bên cạnh đó, tổng chi phí cho mỗi bên còn phải
tính thêm chi phí thuê luật sư, đi lại cho mình và nhân chứng…[9, tr.34]. Trong phán
quyết cuối cùng của mình, trọng tài sẽ ấn định mức chi phí mỗi bên tranh chấp phải
trả, và không loại trừ trường hợp một bên phải trả toàn bộ chi phí trọng tài. Với
những mức chi phí đưa ra như vậy, hẳn các bên sẽ phải suy nghĩ rất kỹ càng khi
muốn lựa chọn giải quyết tranh chấp theo hình thức trọng tài này.
Thứ hai, các thủ tục hành chính đôi khi tiêu tốn một khoảng thời gian đáng kể và
điều này là không phù hợp với những vụ việc yêu cầu xét xử nhanh. Hội đồng Trọng

tài phải tiến hành các thủ tục xét xử một cách tuần tự mà không thể tự ý cắt đứt những
công đoạn kéo dài thời gian xét xử dù đôi khi những thủ tục này có thể không thật sự
cần thiết trong một giai đoạn xét xử nào đó. Sự cứng nhắc này có thể làm ảnh hưởng
tới tốc độ trọng tài (nếu so với trọng tài vụ việc), tuy nhiên, các bên tranh chấp vẫn
phải tuân theo nếu đã chọn tổ chức trọng tài đó và áp dụng quy tắc tố tụng của nó.


Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc)

Trọng tài vụ việc là một phương thức trọng tài được thành lập để giải quyết một
vụ tranh chấp cụ thể, gồm các trọng tài viên do các bên lựa chọn mà không bị giới
hạn bởi một danh sách trọng tài viên có sẵn. Sau khi giải quyết xong tranh chấp thì
ủy ban trọng tài này tự giải thể. Đây là tổ chức trọng tài không tồn tại thường xuyên
nên không có điều kiện và quy chế hoạt động riêng, cũng như không có quy tắc tố


15
tụng cụ thể. Đối với hình thức trọng tài này, các bên được tự do thỏa thuận về các
quy tắc tố tụng cũng như có quyền thỏa thuận về cách thức bổ nhiệm trọng tài viên,
địa điểm trọng tài, luật điều chỉnh quá trình trọng tài, ngôn ngữ trọng tài,…
Cũng giống như Trọng tài thường trực, sở dĩ Trọng tài vụ việc có thể diễn ra là
vì trước đó các bên tham gia trọng tài đã có một thỏa thuận chọn loại trọng tài này để
giải quyết tranh chấp. Trọng tài vụ việc có những ưu điểm và nhược điểm riêng
biệt của nó, mà các bên tham gia giao dịch cần xem xét kĩ trước khi quyết định có
lựa chọn nó hay không.
+ Ưu điểm của trọng tài vụ việc
Một trong những ưu điểm nổi bật của hình thức trọng tài này là tính linh hoạt và tổ
chức đơn giản. Tính linh hoạt của nó thể hiện qua việc các bên tranh chấp hoàn toàn có
quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, tự do lựa chọn về các quy tắc tố tụng mà không phải
tuân theo bất kì một bộ quy tắc trọng tài nào. Điều này đáp ứng được yêu cầu của các

