Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo "Luật áp dụng trong xét xử của trọng tài thương mại quốc tế " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.65 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 3

Luật áp dụng trong xét xử của
trọng tài thơng mại quốc tế

ThS. Nông Quốc Bình *
ét xử tranh chấp trong thơng mại
quốc tế đợc tiến hành dới hai hình
thức là xét xử trớc tòa án thơng
mại và xét xử trớc trọng tài thơng mại
quốc tế, trong đó việc xét xử tranh chấp
trớc trọng tài thơng mại quốc tế đang
trở thành phơng pháp quan trọng và phổ
biến trong việc giải quyết các tranh chấp
trong thơng mại quốc tế
(1)
bởi những u
điểm vốn có của trọng tài so với tòa án
(2)
.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là luật của nớc
nào đợc áp dụng trong quá trình xét xử
trọng tài. Thực tế cho thấy hiện tợng
xung đột luật luôn xuất hiện trong quá
trình xét xử của trọng tài thơng mại
quốc tế. Trong đó, luật của rất nhiều nớc
liên quan tới quan hệ của các bên trong
hợp đồng cùng có khả năng điều chỉnh


nh luật của nớc do các bên đơng sự
mang quốc tịch hoặc c trú, luật nơi kí
kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp
đồng Nói cách khác, khi tranh chấp
đợc đa ra trọng tài thơng mại quốc tế
thì vấn đề chọn luật đồng thời đợc đặt
ra. Nh vậy, việc chọn luật để xét xử của
trọng tài thơng mại quốc tế đợc dựa
trên cơ sở pháp lí nào? Bài viết này chỉ
đề cập việc xác định luật áp dụng trong
xét xử của trọng tài thơng mại quốc tế.
Việc xác định luật áp dụng trong
trọng tài thơng mại quốc tế đợc xem
xét ở hai vấn đề. Đó là việc xác định luật
áp dụng để xét xử đối với quyền và nghĩa
vụ cụ thể của các bên tranh chấp và việc
xác định luật để áp dụng cho quá trình tố
tụng trọng tài. Có thể nói đây là hai vấn
đề cơ bản và quan trọng nhất trong việc
xác định luật trong hoạt động của trọng
tài thơng mại quốc tế
(3)
.
1. Xác định luật áp dụng để xét xử
tranh chấp
Luật áp dụng để xét xử tranh chấp là
luật mà trọng tài dùng để xem xét việc
thực hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật
này đợc gọi là luật áp dụng cho hợp

đồng. Về mặt lí luận cũng nh thực tế,
luật áp dụng cho hợp đồng đợc hình
thành trên các cơ sở pháp lí sau đây:
Thứ nhất là luật do các bên lựa chọn
Về nguyên tắc thì luật do các bên lựa
chọn là luật đợc các bên thỏa thuận ghi
trong hợp đồng. Trong quá trình giao kết
hợp đồng, ngoài những điều khoản cơ bản
của hợp đồng nh đối tợng của hợp
đồng, giá cả của đối tợng hợp đồng,
phơng thức thanh toán các bên thờng
thỏa thuận thêm điều khoản về luật áp
dụng cho hợp đồng. Theo khoản 1 Điều 3
Công ớc Rôma 1980 về luật áp dụng cho
hợp đồng đợc kí ngày 19/6/1980 tại
Rôma (Italia) thì các bên chủ thể của hợp
đồng có yếu tố nớc ngoài có quyền tự do
lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
Luật áp dụng cho hợp đồng là luật
điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Khi
thỏa thuận luật áp dụng cho hợp đồng,
các bên thờng chỉ quan tâm đến hiệu lực
của nó đối với quyền và nghĩa vụ của
X

