Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Các điều kiện pháp lý nhằm đảm bảo tính minh bạch của thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.76 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ THỊ ÚT

CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁP LÍ NHẰM BẢO ĐẢM TÍNH
MINH BẠCH CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin gửi tới Ban giám hiệu, trường Đại học Luật Hà Nội; các
thầy giáo, cô giáo Khoa Pháp luật Kinh tế, Khoa sau Đại học và toàn thể các thầy cô
giáo trong trường Đại học Luật lời cảm ơn chân thành vì đã giảng dạy và giúp đỡ
tôi rất nhiều trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân, Giám đốc
Trung tâm Luật so sánh, trường Đại học Luật Hà Nội. Cô đã tận tình chỉ bảo, động
viên và nghiêm khắc trong việc hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi cũng xin cảm ơn toàn thể gia đình, bạn bè và những người đã


quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Kính chúc các thầy giáo, cô giáo, gia đình và các bạn luôn mạnh khỏe, thành
công và hạnh phúc.

Hà nội, ngày 23/05/2014
Tác giả luận văn

Hà Thị Út


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Mọi
thông tin, số liệu trong luận văn này đều trung thực và có trích dẫn nguồn tài liệu
đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu này chưa từng được công bố trong các tài
liệu khác

Tác giả luận văn

Hà Thị Út


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt

Nghĩa của từ

1


TTCK

Thị trường chứng khoán

2

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán nhà nước

3

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán

4

CBTT

Công bố thông tin

5

TTLKCK

Trung tâm lưu ký chứng khoán

6


BCTC

Báo cáo tài chính


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………...1
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………….1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………………………3
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………….4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………………….4
5. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………....4
6. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu……………………………………….4
7. Kết cấu của luận văn……………………………………………………………..5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TÍNH MINH BẠCH CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁP LÍ NHẰM BẢO ĐẢM TÍNH
MINH BẠCH CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Khái quát về tính minh bạch của TTCK…………………………………….6
1.1.1 Định nghĩa TTCK…………………………………………………………..6
1.1.2 Đặc điểm của TTCK……………………………………………………….6
1.1.2.1. Về đối tượng giao dịch của TTCK…………………………………………6
1.1.2.2 Về chủ thể tham gia TTCK…………………………………………………8
1.2.2.3 Về phương thức giao dịch trên TTCK tập trung…………………………....9
1.1.3 Khái quát về sự minh bạch của thị trường chứng khoán………………...9
1.1.3.1 Khái niệm minh bạch……………………………………………………….9
1.1.3.2 Khái niệm sự minh bạch của thị trường chứng khoán…………………….10
1.1.3.3 Các loại thông tin trên thị trường chứng khoán…………………………...11
1.1.3.4 Các tiêu chí đo lường mức độ minh bạch của thị trường chứng khoán……11
1.1.3.5 Vì sao thị trường chứng khoán cần sự minh bạch…………………………13
1.1.3.6 Vai trò của sự minh bạch trên thị trường chứng khoán……………………14

1.2 Các điều kiện pháp lí nhằm bảo đảm tính minh bạch của TTCK………...16
1.2.1 Khái niệm các điều kiện pháp lí nhằm bảo đảm

tính minh bạch của

TTCK……………………………………………………………………………...16
1.2.2 Pháp luật về công bố thông tin………………………………………………16
1.2.3 Pháp luật về kế toán, kiểm toán…………………………………………….18


1.2.4 Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực CBTT, kế toán và kiểm toán…..19
Tiểu kết chương 1…………………………………………………………………21
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG BỐ THÔNG
TIN, KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN, XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ CBTT,
KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN
2.1 Thực trạng pháp luật về công bố thông tin…………………………………22
2.1.1 Những thành công của pháp luật về công bố thông tin…………………..22
2.1.1.1 Các quy định pháp luật về công bố thông tin tương đối đầy đủ, toàn diện và
phù hợp với thông lệ quốc tế………………………………………………………22
2.1.1.2 Các quy định về đối tượng công bố thông tin được mở rộng……………..23
2.1.1.3 Loại hình CBTT và nội dung thông tin phải công bố chặt chẽ và hợp lý góp
phần nâng cao chất lượng của thông tin công bố………………………………....29
2.1.1.4 Pháp luật đã đa dạng hoá các phương tiện và hình thức công bố thông tin,
phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện nay……………………..37
2.1.2 Những bất cập của pháp luật công bố thông tin………………………….38
2.1.2.1 Một số quy định về nội dung báo cáo tài chính còn sơ sài……………….39
2.1.2.2 Quy định về phương tiện CBTT trên website còn sơ sài và chưa có chế tài
đối với hành vi vi phạm……………………………………………………………40
2.2 Thực trạng pháp luật về kế toán – kiểm toán………………………………41
2.2.1 Thành công của pháp luật kế toán – kiểm toán…………………………..41

2.2.1.1 Các quy định pháp luật về kế toán Việt Nam đã được xây dựng và ngày càng
hoàn thiện…………………………………………………………………………41
2.2.1.2 Pháp luật kiểm toán được xây dựng và hoàn thiện góp phần cho hoạt động
kiểm toán chuyên nghiệp hơn và nâng cao chất lượng kiểm toán………………..43
2.2.2 Bất cập của pháp luật về kế toán – kiểm toán……………………………50
2.2.2.1 Nhiều nội dung của Luật kế toán Việt Nam năm 2003 đã không còn phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế của nước ta hiện nay và bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế……………………………………………………………………………...50
2.2.2.2 Hệ thống 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam có nhiều điểm không tương thích
với Chuẩn mực kế toán quốc tế.................................................................................53