bên và phù hợp với thực tế của một vụ tranh chấp cụ thể.
Tính đơn giản, gọn nhẹ trong tổ chức và quy tắc tố tụng cũng giúp tiết kiệm
tiền bạc và rút ngắn thời gian cho các bên, ví dụ có thể thay đổi các thủ tục tố tụng
(thường là rút ngắn các thủ tục tố tụng), không phải thanh toán các chi phí cho dịch
vụ hành chính. Nhìn chung, những ưu điểm của trọng tài vụ việc đã giải quyết được
những hạn chế của trọng tài thường trực.
+ Hạn chế của trọng tài vụ việc
Thứ nhất, việc không có trước quy tắc tố tụng riêng nên việc thỏa thuận giữa
các trọng tài viên để xây dựng quy tắc tố tụng cũng có những phiền hà nhất định.
Bên cạnh đó, trong quá trình xét xử, nếu các bên không thể hợp tác với nhau hoặc
một bên thiếu thiện chí có thể khiến thủ tục trọng tài bị trì hoãn, bởi các bên không
bắt buộc phải tuân theo một bộ quy tắc tố tụng trọng tài nào.
Thứ hai, vì không có biểu phí cố định như trọng tài thường trực, các bên phải
thỏa thuận trực tiếp vấn đề phí với trọng tài viên. Các bên có thể thỏa thuận trả thù
lao theo giờ, hay theo ngày làm việc, và kết quả là tổng chi phí cuối cùng có thể cao
hơn chi phí mà các bên phải trả nếu đưa tranh chấp tới một tổ chức trọng tài.
Thứ ba, do tự thiết lập thủ tục tố tụng trọng tài và không có cơ quan nào giám


16
sát quá trình trọng tài cũng như các trọng tài viên, nên kết quả giải quyết tranh chấp
phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ và sự điều khiển của Hội đồng Trọng tài. Vì vậy,
bất kỳ sơ suất nào liên quan tới thủ tục trọng tài đều có thể dẫn tới nguy cơ vô hiệu
của phán quyết trọng tài.
Tóm lại, trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực là hai hình thức trọng tài cơ
bản được sử dụng rộng rãi bởi các bên tham gia tranh chấp thương mại quốc tế có
thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Mỗi loại trọng tài đều có những ưu
điểm và nhược điểm riêng vốn bắt nguồn từ bản chất của nó. Tùy từng vụ việc cụ
thể, các bên tham gia tranh chấp sẽ quyết định hình thức trọng tài nào là phù hợp hơn
với tranh chấp thực tế đang tồn tại. Điều đáng lưu ý hơn là, dù chọn hình thức trọng

tài nào thì các bên cũng phải lập một thỏa thuận trọng tài rõ ràng và đầy đủ, bởi nếu
không, nguy cơ thỏa thuận trọng tài vô hiệu là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
1.2 Luật áp dụng trong trọng tài thƣơng mại quốc tế
1.2.1 Nội dung của luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế
Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế là vấn đề hết sức phức tạp và
là một khâu cực kỳ quan trọng trong toàn bộ tiến trình trọng tài, cần phải được các
bên tham gia trọng tài, các trọng tài viên suy xét kỹ lưỡng trước và trong tố tụng
trọng tài. Luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế cần được xem xét cẩn
trọng trong ba phạm vi: luật áp dụng đối với tố tụng trọng tài, luật áp dụng đối với
nội dung tranh chấp, luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Mỗi phạm vi có những
nguyên tắc áp dụng riêng và không thể có sự nhầm lẫn hay thay thế cho nhau. Bất kì
sự sai sót nào trong việc lựa chọn luật áp dụng đều dẫn đến những hậu quả nguy
hiểm đó là phán quyết trọng tài cuối cùng có nguy cơ bị hủy bỏ hay không được
công nhận và thi hành ở nước ngoài.


Luật áp dụng cho tố tụng trọng tài

Luật áp dụng cho tố tụng trọng tài quy định các thủ tục tố tụng trọng tài như
quy trình gửi các văn bản, chứng cứ của các bên, của nhân chứng, ngôn ngữ trọng
tài,v.v… Bên cạnh đó, luật này còn cung cấp chỉ dẫn về quy tắc thành lập Hội đồng
trọng tài, thay thế trọng tài viên, trưng cầu giám định, khiếu nại về quyết định của
trọng tài… Từ đó có thể thấy, luật áp dụng cho tố tụng trọng tài không chỉ là luật thủ