* Giảng viên Khoa luật quốc tế
Trờng đạ
i học luật Hà Nội




nghiên cứu - trao đổi
4 - Tạp chí luật học

mình trong quá trình thực hiện hợp đồng
mà ít khi tính đến sự ảnh hởng của luật
này đối với quyền và nghĩa vụ của các
bên nếu sau này xảy ra tranh chấp hợp
đồng. Về mặt pháp lí, điều khoản về luật
áp dụng cho hợp đồng không chỉ là cơ sở
pháp lí ràng buộc quyền và nghĩa vụ của
các bên chủ thể của hợp đồng đối với
nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng
mà nó còn là cơ sở pháp lí để cơ quan xét
xử áp dụng nhằm xác định trách nhiệm
của các bên nếu sau này hợp đồng bị vi
phạm. Bởi vì, về mặt chủ quan, khi thỏa
thuận luật áp dụng cho hợp đồng các bên
đ tự nguyện ràng buộc mình bởi các quy
định cụ thể của hệ thống pháp luật nhất
định với mong muốn hợp đồng sẽ đợc
thực hiện một cách tốt đẹp. Nh vậy, nếu
tranh chấp phát sinh trong quá trình thực
hiện hợp đồng thì đơng nhiên luật do
các bên đ lựa chọn phải đợc cơ quan
xét xử áp dụng nhằm xác định trách
nhiệm của bên vi phạm hợp đồng. Về mặt
thực tế, việc này đợc thể hiện rõ trong
thực tiễn xét xử các tranh chấp hợp đồng

ở các nớc theo hệ thống common law.
Một trong những ví dụ điển hình cho vấn
đề này là vụ kiện về tranh chấp hợp đồng
giữa Union of India và McDonnell
Douglas Corporation
(4)
. Nội dung của vụ
kiện này là trong khi giao kết hợp đồng
các bên chủ thể đ thỏa thuận luật áp
dụng cho hợp đồng giữa các bên là luật
của ấn Độ. Trong quá trình thực hiện hợp
đồng đ phát sinh tranh chấp và tranh
chấp này đ đợc các bên đa ra hội đồng
trọng tài để xét xử. Tại hội đồng xét xử,
vấn đề chọn luật để xét xử đợc đặt ra và
để chọn luật xét xử, cơ quan xét xử đ lập
luận nh sau: Trong quá trình xác lập hợp
đồng các bên đ thống nhất chọn luật của
ấn Độ để áp dụng cho hợp đồng. Điều
này có nghĩa là luật do các bên lựa chọn
không chỉ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ
của mình trong quá trình thực hiện hợp
đồng mà nó còn chi phối tất cả các điều
khoản của hợp đồng, bao gồm cả điều
khoản trọng tài (điều khoản liên quan đến
việc xét xử tranh chấp). Do vậy, cơ quan
xét xử kết luận, trong trờng hợp này,
luật của ấn Độ không những đợc áp
dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quá trình thực hiện hợp

đồng mà nó còn là luật đợc cơ quan xét
xử áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Cũng tơng tự nh vậy, quan điểm này
đợc thể hiện rõ trong nhiều vụ kiện khác
nh vụ án CIA Maritima Zorroza S.A v.
Sesotris S.A.E
(5)
. Vụ án Vita Food
Products Inc. v. Unus Shipping Co
(6)
.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra và làm
tăng thêm trách nhiệm đối với nhau,
trong quá trình giao kết hợp đồng các bên
thờng thỏa thuận luật áp dụng cho hợp
đồng trong điều khoản trọng tài. Bởi vì,
về mặt pháp lí thì thỏa thuận trọng tài
đợc xem nh giao kết độc lập với hợp
đồng thơng mại của các bên chủ thể. Do
đó, trong trờng hợp mặc dù hợp đồng
thơng mại đ đợc thực hiện hoặc bị vi
phạm, thậm chí bị vô hiệu thì điều khoản
về thỏa thuận trọng tài của hợp đồng vẫn
giữ nguyên giá trị pháp lí
(7)
. Nh vậy, việc
xây dựng thỏa thuận trọng tài mà trong
đó bao gồm cả việc chọn luật áp dụng sẽ
là cơ sở pháp lí vững chắc để bên bị vi

phạm đợc bảo vệ quyền lợi trớc cơ
quan xét xử.
Việc xây dựng thỏa thuận trọng tài
đợc tiến hành dới hai hình thức: Đợc
ghi nhận trong điều khoản trọng tài của
hợp đồng thơng mại quốc tế; đợc ghi
nhận trong văn bản độc lập về trọng tài