2.2.2.3 Quy định về kiểm toán nội bộ còn sơ sài, chưa phát huy được vai trò của
kiểm toán nội bộ một cách thỏa đáng trong thực tiễn…………………………….54
2.3 Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực công bố thông tin, kế
toán và kiểm toán…………………………………………………………………56
2.3.1 Thành công của pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực công bố thông
tin, kế toán và kiểm toán…………………………………………………………56
2.3.1.1 Chế tài xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật công bố
thông tin, kế toán và kiểm toán được quy định nghiêm khắc và chặt chẽ hơn……56
2.3.1.2 Chế tài hình sự được được xây dựng và hoàn thiện góp phần xử lý nghiêm
khắc các tội phạm về công bố thông tin………………………………………….59
2.3.2 Bất cập của pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực công bố thông tin,
kế toán và kiểm toán...............................................................................................62
2.3.2.1 Chế tài xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực pháp luật về công bố thông
tin trên thị trường chứng khoán chưa đủ mạnh…………………………………..62
2.3.2.2 Về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kế toán – kiểm toán chưa có chế tài hình
sự………………………………………………………………………………….62
2.3.2.3 Khó xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm là tổ chức trong lĩnh vực
công bố thông tin trên TTCK……………………………………………………..63

Tiểu kết chương 2………………………………………………………………..64
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÔNG BỐ THÔNG
TIN, KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN, XỬ LÝ VI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG BỐ THÔNG TIN, KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
3.1 Hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin…………………………………65
3.1.1 Cần có quy định chi tiết hơn về một số nội dung trong báo cáo tài
chính………………………………………………………………………………65
3.1.2 Bổ sung các quy định về CBTT trên website……………………………..66
3.2 Hoàn thiện pháp luật về kế toán và đưa chuẩn mực kế toán Việt Nam tiệm
cận với chuẩn mực kế toán quốc tế………………………………………………66
3.2.1 Hoàn thiện Luật kế toán năm 2003………………………………………….66


3.2.2 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực kế toán Việt Nam cho phù hợp
với chuẩn mực kế toán quốc tế……………………………………………………69
3.2.3 Xây dựng quy chế cho hoạt động kiểm toán nội bộ để góp phần nâng cao quản
trị doanh nghiệp, hạn chế những sai phạm trong hoạt động tài chính của doanh
nghiệp……………………………………………………………………………..69
3.3 Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực công bố thông tin, kế
toán – kiểm toán......................................................................................................69
3.3.1 Bổ sung chế tài hủy niêm yết đối với hành vi vi phạm pháp luật công bố thông
tin trên thị trường chứng khoán……………………………………………………70
3.3.2 Bổ sung quy định về tội phạm hình sự trong lĩnh vực kế toán – kiểm
toán…………………………………………………………………………………70
Tiểu kết chương 3…………………………………………………………………72
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..73


CHÚ THÍCH
(1)Xem


thêm:

/>
02.663050/2013-12-02.865831/2013-12-13.5524.11
(2) Hệ thống thị trường cơ bản của nền kinh tế thị trường bao gồm thị trường hàng
hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính
(trong đó thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính).
(3) Xem thêm: Giáo trình Luật chứng khoán, Đại học Luật Hà nội, năm 2008, tr.16.
(4) Xem thêm: TS. Đào Lê Minh, 2002, UBCKNN, Giáo trình chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
(5) Xem thêm: TS. Đinh Thị Mai Phương, 2011, Viện Khoa học pháp lí, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên thị
trường chứng khoán”.
(6) Xem thêm: TS. Nguyễn Thị Mỹ Dung, 2013, “Nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng
khoán của Việt Nam, một số điểm cần lưu ý”, Tạp chí Hội nhập và phát triển, số 08,
tháng 01-02/2013.
(7) Xem thêm VCCI và The Asean Foundation, 2011, “Thực tiễn tốt trong tăng
cường tính minh bạch của môi trường kinh doanh cấp tỉnh của Việt Nam”, tr.6.
(8) Tara Vishwanath & Daniel Kaufmann, 1999
(9) Xem thêm: Yeravan, May 2006, “Public disclosure and transparency”
(10) Farma 1965, trích trong “Bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán
Việt nam, thực trạng và giải pháp”, Đại học ngoại thương, năm 2009.
(11) Paul Samelson, William D.Nordhaus, 1948, Kinh tế học, tập 2, NXB thống kê,
tr.571.
(12) Xem thêm: Khoản 6, Điều 9, Luật doanh nghiệp năm 2005.
(13) Xem thêm: PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân, “Về điều kiện pháp lý nhằm đảm
bảo thị trường chứng khoán minh bạch”, Tạp chí luật học, số 11/2010, tr 57-64.
(14) Xem thêm: Nguyễn Thúy Anh, 2007, Đại học Ngoại thương, “Thông tin bất
cân xứng – Rủi ro tiềm ẩn”, Tạp chí tia sáng.

(15) Xem thêm: www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_vitintucsukien/
(16) Xem thêm: />

(17) Xem thêm: />(18) Xem thêm: www.vpaudit.vn/ArticlesDetail/864/874/607/tin-trong-nuoc/chatluong-bao-cao-tai-chinh-doanh-nghiep-6-thang-dau-nam-2013-hon-phan-nua-phaidieu-chinh-so-lieu-sau-kiem-toan.aspx
(19) Xem thêm: Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính, “Luật kế toán sửa đổi, bổ
sung: minh bạch, hiệu quả hoạt động tài chính, kinh tế”, ngày 8/7/2013.
(20) Xem thêm: Th.s Phan Dũng, Tạp chí phát triển và hội nhập, “Hoàn thiện hệ
thống pháp luật kế toán: Nâng cao chất lượng hoạt động kế toán – kiểm toán và hội
nhập quốc tế”, số 12, tháng 09-10/2013,tr.73
(21) Xem thêm: />(22) Xem thêm: htthp://www.sox-online.com/soxact.html
(23) Xem thêm: Trương Minh Huy, 2013, Sài Gòn đầu tư, “Khơi thông dòng chảy
thông tin”.
(24) Xem thêm: />(25) Xem thêm: TS. Trịnh Quốc Toản, 2011, Trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong pháp luật hình sự, NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, tr.41.


