Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.58 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ TUẤN ĐẠT

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất đến các thầy
cô giáo khoa Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là cô
giáo Ts. Trần Thị Thúy Lâm đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Mọi trích dẫn trong luận
văn đều được ghi rõ nguồn.
Luận văn chắc chắn sẽ còn những thiếu xót cả về nội dung và hình thức,
rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy cô để luận văn có thể được hoàn


thiện hơn.
Tôi xin chân trọng cảm ơn!
Tác giả
Vũ Tuấn Đạt


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
MỤC LỤC ....................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................................
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
1.1. Khái niệm và một số điểm phân biệt giữa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ..5
1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ...........................................5
1.1.2. Một số điểm phân biệt giữa tai nạn lao động với bệnh nghề nghiệp ..........8
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
...................................................................................................................................10
1.2.1. Khái niệm chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ..............10
1.2.2. Ý nghĩa của chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp............11
1.3. Nguyên tắc thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp .....12
1.3.1. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải đảm bảo sự
công bằng, bình đẳng ...........................................................................................12
1.3.2. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trên cơ sở cân đối
mức đóng và hưởng bảo hiểm, kết hợp với nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” ...13
1.3.3. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải đảm bảo mức
trợ cấp không được cao hơn mức tiền lương khi đang làm việc, nhưng không
được thấp hơn mức bảo hiểm tối thiểu do Nhà nước quy định ...........................13
1.3.4. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải được Nhà

nước thống nhất quản lý.......................................................................................14
1.4. Điều chỉnh pháp luật về chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp .14
1.4.1. Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ...................................................................................................................15
1.4.2. Các chế độ và mức hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 17
1.4.3. Thủ tục hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ...................21
1.4.4. Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ....................................21
1.5. Sơ lược lịch sử phát triển của chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam ....................................................................................................23
1.5.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 .......................................................23
1.5.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1994 .......................................................24
1.5.3. Giai đoạn từ năm 1994 đến nay .................................................................25


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1. Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ..29
2.1.1. Đối tượng hưởng bảo hiểm ........................................................................29
2.1.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm .........................................................................30
2.2. Các chế độ và mức hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ........36
2.3. Thủ tục hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ...........................43
2.4. Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ............................................47
Chƣơng 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở
Việt Nam ...................................................................................................................52
3.1.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm

tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam..................................................52
3.1.2. Một số kiến nghị ........................................................................................55
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam ........................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................
PHỤ LỤC .....................................................................................................................


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

TNLĐ

Tai nạn lao động

2

BNN

Bệnh nghề nghiệp

3


BHXH

Bảo hiểm xã hội

4

ILO

Tổ chức lao động quốc tế


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
BHXH là một trong những chính sách an sinh xã hội cơ bản trong hệ
thống chính sách xã hội của mỗi quốc gia, nhằm góp phần đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản,
TNLĐ, BNN, thất nghiệp, tuổi già, chết. Có thể nói BHXH là bộ phận cấu
thành quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội, có vai trò quan trọng trong
việc làm cho xã hội công bằng, ổn định và phát triển bền vững. Mặt khác,
chính sách BHXH là chính sách hướng vào phát triển con người, đáp ứng mục
tiêu phát triển con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta.
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN là một trong những chế độ BHXH ra đời
sớm trong lịch sử phát triển của BHXH, có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo đời sống cho người lao động sau khi bị rủi ro do nghề nghiệp.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, cùng với sự phát triển
của ngành công nghiệp thì số vụ TNLĐ, BNN cũng tăng nhanh qua các năm.