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 5

đợc các bên kí kết sau khi đ kí hợp
đồng thơng mại quốc tế
(8)
. Theo luật
pháp của hầu hết các nớc và các điều
ớc quốc tế về thỏa thuận trọng tài thì
thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lí
khi nó đảm bảo hai tiêu chuẩn, đó là:
Phải đợc các bên thỏa thuận và phải
đợc thể hiện dới hình thức văn bản (ví
dụ, vấn đề này đợc quy định tại Điều II
(1,2) của Công ớc New York 1958 về
công nhận và thi hành các phán quyết
trọng tài nớc ngoài, Điều 1 (1,2) của bản
quy tắc trọng tài UNCITRAL ủy ban về
luật quốc tế của Liên Hợp quốc đợc Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
15/12/1976; Điều 2 Luật trọng tài

Malaysia số 93 - 1952 sửa đổi năm
1972 ). Nh vậy, dù thỏa thuận trọng tài
đợc ghi nhận dới hình thức nào cũng
phải đảm bảo hai tiêu chuẩn pháp lí trên
đây.
Thứ hai là luật có quan hệ gắn bó với
hợp đồng
Trong trờng hợp các bên không có
thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp
đồng và những điều khoản trong hợp
đồng mà các bên đ thỏa thuận không đủ
cơ sở pháp lí để giải quyết tranh chấp thì
luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng sẽ
đợc trọng tài áp dụng để xét xử tranh
chấp giữa các bên. Khoản 1 Điều 4 Công
ớc Rôma (1980) quy định: Nếu các bên
không chọn luật áp dụng thì luật có quan
hệ gắn bó đối với hợp đồng sẽ đợc áp
dụng. Luật có quan hệ gắn bó với hợp
đồng có thể là luật của nớc mà các bên
mang quốc tịch hoặc c trú; luật nơi kí
kết hợp đồng; luật nơi thực hiện hợp
đồng; luật nơi có tài sản là đối tợng
tranh chấp của hợp đồng Việc quyết
định luật nào là luật có quan hệ gắn bó
với hợp đồng để làm cơ sở xét xử tranh
chấp sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào lập luận
của trọng tài. Cơ sở cho những lập luận
này dựa vào những chứng cứ, tình huống
của từng vụ kiện cụ thể, trên nguyên tắc

tôn trọng nguyện vọng của các bên và
bảo vệ các nguyên tắc của thơng mại
quốc tế
(9)
, trong đó quyền lợi của các bên,
các điều khoản trong hợp đồng mà các
bên đ thỏa thuận phải đợc bảo vệ;
nguyên tắc trung thực trong thơng mại,
nguyên tắc tôn trọng giá trị đạo đức
phải đợc tôn trọng
(10)
.
2. Xác định luật áp dụng trong tố
tụng trọng tài thơng mại quốc tế
Việc xác định luật áp dụng trong tố
tụng trọng tài thơng mại quốc tế bị chi
phối bởi nguyên tắc tự do thỏa thuận của
các bên và nguyên tắc nơi tọa lạc của
trọng tài.
Thứ nhất, tôn trọng nguyên tắc tự do
thỏa thuận của các bên. Nếu khi giải
quyết tranh chấp thơng mại quốc tế tại
tòa án thì tòa án phải tuân thủ nguyên tắc
lex fori, theo đó tòa án buộc phải tiến
hành mọi thủ tục tố tụng theo quy định
của pháp luật nớc mình về tố tụng thì
việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài lại
khác với tòa án. Trong nhiều trờng hợp,
trọng tài không nhất thiết phải tuân thủ
theo các quy định về thủ tục tố tụng về

trọng tài của nớc mà trọng tài tiến hành
xét xử
(11)
. Bởi vì, nguyên tắc thỏa thuận
của các bên chủ thể trong hợp đồng
thơng mại quốc tế không những chi phối
việc chọn luật để điều chỉnh nghĩa vụ của
các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng mà nó còn chi phối cả việc thành
lập hoặc chọn trọng tài trong đó bao gồm
cả việc đa ra các nguyên tắc xét xử hoặc
chọn luật tố tụng cho quá trình xét xử của
trọng tài.
Trên thực tế, khi thỏa thuận về trọng