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thông qua
việc gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (năm 1998)
và tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới WTO (năm 2006). Về định hướng phát triển
kinh tế đất nước, Việt nam đang đặt mục tiêu xây dựng thành công nền kinh tế
thị trường vào năm 2020 (Đại hội Đảng XI năm 2011). Trong nền kinh tế thị
trường thì TTCK là một bộ phận quan trọng thị trường vốn. Vì vậy, Chính phủ
đang nỗ lực đẩy mạnh các biện pháp để hoàn thiện pháp luật, thúc đẩy phát
triển thị trường này. Ngày 1/3/2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định
252/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 20112020 với các giải pháp tổng thể, dài hạn nhằm phát triển TTCK ổn định, vững

chắc, tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp
vụ, bảo đảm thị trường hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn
trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế. Trong đó mục tiêu cụ thể là phấn
đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 70% GDP vào năm
2020; đưa thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn
quan trọng cho phát triển kinh tế. Để thực hiện Chiến lược đó phải ghi nhận nỗ
lực mạnh mẽ trong ba năm qua 2011, 2012, 2013, Bộ Tài chính có nhiều thành
tựu về xây dựng pháp luật chứng khoán tạo hành lang pháp lý cho TTCK vận
hành.
Bối cảnh phát triển của TTCK Việt nam còn non trẻ với 14 năm hoạt động
so với lịch sử vài trăm năm của các TTCK lớn trên thế giới. Theo thống kê của
UBCKNN quy mô của TTCK Việt nam năm 2010 thể hiện qua các con số cụ
thể:
-

Số mã chứng khoán là 631

-

Giá trị vốn hóa thị trường là trên 700.000 tỷ VND (40% GDP)

-

Số lượng công ty chứng khoán là 105 công ty

-

Số lượng công ty quản lý quỹ là 47 công ty



2

-

Số lượng văn phòng đại diện là 31 văn phòng

-

Số tài khoản giao dịch là trên 1 triệu tài khoản (trong đó có trên 4000 tài
khoản của tổ chức)

Tính tới cuối năm 2013, theo UBCKNN, trên TTCK có 689 công ty niêm yết và
474 loại trái phiếu niêm yết, giá trị vốn hóa thị trường đạt 964 nghìn tỷ đồng,
bằng 31% GDP.(1) Như vậy, TTCK nước ta đã đạt được những kết quả nhất
định trong thời gian qua và trở thành một trong những thị trường quan trọng
trong hệ thống các thị trường cơ bản của nền kinh tế, có tác động to lớn không
chỉ đến đời sống kinh tế mà cả đời sống xã hội.(2) Tuy nhiên, để đạt được mục
tiêu năm 2020 là cả nỗ lực dài của cả nền kinh tế. Trong khi đó, từ năm 2010
đến nay, cùng với tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu nên tốc độ phát
triển của TTCK Việt Nam cũng gần như bị chững lại. Có nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó mức độ minh bạch thấp của TTCK Việt Nam là một trong
những rào cản lớn đối với sự phát triển của thị trường này. Vì vậy, nhiều nhà
đầu tư trong nước sau năm 2007, năm 2008 (những năm thịnh vượng của TTCK
Việt Nam) đã rút ra khỏi thị trường, mất dần niềm tin với TTCK. Trong khi đó,
nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vốn vào TTCK Việt nam nhưng khó tiếp
cận thông tin, khi có báo cáo tài chính trong tay cũng khó đoán biết được giá trị
của doanh nghiệp hay diễn biến của thị trường bởi lẽ các cách thức lập báo cáo
tài chính của các doanh nghiệp Việt nam so với doanh nghiệp nhiều nước trên
thế giới vẫn còn một khoảng cách lớn. Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu minh
bạch thông tin, cả trên bình diện kinh tế vĩ mô và vi mô đang được đặt ra một

cách bức bách. Chỉ một chữ minh bạch cũng có thể quyết định sự sống còn,
tương lai phát triển của TTCK, thậm chí của cả nền kinh tế.
Vì những lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Các điều kiện pháp lí nhằm
bảo đảm tính minh bạch của thị trường chứng khoán” để làm luận văn tốt
nghiệp bậc đào tạo thạc sỹ luật học nhằm tìm ra các giải pháp pháp lí nâng cao
tính minh bạch của TTCK Việt Nam.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này có một số công trình nghiên cứu có liên quan đã
được công bố trước đây như:
- PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân, 2010, “Về điều kiện pháp lí nhằm bảo đảm
TTCK minh bạch”, Tạp chí Luật học, số 11/2010, tr57 – 64.
- PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân, “Chế độ công bố thông tin theo Luật chứng
khoán năm 2006”, Tạp chí luật học, số 8/2006.
- Th.s Viên Thế Giang, 2008, Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, “Pháp luật về công
bố thông tin trên TTCK Việt nam”.
- CN Lê Trường Vinh, 2008, Đại học Kinh tế TP.HCM, “Minh bạch thông tin
các công ty niêm yết”.
Tuy nhiên có thể nhận thấy các quy định pháp luật được phân tích, mổ xẻ
trong các công trình nghiên cứu trên tới nay thì quy định pháp luật có nhiều
thay đổi. Đặc biệt từ năm 2011, nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội hình thành trong hoạt động công bố thông tin, kế toán, kiểm toán đã
được ban hành như: Luật kiểm toán độc lập năm 2011, nghị định 17/2012/NĐCP hướng dẫn chi tiết Luật kiểm toán độc lập, Thông tư 214/2013/TT-BTC ban
hành mới 37 chuẩn mực kiểm toán, Thông tư 52/2012/TT-BTC về công bố
thông tin trên TTCK, Thông tư liên tịch số 10/2013/ TTLT-BTP-BCATANDTC-VKSNDTC-BTC quy định chi tiết Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật
hình sự năm 2009. Tất cả đã tạo nên những thay đổi lớn trong mảng pháp luật
nhằm cải thiện mức độ minh bạch của TTCK Việt nam. Tuy nhiên cũng có

công trình chỉ tiếp cận một khía cạnh của pháp luật là mà đề tài này nghiên cứu,
(chỉ giới hạn trong chế độ công bố thông tin trên TTCK). Vì vậy, công trình
nghiên cứu này sẽ bàn tới các điều kiện pháp lí nhằm bảo đảm tính minh bạch
của TTCK Việt nam bao quát không chỉ có nội dung pháp luật về công bố thông
tin mà còn nghiên cứu cả pháp luật về kế toán – kiểm toán cũng như các quy
định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực CBTT, kế toán và kiểm toán,
góp phần nâng cao tính minh bạch của TTCK nước ta hiện nay. Nói như vậy
không có nghĩa là phủ nhận thành quả của người đi trước. Trên thực tế, các