17
tục quy định nội tại của tố tụng trọng tài mà nó còn có vai trò định hướng các bên
thông qua việc cung cấp các hướng dẫn về cách thức tiến hành trọng tài,…
Việc xác định luật áp dụng trong tố tụng trọng tài thương mại quốc tế bị chi
phối bởi nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên và nguyên tắc nơi tọa lạc của trọng

tài [4, tr.5].
Thứ nhất, nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên
Trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, trọng tài
của đa số các nước đều dành quyền lựa chọn luật điều chỉnh tố tụng trọng tài cho các
bên tranh chấp. Quy định này dựa trên nguyên tắc được ghi nhận trong Luật Mẫu
UNICITRAL, tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Điều 19.1 Luật Mẫu
quy định: “Theo quy định của luật này, các bên được tự do thỏa thuận về tố tụng mà
hội đồng trọng tài phải thực hiện khi tiến hành tố tụng”. Nguyên tắc thỏa thuận của
các bên chủ thể trong hợp đồng thương mại quốc tế không chỉ tác động trực tiếp đến
việc lựa chọn luật để điều chỉnh nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng mà nguyên tắc này còn ảnh hưởng đến việc thành lập hội đồng trọng tài, trong đó
bao gồm cả việc đưa ra các nguyên tắc xét xử hoặc chọn luật tố tụng cho quá trình xét
xử của trọng tài [4, tr.5]. Chỉ khi không có sự thỏa thuận lựa chọn luật của các bên,
Hội đồng trọng tài mới có thẩm quyền xác định luật áp dụng cho quá trình trọng tài.
Thứ hai, nguyên tắc nơi tọa lạc của trọng tài.
Việc xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài còn chịu ảnh hưởng của nguyên
tắc nơi tọa lạc của trọng tài. Khái niệm tố tụng trọng tài được điều chỉnh bởi luật của
nước nơi tiến hành trọng tài được đề cập đến trong cả lý thuyết và thực tiễn của trọng
tài quốc tế. Nghị định thư Geneva về Thỏa thuận trọng tài 1923 trước đây quy định,
thủ tục tố tụng trọng tài, bao gồm cả việc thành lập hội đồng trọng tài, sẽ được điều
chỉnh bởi ý chí của các bên và bởi luật quốc gia nơi tiến hành trọng tài (Điều 2). Điều
5 Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài
nước ngoài cũng gián tiếp thừa nhận nguyên tắc này thông qua quy định việc công
nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối nếu “…thành phần trọng tài xét xử hoặc
thủ tục xét xử trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên; hoặc nếu không có
thỏa thuận đó, không phù hợp với luật của nước tiến hành trọng tài”. Tố tụng trọng tài


18
hiện đại công nhận quyền tự chủ của các bên trong phạm vi khá rộng đối với cách thức

tiến hành tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của luật nơi tiến hành trọng tài tới
quá trình trọng tài là điều không thể phủ nhận. Các bên có quyền lựa chọn pháp luật
mà tố tụng trọng tài phải tuân theo nhưng, sự thỏa thuận này không để dẫn đến tố tụng
trọng tài nằm ngoài, hay nói cách khác, là đi ngược lại với pháp luật của quốc gia nơi
tiến hành trọng tài.
Bên cạnh đó, tố tụng trọng tài còn bị chi phối bởi sự can thiệp của Tòa án quốc
gia nơi tiến hành trọng tài. Mặc dù với việc các bên thỏa thuận về một điều khoản
trọng tài nhằm loại trừ thẩm quyền của tòa án quốc gia, khả năng vụ việc của họ bị đưa
ra trước một cơ quan nhà nước có thẩm quyền như vậy vẫn có thể xảy ra. Sự can thiệp
của Tòa án vào tố tụng trọng tài có thể xảy ra trước khi phán quyết trọng tài được ban
hành, hoặc thậm chí, trong khi đang tiến hành tố tụng trọng tài. Sự can thiệp dễ nhận
thấy nhất là khi một bên tham gia trọng tài cố tình lợi dụng quyền lực tư pháp của Tòa
án nhằm làm chậm tiến độ hoặc gây khó khăn cho quá trình trọng tài với mục đích
phục vụ lợi ích của mình. Ngoài ra, Tòa án địa phương còn can thiệp trong trường hợp
các bên yêu cầu tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ, thay đổi Trọng tài viên,…