nghiên cứu - trao đổi
6 - Tạp chí luật học

tài để xét xử tranh chấp, các bên có thể
chỉ định một hội đồng trọng tài thờng
trực (trọng tài thiết chế) hoặc cũng có thể
thỏa thuận thành lập trọng tài ad hoc
(trọng tài vụ việc). Trong mỗi trờng hợp
chọn hình thức trọng tài thì việc chọn luật
áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng khác
nhau, đó là:
- Trong trờng hợp các bên thỏa thuận
chọn trọng tài thờng trực cụ thể để xét
xử tranh chấp của mình thì đ đồng nghĩa

với việc các bên thỏa thuận chọn luật tố
tụng để áp dụng cho trọng tài đó. Bởi vì,
khi trọng tài thờng trực đợc các bên
thỏa thuận lựa chọn xét xử tranh chấp thì
cơ quan trọng tài này sẽ áp dụng thủ tục
tố tụng của mình để tiến hành xét xử. Ví
dụ, Điều 1 Bản quy tắc trọng tài
UNCITRAL quy định khi các bên hợp
đồng đ thỏa thuận bằng văn bản rằng
các tranh chấp liên quan tới hợp đồng sẽ
đợc đa ra giải quyết bằng trọng tài.
Theo Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL
thì các tranh chấp này sẽ đợc giải quyết
bằng bản quy tắc đó. Điều 15 của Bản
quy tắc này chỉ rõ: "Trọng tài có thể tiến
hành thủ tục tố tụng trọng tài theo cách
thức mà trọng tài cho là thích hợp nhng
phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên
và bảo đảm cho mỗi bên có đủ cơ hội
trình bày vụ việc của mình ở bất cứ giai
đoạn nào của quá trình tố tụng". Tơng
tự nh vậy, Điều 8 Quy định về hoà giải
và trọng tài của Phòng thơng mại quốc
tế (ICC) đ đợc sửa đổi, bổ sung và có
hiệu lực từ ngày 1/1/1988 ghi nhận: "Khi
các bên thỏa thuận nhờ đến trọng tài của
Phòng thơng mại quốc tế thì họ qua đó
phục tùng quy định này" hoặc Điều 11
Quy định này ghi nhận: "Các nguyên tắc
áp dụng trong tố tụng trớc trọng tài viên

là các nguyên tắc xuất phát từ Quy định
này và trong trờng hợp Quy định này
không đề cập thì áp dụng các nguyên tắc
mà các bên đ xác định và trong trờng
hợp các bên không xác định thì trọng tài
viên xác định bằng cách dựa vào hoặc
không dựa vào một luật quốc gia về tố
tụng áp dụng cho trọng tài". Nh vậy,
theo Điều 11 Quy định về hòa giải và
trọng tài của Phòng thơng mại quốc tế
thì nguyên tắc áp dụng quy tắc về tố tụng
của tổ chức trọng tài đ đợc u tiên hơn
so với nguyên tắc thỏa thuận của các bên.
Điều này có nghĩa là về mặt nguyên tắc
thì khi các bên chủ thể đ lựa chọn trọng
tài thờng trực thì luật áp dụng cho tố
tụng trọng tài đơng nhiên đợc xác định.
Đó là các quy tắc về tố tụng đợc ghi
nhận trong quy chế của tổ chức trọng tài
thờng trực đó.
- Trong trờng hợp các bên thỏa thuận
thành lập trọng tài ad hoc thì việc xác
định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài sẽ
do các bên tự quyết định. Các bên có thể
thỏa thuận xây dựng nên các nguyên tắc
một cách độc lập và cũng có thể chọn các
quy định về tố tụng của một tổ chức trọng
tài thờng trực nào đó để áp dụng cho
trọng tài mà các bên đ lập ra. Trong
trờng hợp các bên lựa chọn các quy định

của tổ chức trọng tài thờng trực nào đó
thì các quy định này có thể đợc các bên
thỏa thuận giữ nguyên hoặc đợc sửa đổi,
bổ sung trớc khi áp dụng.
Nếu so sánh việc chọn luật tố tụng
trong trọng tài thờng trực với việc chọn
luật tố tụng trong trọng tài ad hoc thì việc
chọn luật tố tụng trong trọng tài ad hoc có
những u điểm và hạn chế nhất định. Nh
đ đề cập ở trên, việc chọn luật tố tụng
cho trọng tài thờng trực hoàn toàn phụ
thuộc vào việc chọn trọng tài, theo đó