4

công trình nghiên cứu trên là những nguồn tài liệu tham khảo hữu ích, gợi mở
nhiều ý tưởng cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và thực
trạng pháp luật về các điều kiện pháp lí (pháp luật về công bố thông tin, pháp
luật kế toán – kiểm toán, pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực CBTT, kế
toán – kiểm toán) để nâng cao tính minh bạch của TTCK; từ đó tác giả đưa ra
các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về CBTT, về
kế toán và kiểm toán.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ của luận văn này bao gồm:
Làm rõ các vấn đề lí luận về tính minh bạch của TTCK. Đồng thời xác định
các điều kiện pháp lí có ảnh hưởng quyết định đến tính minh bạch của TTCK:
pháp luật về công bố thông tin, pháp luật về kế toán – kiểm toán, pháp luật về
xử lý vi phạm về CBTT, kế toán – kiểm toán. Sau đó, tôi tiến hành phân tích,
đánh giá những thành công và bất cập của pháp luật về công bố thông tin, kế
toán – kiểm toán, xử lý vi phạm pháp luật về CBTT, kế toán – kiểm toán. Với
những bất cập của pháp luật đã tìm thấy, tôi có tham khảo kinh nghiệm tương

ứng của pháp luật nước ngoài để đưa ra những phương hướng hoàn thiện pháp
luật trong nước.
5. Phạm vi nghiên cứu
Vì giới hạn số trang của luận văn tốt nghiệp bậc đào tạo thạc sỹ luật học,
luận văn chỉ nghiên cứu ba điều kiện pháp lí là pháp luật về công bố thông tin,
pháp luật về kế toán – kiểm toán, và pháp luật về xử lý vi phạm những lĩnh vực
trên. Đối với điều kiện pháp lí thứ tư để bảo đảm tính minh bạch của TTCK là
pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy cưỡng chế thi hành pháp luật chứng
khoán là một vấn đề lớn, khó có thể gộp lại để nghiên cứu một cách trọn vẹn
trong luận văn này.
6. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.


5

Luận văn này được nghiên cứu dựa trên nền tảng lí luận, các nguyên tắc và
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; cùng
những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát
triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Các phương pháp được sử dụng để hoàn thành luận văn này là phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử để tìm hiểu những vấn đề lí
luận về tính minh bạch của TTCK ở chương 1. Phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử được tác giả sử dụng để phân tích quy
phạm pháp luật và đưa ra các đánh giá, kết luận ở chương 2 và chương 3.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của Luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ,
phạm vi nghiên cứu của đề tài. Ngoài lời cảm ơn, danh mục từ viết tắt, mục lục,
lời nói đầu, tiểu kết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba
chương:
Chương 1: Khái quát về tính minh bạch của TTCK và các điều kiện pháp lí

nhằm bảo đảm tính minh bạch của TTCK.
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt nam về công bố thông tin, kế toán – kiểm
toán, xử lý vi phạm pháp luật về CBTT, kế toán, kiểm toán.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin, kế toán – kiểm
toán, xử lý vi phạm pháp luật về công bố thông tin, kế toán – kiểm toán.


6

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TÍNH MINH BẠCH CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁP LÍ NHẰM BẢO ĐẢM
TÍNH MINH BẠCH CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.

Khái quát về tính minh bạch của TTCK

1.1.1. Định nghĩa TTCK
“TTCK là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi chứng khoán”.(3)
Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ
chứng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì TTCK là nơi tập trung và phân
phối các nguồn vốn tiết kiệm.(4) Như vậy, TTCK được hiểu là nơi, địa điểm để
tiến hành việc mua bán các loại chứng khoán. Địa điểm này thường diễn ra chủ
yếu tại các Sở giao dịch chứng khoán, một phần ở trụ sở các công ty chứng
khoán (môi giới) và cả thị trường chợ đen. Đối với thị trường chợ đen thì không
có địa điểm cố định, đó có thể bất kỳ nơi nào mà người bán và người mua gặp
nhau và tiến hành giao dịch trực tiếp. Ngay cả với SGDCK thì cũng có trường
hợp khó xác định vị trí địa lý đó là khi thực hiện phương thức giao dịch qua
mạng toàn cầu. Trong đề tài nghiên cứu các điều kiện pháp lí nhằm bảo đảm
tính minh bạch của TTCK thì TTCK được hiểu là hoạt động mua bán chứng

khoán tại TTCK chính thức, các Sở giao dịch chứng khoán.
1.1.2. Đặc điểm của TTCK
TTCK có những nét đặc thù, về đối tượng giao dịch trên TTCK, chủ thể
tham gia thị trường và phương thức giao dịch trên TTCK tập trung. Những đặc
thù này sẽ tác động lớn đến các điều kiện pháp lí bảo đảm tính minh bạch của
TTCK.
1.1.2.1. Về đối tượng giao dịch của TTCK
Trên TTCK lưu hành một loại hàng hóa đặc biệt là các loại chứng khoán.
Theo khoản 1, Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung
Luật chứng khoán năm 2010, “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và
lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức
phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi


7

sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền
chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; c)
Hợp đồng góp vốn đầu tư; d) Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy
định.”
Có thể nhận thấy hàng hóa trên được mua bán trao đổi trên TTCK chỉ là
giấy tờ có giá, không phải là sản phẩm vật chất cung cấp trên thị trường hàng
hóa thông thường như: café, cao su, gạo, vàng…cũng không phải thị trường
cung cấp dịch vụ như thị trường bảo hiểm, thị trường dịch vụ tiền tệ, tín dụng
và ngân hàng,… Đồng thời các phương thức giao dịch hàng hóa này trên thị
trường tập trung cũng có điểm riêng biệt là khớp lệnh trực tiếp. Vì vậy, biến
động giá cả cũng như giao dịch diễn ra nhanh chóng. Mặt khác, bản thân chứng
khoán không hề có công năng, nó chỉ là một loại chứng thư mà dù có quan sát
kỹ lưỡng chứng khoán định mua, người mua khó có thể hiểu được giá trị thực

chất của chứng khoán nếu thiếu các thông tin cần thiết. Vì vậy, người ta có thể
lợi dụng việc thiếu thông tin của người mua để bán đi chứng khoán ế ẩm sau khi
dùng thông tin giả tạo để thổi phồng giá trị của chứng khoán đó. Đó là lí do
khẳng định hàng hóa trên TTCK đặc biệt.(5)
Hơn nữa, có ý kiến cho rằng có nhiều nhân tố tác động tới sự hình
thành và biến động giá cả chứng khoán như: nhân tố nội sinh, những nhân tố
ngoại sinh và một số nhân tố ảnh hưởng khác. Nhân tố nội sinh tạo nên giá
chứng khoán bao gồm giá trị hữu hình (ví dụ như bất động sản, tiền mặt), giá trị
vô hình (như thương hiệu, uy tín của công ty), tình hình năng lực tài chính, xu
thế hoạt động của công ty niêm yết. Nhân tố ngoại sinh bao gồm: chu kỳ phát
triển kinh tế, lạm phát, thiểu phát, thiên tai, chiến tranh, hòa bình…Những nhân
tố ảnh hưởng khác bao gồm: hoạt động đầu cơ, móc ngoặc, lũng đoạn chứng
khoán, cung cầu chứng khoán giả tạo làm sai lệch giá chứng khoán, các chính
sách can thiệp của Nhà nước, sự biến động giá của TTCK thế giới cũng ảnh
hưởng đến giá chứng khoán trong nước.(6) Những nhân tố này không ngừng
biến đổi và tác động qua lại từng ngày tạo nên những biến động không ngừng


8

của giá chứng khoán. Chỉ cần có một thông tin thuộc một trong ba nhóm nhân
tố trên cũng làm biến động giá chứng khoán, có thể tăng giá hoặc rớt giá rất
nhanh. Vì vậy, TTCK là thị trường thông tin và vô cùng nhạy cảm với các loại
thông tin tài chính, đặc biệt là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Với đặc
trưng đó nên vấn đề minh bạch thông tin có vai trò vô cùng quan trọng trên
TTCK.
TTCK Việt Nam, một thị trường còn rất non trẻ trình độ hiểu biết về
các báo cáo tài chính, các quy định tài chính còn rất hạn chế. Điều kiện minh
bạch hóa thông tin và các báo cáo tài chính càng trở nên quan trọng đối với sự
phát triển của thị trường. Vậy nên, một trong những mục tiêu của pháp luật về

chứng khoán là tạo ra hành lang pháp lý về công bố thông tin đầy đủ, chặt chẽ
giúp thông tin trên TTCK đáp ứng được yêu cầu của công chúng đầu tư và sự
quản lý của nhà nước.
1.1.2.2 Về chủ thể tham gia TTCK
Chủ thể tham gia TTCK bao gồm:
- Người phát hành: là những người muốn huy động vốn trên thị trường
bằng cách phát hành và bán chứng khoán. Bao gồm: Chính phủ, các công ty,
chính quyền các địa phương.
- Người đầu tư: là những người có vốn và muốn đầu tư bằng cách mua
chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ chức tài
chính phi ngân hàng, quỹ bảo hiểm, công ty…
- Các nhà môi giới và các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán khác:
công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ.
- Người tổ chức thị trường: thường được gọi tên là Sở giao dịch chứng khoán.
- Người điều tiết quản lý thị trường: UBCKNN hoặc các cơ quan có tên
gọi khác, tùy theo pháp luật của từng nước quy định.
Trên TTCK, mọi người đều tự do tham gia vào thị trường. Trong các chủ
thể tham gia TTCK, nhà đầu tư chiếm số lượng đông nhất, với nhiều trình độ
văn hóa khác nhau, thuộc mọi thành phần trong xã hội. Nhà đầu tư đóng vai trò
là bên người mua - người có tài sản nhàn rỗi nên có nhu cầu đầu tư để sinh lợi.


9

Người mua có thể tự mình hoặc thông qua bên trung gian để mua chứng khoán
trên TTCK. Bên trung gian có thể là các công ty chứng khoán, công ty quản lý
quỹ. Bên bán là các nhà phát hành. Điều này có liên quan đến chế độ công bố
thông tin trên TTCK. Bởi lẽ nhà đầu tư chiếm số lượng lớn, không bị giới hạn ở
quốc gia, vùng lãnh thổ nào nên phải có các phương thức công bố thông tin phù
hợp để các nhà đầu tư đều có thể tiếp cận được các thông tin về các doanh