Luật áp dụng cho nội dung tranh chấp

Trong trọng tài thương mại quốc tế, vấn đề luật áp dụng đối với nội dung tranh
chấp là rất quan trọng bởi phán quyết trọng tài ngoài việc dựa trên chính những điều
khoản của hợp đồng còn phải căn cứ vào những quy định của luật nội dung điều chỉnh
các tranh chấp. Nội dung tranh chấp chính là quyền và nghĩa vụ của các bên bị xâm
hại trong quá trình thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế. Luật áp dụng cho nội
dung tranh chấp (hay thường được biết đến như là luật nội dung, “luật điều chỉnh” của
hợp đồng) xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, quy định việc giải thích và hiệu
lực của hợp đồng, cách thức thực hiện và hệ quả của việc vi phạm hợp đồng
[14,tr.113]… Bên cạnh việc xác định hiệu lực về nội dung của hợp đồng, luật này còn
bổ sung những nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng mà các điều khoản trong hợp đồng
chưa đề cập tới. Đây là cơ sở pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể

của hợp đồng đối với nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng và đồng thời còn là cơ
sở pháp lý để cơ quan xét xử áp dụng nhằm xác định trách nhiệm của các bên nếu sau


19
này hợp đồng bị vi phạm.
Nguyên tắc để xác định luật áp dụng cho nội dung tranh chấp là nguyên tắc “ý
chí của các bên”, nguyên tắc được Luật Mẫu UNCITRAL và hầu hết pháp luật các
nước trên thế giới thừa nhận. Còn nếu các bên không có thỏa thuận thì sẽ tuân theo
nguyên tắc “luật do hội đồng trọng tài lựa chọn”. Với trường hợp này, không có một
nguyên tắc thống nhất cho việc quyết định pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp
dụng mà tùy thuộc từng vụ việc cũng như tùy từng hội đồng trọng tài mà việc xác
định quy tắc áp dụng luật là khác nhau. Ngoài ra, trong mọi trường hợp, Hội đồng
trọng tài cũng phải xem xét đến tập quán thương mại quốc tế cho dù đã có sự thỏa thuận
về luật áp dụng hay chưa.
Mặc dù được trao quyền lựa chọn luật đa dạng như vậy nhưng vẫn có sự giới hạn
trong việc sử dụng quyền năng này đối với các bên. Có một số hạn chế được đưa ra,
nhằm đảm bảo việc chọn luật áp dụng là không gian dối và không trái với chính sách
công. Ví dụ, các bên không thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài nhằm thông qua đó thực
hiện các hợp đồng để trả tiền hối lộ, thực hiện hành vi phạm pháp, hoặc tham gia các
liên minh bị cấm hay các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tương tự [21, tr.21].
Luật Mẫu UNCITRAL còn cho phép Hội đồng trọng tài giải quyết nội dung
tranh chấp với tư cách là nhà trung gian hòa giải (amiable compositeur) hoặc trên cơ
sở lẽ công bằng (ex aequo et bono) [10, tr.49]. Với tư cách là nhà trung gian hòa giải,
trọng tài viên được phép không phải tuân thủ triệt để các quy định của luật áp dụng
nếu điều này dẫn tới kết quả không công bằng, mà thay vào đó trọng tài sẽ giải quyết
tranh chấp trên cơ sở công lý và lẽ công bằng. Tuy nhiên, nhà trung gian hòa giải vẫn
phải tôn trọng các quy định mang tính bắt buộc của luật áp dụng. Còn khi hội đồng
trọng tài giải quyết tranh chấp trên cơ sở lẽ công bằng thì họ được quyền bỏ qua
không chỉ những quy định không bắt buộc mà cả những quy định bắt buộc của luật

áp dụng, miễn là họ vẫn tôn trọng trật tự công cộng quốc tế [19, tr.2].
Xác định luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp là vấn đề quan trọng, ảnh
hưởng lớn đến quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Sẽ đơn giản hơn nhiều nếu
các bên tự thực hiện việc xác định luật áp dụng bởi nếu họ không sử dụng quyền này
thì hội đồng trọng tài sẽ làm việc đó và pháp luật do hội đồng trọng tài lựa chọn có


×