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 7

một khi các bên đ thỏa thuận chọn trọng
tài thờng trực thì đơng nhiên phải chấp
nhận những quy định về tố tụng của trọng
tài thờng trực này. Nh vậy, nguyên tắc
"tự do lựa chọn" của các bên trên thực tế
đ bị hạn chế. Ngợc lại, đối với việc
chọn trọng tài ad hoc, các bên đợc bảo
đảm quyền "tự do lựa chọn" và không bị
lệ thuộc trong việc chọn luật áp dụng cho
hoạt động trọng tài. Thực tế cho thấy hoạt
động trọng tài ad hoc đạt hiệu quả rất cao
nếu các bên thực hiện tốt những điều đ
cam kết trong việc chọn luật tố tụng cho

trọng tài. Tuy nhiên, nếu các bên không
thiện chí hoặc không có tinh thần hợp tác
thì hoạt động của trọng tài ad hoc kém
hiệu quả so với trọng tài thờng trực. Bởi
vì, trên thực tế, cơ chế giám sát thực hiện
hoạt động tố tụng của trọng tài ad hoc
không chặt chẽ bằng trọng tài thờng
trực
(12)
.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc nơi tọa
lạc của trọng tài. Một trong những vấn đề
quan trọng liên quan tới việc chọn luật tố
tụng cho trọng tài là việc xác định nơi
"tọa lạc của trọng tài" (arbitral seat) trong
quá trình xét xử tranh chấp. Về mặt lí
luận thì luật tố tụng trong trọng tài không
chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn hình thức
trọng tài nh đ đề cập ở trên mà nó còn
phụ thuộc vào học thuyết nơi tọa lạc (seat
theory) của trọng tài. Theo thuyết này thì
luật của nơi mà trọng tài tiến hành xét xử
tranh chấp sẽ chi phối hoạt động tố tụng
của trọng tài
(13)
. Nói cách khác, theo học
thuyết nơi tọa lạc thì trọng tài tiến hành
xét xử ở đâu thì sẽ áp dụng luật tố tụng
trọng tài ở nơi đó. Thuyết này đợc áp
dụng để xác định luật tố tụng cho trọng

tài trong trờng hợp nếu các bên không
thỏa thuận chọn luật tố tụng. Do đó, nh
đ trình bày ở trên, việc áp dụng thuyết
này để xác định luật áp dụng cho tố tụng
trọng tài quốc tế thờng xảy ra trong
trờng hợp các bên thành lập trọng tài ad
hoc. Thuyết "nơi tọa lạc của trọng tài"
không những đợc áp dụng trên thực tế
mà nội dung của thuyết này còn đợc ghi
nhận trong nhiều văn bản pháp lí quốc tế
quan trọng nh Công ớc New York 1958
về việc công nhận và thi hành các phán
quyết trọng tài nớc ngoài tại Điều III và
Điều VI (1.d) và tại Điều 16 của Bản quy
tắc trọng tài UNCITRAL.
Nh vậy, việc chọn luật cho tố tụng
trọng tài trớc tiên phải tuân thủ theo
nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của
các bên chủ thể. Nếu các bên không thỏa
thuận thì học thuyết "nơi tọa lạc của
trọng tài" sẽ đợc áp dụng để xác định
luật điều chỉnh tố tụng trọng tài thơng
mại quốc tế.
Tóm lại, vấn đề chọn luật áp dụng trong
xét xử của trọng tài thơng mại quốc tế là
một trong những vấn đề pháp lí quan
trọng của hoạt động thơng mại quốc tế,
nó bao gồm hai lĩnh vực đó là chọn luật
để trọng tài áp dụng cho việc xét xử tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên và

chọn luật tố tụng trọng tài. Trong cả hai
lĩnh vực này nguyên tắc tự do thỏa thuận
lựa chọn của các bên luôn đợc tôn
trọng, mặc dù trên thực tế việc chọn luật
tố tụng cho trọng tài thờng trực, trong
nhiều trờng hợp, còn bị hạn chế. Bên
cạnh sự giống nhau trong việc cùng áp
dụng nguyên tắc tự do thỏa thuận để
chọn luật áp dụng, việc chọn luật cho
(xem tiếp trang 11)







nghiªn cøu - trao ®æi
8 - T¹p chÝ luËt häc













×