nghiệp có chứng khoán một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất. Trường hợp nhà
đầu tư tham gia TTCK qua trung gian thì phải có những quy định pháp lý ràng
buộc bên trung gian cung cấp thông tin cần thiết cho quyết định đầu tư. Việc
minh bạch thông tin các chủ thể tham gia TTCK nói chung và của tổ chức phát
hành chứng khoán nói riêng thực chất là để bảo vệ nhà đầu tư và duy trì sự vận
hành hiệu quả của TTCK. Bởi lẽ, nếu không có tính minh bạch thì nhà đầu tư sẽ
rút lui khỏi TTCK do mất lòng tin vào thị trường, khi đó TTCK sẽ sụp đổ vì
thiếu khách hàng, một loại chủ thể quan trọng trên TTCK.
1.1.2.3 Về phương thức giao dịch trên TTCK tập trung
Phương thức thức giao dịch trên TTCK tập trung là khớp lệnh trực tiếp
tiến hành qua Sở giao dịch chứng khoán trên thực tế hoặc trên mạng internet
toàn cầu nên giao dịch diễn ra rất nhanh, mỗi lệnh mua bán diễn ra chỉ trong vài
giây. Vậy nên diễn biến của thị trường giao dịch luôn luôn có sự biến động, có
khi giá chứng khoán đảo chiều bất ngờ trong từng phiên giao dịch. TTCK là thị
trường thông tin. Thông tin ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động của thị trường
này. Vì vậy, pháp luật về chế độ công bố thông tin đặt ra yêu cầu phải có quy
định tạo ra cơ chế cung cấp thông tin của các chủ thể tham gia thị trường này
một cách đầy đủ, nhanh chóng nhất để nhà đầu tư có thể ra các quyết định đầu
tư đúng đắn.
1.1.3. Khái quát về sự minh bạch của thị trường chứng khoán
1.1.3.1 Khái niệm minh bạch
Minh bạch là chủ đề được quan tâm nhiều nhất hiện nay trong quản lý và
vận hành của các lĩnh vực khác nhau ở các quốc gia cũng như trên phạm vi
toàn cầu (về chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội). Minh bạch được coi là


10

lợi thế cạnh tranh của quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Hiện nay
chưa có một khái niệm thống nhất về minh bạch. Sau đây tác giả trình bày một

số cách hiểu về minh bạch theo tổng hợp của nhóm nghiên cứu của Phòng công
nghiệp và thương mại Việt nam (VCCI) và The Asia Foundation.(7)
Theo từ điển Oxford English Dictiontary, nghĩa Anh cổ của từ minh bạch
là “có tính chất truyền tải ánh sáng và như vậy làm cho những sự vật hiện tượng
phía bên kia có thể được nhìn thấy một cách rõ ràng”. Hầu hết các từ điển hiện
nay mô tả minh bạch bao gồm “sự thật thà, ngay thẳng, không thiên vị”, nhưng
minh bạch không có sự “lừa gạt, lừa đảo, thủ đoạn và sự xảo trá”. Như vậy,
minh bạch là cho phép mọi người nhìn thấy sự thật mà không hề che đậy, hoặc
bị làm mờ đi, hay gây nhiễu. Minh bạch làm cho quan sát sự vật, hiện tượng
một cách chính xác và dễ dàng hơn.
Khái niệm minh bạch trong lĩnh vực kinh tế - tài chính được hiểu như
sau: Minh bạch “mô tả việc gia tăng luồng thông tin kinh tế, chính trị, xã hội
kịp thời; về việc sử dụng khoản vay của các nhà đầu tư cá nhân và uy tín về khả
năng trả nợ của những người đi vay; về chính sách cung cấp dịch vụ, tiền tệ và
tài khóa của chính phủ, cũng như về những hoạt động của những tổ chức quốc
tế. Ngược lại việc thiếu minh bạch có thể được mô tả khi một người – cố ý từ
chối không có tiếp cận thông tin hoặc làm sai lệch thông tin hoặc không bảo
đảm rằng thông tin được cung cấp có mối liên quan đầy đủ hoặc có chất
lượng”.(8) Như vậy, minh bạch không chỉ là số lượng thông tin mà còn ở nội
dung, phạm vi, độ chính xác, và kịp thời của thông tin kinh tế, chính trị xã hội
mà các đối tượng như người dân, doanh nghiệp, chính phủ có thể tiếp cận một
cách dễ dàng.
Từ những cách hiểu trên có thể thấy khái niệm minh bạch được xem xét
ở hai khía cạnh: một là, khả năng tiếp cận thông tin (một cách phù hợp, kịp thời,
chất lượng); hai là, quyền và cơ hội được giám sát và phản biện của người dân
và các chủ thể liên quan đối với những thông tin mà họ quan tâm.
1.1.3.2 Khái niệm sự minh bạch của thị trường chứng khoán


11


Sự minh bạch trên thị trường chứng khoán được thể hiện chủ yếu ở minh
bạch thông tin. Minh bạch thông tin là sự công bố thông tin kịp thời và chính
xác, cho phép những người sử dụng thông tin đó có thể đánh giá chính xác về
tình hình và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp phát hành,
hoạt động kinh doanh và rủi ro liên quan đến các hoạt động này.(9) Như vậy sự
minh bạch thông tin của TTCK là thị trường luôn có sẵn thông tin, thông tin đó
phải trung thực, chính xác và nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin dễ dàng, kịp
thời.
1.1.3.3 Các loại thông tin trên thị trường chứng khoán
Các loại thông tin trên thị trường chứng khoán bao gồm:
Thông tin từ doanh nghiệp: hiện nay, các loại hình doanh nghiệp phải có
nghĩa vụ CBTT theo quy định gồm có công ty đại chúng, công ty niêm yết, tổ
chức phát hành. Đây là nguồn thông tin cơ bản, quan trọng nhất đối với TTCK.
Thông tin của doanh nghiệp phản ánh được diễn biến tình hình hoạt động của tổ
chức niêm yết, nhất là thông tin tài chính. Loại thông tin này có đặc điểm là
thường rõ ràng, chi tiết và bảo đảm độ tin cậy thông qua các báo cáo thường
niên đã được kiểm toán. Thông tin từ doanh nghiệp bao gồm cả thông tin về cổ
đông lớn, cổ đông nội bộ và người có liên quan. Tuy vậy, nguồn thông tin này
có những hạn chế như: dễ làm lộ bí mật kinh doanh của tổ chức niêm yết; nhà
quản trị công ty thường lạm dụng quyền của mình để cản trở việc CBTT ra các
phương tiện thông tin đại chúng.
Thông tin từ Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ gồm những
thông tin tài chính của công ty…
Thông tin từ Trung tâm lưu ký chứng khoán bao gồm thông tin về cấp,
thu hồi Giấy chứng nhận thành viên lưu ký, hủy đăng ký chứng khoán, cấp mã
số giao dịch cho nhà đầu tư nước ngoài…
Thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước về quản lý thị trường chứng khoán, các
Sở giao dịch chứng khoán. SGDCK công bố thông tin về khối lượng giao dịch chứng
khoán của thị trường; giá, khối lượng và giá trị giao dịch thực hiện của từng loại chứng

khoán;… Ngoài ra, SGDCK còn cung cấp những thông tin liên quan đến chính sách,


12

pháp luật đối với TTCK. Những thông tin này mang tính liên tục và cập nhật về diễn
biến thị trường chứng khoán.
1.1.3.4 Các tiêu chí đo lường mức độ minh bạch của thị trường chứng khoán
Theo Tara Vishwanath & Daniel Kaufmann (1999), tính minh bạch bao
gồm các thuộc tính sau: khả năng tiếp cận của thông tin, tính liên quan của
thông tin, chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin. Khả năng tiếp cận thông
tin: Trên nguyên tắc, luật lệ và các quy định bảo đảm rằng thông tin phải có sẵn
để cung cấp đến tất cả những người quan tâm và thông tin cũng phải có khả
năng tiếp cận dễ dàng. Điều này được thực hiện qua các tổ chức, các phương
tiện thông tin thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin như báo chí, phát thanh,
truyền hình, bảng công bố thông tin, Internet, phát biểu bằng lời nói. Tính liên
quan của thông tin: Thông tin phải bảo đảm tính liên quan, tức là đáp ứng nhu
cầu thông tin của người có nhu cầu. Đây là một việc khó khăn vì thông tin
mang tính chủ quan. Chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin: Thông tin
phải đáng tin cậy, đầy đủ, không thiên vị, nhất quán và được trình bày rõ ràng,
đơn giản. Những chuẩn mực đối với chất lượng thông tin phải được bảo đảm ,
có thể thẩm tra bởi những tổ chức trung gian hoặc kiểm toán bên ngoài hoặc
những tổ chức tạo lập ra chuẩn mực tin cậy của thông tin.
Trên cơ sở các tiêu chí đó, các tiêu chí đánh giá mức độ minh bạch thông
tin trên TTCK tương tự, cụ thể là:
Về khả năng tiếp cận thông tin trên TTCK yêu cầu thông tin trên TTCK
phải có phải được công bố trên các phương tiện công bố thông tin phù hợp bảo
đảm khả năng tiếp nhận được thông tin trên TTCK của các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu. Các phương tiện đó có thể là trang web điện tử của công ty đại chúng,
công ty chứng khoán và các tổ chức khác, bảng tin chính thức của Sở giao dịch

chứng khoán, UBCKNN.
Về tính liên quan của thông tin đòi hỏi trên các thông tin được công bố
phải đúng với những quy định của pháp luật về các nội dung phải công bố
thông tin hoặc thông tin trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Vì rằng những thông tin mà pháp luật quy định yêu cầu phải công bố đã hàm


13

chứa yếu tố có liên quan ví dụ như công bố các báo cáo tài chính là thông tin
liên quan. Nếu việc CBTT của các chủ thể có nhiều nhưng không các thông tin
liên quan thì không có giá trị sử dụng với nhà đầu tư.
Về chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin đòi hỏi thông tin trên TTCK
trước tiên là các báo cáo tài chính phải được công bố đầy đủ. Đồng thời, các
báo cáo tài chính này cũng phải qua quá trình kiểm toán khách quan, trung thực
bởi những tổ chức kiểm toán có uy tín.
1.1.3.5 Vì sao thị trường chứng khoán cần sự minh bạch.
Thứ nhất, Farma – cha đẻ của lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng yếu tố
minh bạch là một trong những điều kiện cần thiết cho một thị trường tự do có hiệu
quả. “Một thị trường tài chính được coi là hiệu quả khi và chỉ khi toàn bộ các thông
tin sẵn có về một tài sản tài chính được giao dịch trên thị trường đó được phản ánh
tức thì vào giá của nó”.(10) Như vậy, yếu tố minh bạch thông tin là yêu cầu quan
trọng để TTCK giá của chứng khoán thể hiện được giá trị thực tế của doanh nghiệp
với tình hình tài chính kế toán. Hạn chế tình trạng trong thời gian vừa qua, mặc dù có
nhiều doanh nghiệp làm ăn tốt, chỉ số tài chính kế toán vẫn tốt nhưng giá chứng
khoán thì sụt giảm nghiêm trọng.
Thứ hai, Luật chứng khoán năm 2006 quy định công khai minh bạch là nguyên
tắc vận hành của TTCK. Nếu không bảo đảm yếu tố này thì TTCK sẽ sụp đổ.
Thứ ba, theo nhà kinh tế học Sammelson (2007) thì một trong những
khuyết tật của nền kinh tế thị trường là thông tin không hoàn hảo. Nghĩa là theo

lý thuyết bàn tay vô hình giả định rằng người mua và người bán có đầy đủ
thông tin về hàng hóa, dịch vụ mà họ sẽ mua hoặc sẽ bán. Tuy nhiên, thực tế
khác xa với giả định này và thông tin không hoàn hảo gây ra nhiều nguy
hại.(11) Với những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần can
thiệp và có những biện pháp để hạn chế khuyết tật đó. Vì vậy, pháp luật chứng
khoán quy định về chế độ công bố thông tin trên thị trường chứng khoán góp
phần vào việc công bố thông tin của các chủ thể tham gia thị trường có nề nếp
và trật tự. Từ đó duy trì yếu tố thông tin có thể đạt tới mức độ tốt nhất với


14

những thông tin phải được cập nhật, công bố kịp thời cho cả người bán và
người mua.
Thứ tư, do đặc thù về hàng hóa trên TTCK là chứng khoán. Như đã phân
tích ở phần trên, chứng khoán là hàng hóa đặc biệt, giá cả của nó phụ thuộc
nhiều vào yếu tố thông tin, đặc biệt là thông tin về tình hình sản xuất kinh
doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy minh bạch thông tin là cơ
sở để thúc đẩy các giao dịch trên thị trường này, đồng thời thu hút công chúng
gia nhập thị trường chứng khoán.
1.1.3.6 Vai trò của sự minh bạch trên thị trường chứng khoán
a. Thị trường chứng khoán minh bạch giúp bảo vệ lợi ích và gia tăng niềm tin
của nhà đầu tư
Cổ đông – những người góp vốn vào doanh nghiệp, với tư cách là một
người chủ sở hữu của doanh nghiệp, cổ đông của công ty hoàn toàn có quyền
biết rõ tình trạng doanh nghiệp của mình. Khi các doanh nghiệp này đã được
niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thì câu chuyện không chỉ dừng lại ở
những người chủ sở hữu mà còn liên quan tới những nhà đầu tư khác. Nhà đầu
tư trên TTCK đóng vai người mua, còn doanh nghiệp là người bán. Người mua
khi mua bất kỳ hàng hóa nào đều muốn tìm hiểu rõ ràng về hàng hoá mình định

mua. Vì vậy, nhà đầu tư chứng khoán – những người luôn mong chờ và tìm
kiếm thông tin liên quan đến mã chứng khoán mà mình sẽ đầu tư hoặc quan tâm
để đưa ra các quyết định đầu tư thông minh nhất. Những thông tin chậm công
bố, công bố sai rồi đính chính lại… của doanh nghiệp sẽ gây thiệt hại kinh tế
cho tất cả các nhà đầu tư tham gia thị trường. Việc sở hữu một mã cổ phiếu mà
việc tìm kiếm thông tin chính thức ít ỏi, chỉ là tin đồn trên thị trường thì cổ đông nắm
giữ cổ phiếu này ổn định được bao lâu? Vì vậy, pháp luật về công bố thông tin có tác
dụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, duy trì niềm tin của họ trên
TTCK.
Trong bối cảnh TTCK trầm lắng như hiện nay do nền kinh tế khủng hoảng kéo
dài thì yếu tố minh bạch càng có nhiều ý nghĩa, có tác dụng cải thiện lòng tin của nhà
đầu tư đối với thị trường CK Việt nam. Đối với các nhà đầu tư quốc tế, họ đang sẵn


15

dòng tiền, đang tìm kiếm thị trường để đầu tư, TTCK Việt nam có thể là một lựa chọn
sinh lợi cao, tuy vậy, họ còn e ngại yếu tố minh bạch khi việc tìm kiếm các thông tin
về công ty đại chúng rất khó khăn và thông tin lại không đáng tin cậy (nhiều báo cáo
tài chính sai lệch trước và sau kiểm toán). Vì vậy, nếu TTCK đạt được mức độ minh
bạch nhất định sẽ thu hút được nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị
trường.
b. Thị trường chứng khoán minh bạch tăng cường lợi ích của chính doanh nghiệp
Ở góc độ của doanh nghiệp thì công bố thông tin là nghĩa vụ phải thực hiện với
nhà nước và xã hội (cụ thể là với nhà đầu tư và với cộng đồng).(12) Đối với các doanh
nghiệp có nhu cầu vốn lớn để phát triển, có nhu cầu hợp tác với các đối tác quốc tế thì
sự minh bạch thông tin của doanh nghiệp đặc biệt quan trọng. Có quan điểm cho rằng:
sự minh bạch của doanh nghiệp là một thứ tài sản rất có giá trị đối với bản thân doanh
nghiệp. Nếu không minh bạch, khó có thể tạo niềm tin với các đối tác làm ăn. Đa số
các doanh nghiệp Việt nam vẫn rất cần vốn để đầu tư, thực hiện các dự án. Trong khi

đó, vốn trong nước khó đáp ứng được do thời gian dài trong quá khứ, nước ta bị chiến
tranh và có nền tảng kinh tế nông nghiệp là chính. Các doanh nghiệp phải nhờ đến vốn
nước ngoài. Nhưng một khi muốn kêu gọi vốn từ nước ngoài, doanh nghiệp phải tôn
trọng luật chơi của họ, đáp ứng các yêu cầu của họ. Đó là phải công khai, minh bạch
thông tin. Doanh nghiệp phải thuyết phục và phải chứng minh cho nhà đầu tư thấy,
đồng vốn họ bỏ ra là an toàn, có khả năng sinh lợi. Không minh bạch, các cổ đông và
các nhà đầu tư sẽ không tin tưởng vào doanh nghiệp trong việc quản lý đồng vốn của
họ. Nói tóm lại, muốn phát triển mạnh và bền vững, doanh nghiệp phải tôn trọng tính
minh bạch.
c. Minh bạch giúp quản lý hiệu quả TTCK
Thị trường chứng khoán là công cụ để đo mức độ phát triển của nền kinh tế mỗi
quốc gia. Vì vậy, yêu cầu quản lý của Nhà nước đặt ra với thị trường này phải vô cùng
chặt chẽ và linh hoạt. Khi yếu tố minh bạch được nâng cao thì cơ quan quản lý nhà
nước (Ủy ban chứng khoán Nhà nước) quản lý các công ty đại chúng dễ dàng hơn về:
quy mô vốn, ngành nghề kinh doanh, lực lượng lao động đặc biệt là tình hình tài
chính, nộp thuế... của các công ty đại chúng.


×