TNLĐ, BNN gây ra những tổn thất lớn lao về người và của cho các cá nhân,
gia đình và toàn xã hội. Đối với người lao động và thân nhân của họ là những
mất mát về sức khoẻ, giảm sút thu nhập và nỗi đau về tinh thần. Đối với
người sử dụng lao động là các thiệt hại về tài sản, đình trệ sản xuất, chi phí
bồi thường cho người lao động, uy tín... Do đó, việc thực hiện chế độ bảo
hiểm TNLĐ, BNN đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người lao động và
người sử dụng lao động ngăn ngừa rủi ro và khắc phục khó khăn khi xảy ra
TNLĐ, BNN.
Để trợ giúp người lao động trong trường hợp bị TNLĐ, BNN, Nhà nước
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường của


2

người sử dụng lao động (Luật lao động) và trách nhiệm chi trả trợ cấp của tổ
chức BHXH (Luật BHXH). Trong những năm qua, chính sách, chế độ BHXH
đối với người bị TNLĐ, BNN đã nhiều lần được bổ sung, sửa đổi cho phù
hợp, đặc biệt là sau khi có Luật BHXH. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều hạn chế
như: vẫn còn một số nhóm người người lao động không nhỏ chưa được tham
gia bảo hiểm TNLĐ, BNN; tỷ lệ hưởng trợ cấp còn chưa thực sự hợp lý; việc
giải quyết chế độ vẫn còn phức tạp, gặp nhiều khó khăn đối với người lao
động và người sử dụng lao động...
Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, từ đó
đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, yếu điểm
của chính sách, chế độ hiện hành là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay những công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài ở
bậc khóa luận tốt nghiệp tại Trường Đại học Luật Hà Nội có các đề tài: “Tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp” của Lê Anh Khoa, năm 1997; “Vấn đề tai

nạn lao động, bệnh nghề nghiệp” của Đinh Thị Việt Hương, năm 1997;
“Chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp” của Vũ Hồng Thiêm, năm
2000; “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo pháp luật
Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của Trần Thị Thu
Trang, năm 2006; “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Thực trạng và giải pháp” của Vũ Thị La, năm 2010. Ở bậc sau đại học vẫn
chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này.
Những công trình nghiên cứu trên một số đã không còn mang tính cập
nhật, một số còn chưa thực sự nghiên cứu chuyên sâu, do đó tác giả chọn
nghiên cứu đề tài “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”.


3

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp bậc sau đại học, luận văn
tập trung nghiên cứu chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN trong phạm vi sau:
+ Nghiên cứu chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN ở Việt Nam dưới góc độ là
chế độ BHXH do quỹ BHXH chi trả nhằm bù đắp một phần hoặc thay thế thu
nhập từ lao động cho người lao động bị TNLĐ, BNN theo những quy định
trong Luật BHXH 2006 và các văn bản hướng dẫn đang có hiệu lực.
+ Phân tích, đánh giá và đưa ra giải pháp liên quan đến đối tượng, điều
kiện hưởng bảo hiểm, các chế độ và mức hưởng bảo hiểm, thủ tục hưởng bảo
hiểm và quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Không nghiên cứu về thanh tra và xử lý
giải quyết tranh chấp, vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm TNLĐ, BNN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng và Nhà nước về phát triển con người và bảo hiểm xã hội trong

nền kinh tế thị trường để đánh giá, luận giải những vấn đề mà lý luận và thực
tiễn đặt ra.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn
bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh…
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn là nghiên cứu lý luận và
các quy định của pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN ở Việt Nam, từ đó làm
cơ sở để đưa ra những giải pháp hoàn thiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích như trên, việc nghiên cứu sẽ có
nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:


4

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về TNLĐ, BNN và
chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN như khái niệm, sự điều chỉnh của pháp luật,
quá trình hình thành và phát triển… Từ đó có cái nhìn khái quát, tổng quan về
chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN hiện hành.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN, phân tích,
đánh giá những quy định của pháp luật về đối tượng, điều kiện hưởng bảo
hiểm, các chế độ và mức hưởng bảo hiểm… Từ đó rút ra những thành tựu
cũng như hạn chế để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật.
Thứ ba, từ thực trạng pháp luật đã được phân tích, đánh giá, đưa ra một
số yêu cầu và giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN hiện hành.
6. Điểm mới của luận văn
Hoàn thiện một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Đánh giá thực trạng pháp luật về chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Trên cơ
sở đó đã chỉ ra được một số hạn chế, bất cập trong quy định của chế độ bảo
hiểm TNLĐ, BNN hiện hành.
Đưa ra được một số giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, bảng chữ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
Chương 2: Thực trạng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ
bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam


5

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
1.1. Khái niệm và một số điểm phân biệt giữa tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp
1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
* Tai nạn lao động
TNLĐ xuất hiện cùng với quá trình lao động sản xuất của con người, nó
có thể xảy ra ở mọi ngành nghề, mọi quốc gia. Mặc dù đã có nhiều biện pháp
được thực hiện nhằm giảm thiểu TNLĐ như sử dụng máy móc thay thế, trang
bị phương tiện bảo hộ lao động… nhưng dù cố gắng đến đâu thì TNLĐ vẫn
xảy ra. Chính vì vậy, TNLĐ không chỉ là vấn đề quan tâm của mỗi quốc gia
mà là vấn đề chung của toàn cầu.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, TNLĐ được hiểu là tai nạn
bất ngờ xảy ra do lao động hay trong quá trình lao động, có thể gây tử vong
hoặc gây cho cơ thể tổn thương hoặc một rối loạn chức năng vĩnh viễn hay
tạm thời. [21]

Từ điển Sức khỏe môi trường và nghề nghiệp Lewis lại định nghĩa
TNLĐ là một sự kiện không được lập kế hoạch, không biết trước và không
mong muốn có thể hoặc không gây ra thiệt hại về thể chất và/hoặc phá hủy tài
sản; hoặc bất kỳ sự kiện nào không mong muốn gây trở ngại hoặc cản trở quy
trình sản xuất hoặc một quá trình. [19]
Điều 142 Bộ luật lao động 2012 định nghĩa TNLĐ là tai nạn gây tổn
thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho
người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện
công việc, nhiệm vụ lao động.


6

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về TNLĐ nhưng nhìn chung
đều thống nhất TNLĐ là những tai nạn xảy ra bất ngờ con người không thể
lường trước được (không biết được chính xác về thời gian và không gian),
gắn với quá trình làm việc của người lao động trong một khoảng thời gian và
không gian cụ thể, để lại hậu quả hoặc là chết người hoặc làm tổn thương, hủy
hoại chức năng hoạt động bình thường của một bộ phận nào đó của cơ thể
người lao động.
Có thể nói, dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt TNLĐ với tai nạn rủi
ro thông thường là ở chỗ tai nạn đó có gắn liền với việc thực hiện công việc,
nhiệm vụ của người lao động (bị tai nạn) hay không. Chỉ được coi là TNLĐ
khi tai nạn đó xảy ra trong quá trình người lao động thực hiện các nghĩa vụ
lao động được pháp luật quy định, nội quy, quy chế của đơn vị sử dụng lao
động hoặc theo sự thỏa thuận của hai bên trong thỏa ước lao động tập thể, hợp
đồng lao động… Những trường hợp khác đều được coi là tai nạn rủi ro và áp
dụng chế độ bảo hiểm ốm đau để giải quyết quyền lợi cho người lao
động. [22]
Như vậy, TNLĐ là những tai nạn xảy ra bất ngờ khi người lao động

đang thực hiện nhiệm vụ lao động, gây ra tổn thương đến cơ thể hoặc gây ra
tử vong cho người lao động.
TNLĐ xảy ra do tác động bởi các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong lao
động gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao
động hoặc gây tử vong trong quá trình lao động gắn liền với việc thực hiện
công việc, nhiệm vụ lao động (kể cả thời gian giải quyết các nhu cầu cần thiết
trong thời gian làm việc theo Bộ Luật Lao động quy định như: nghỉ giải lao,
ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc…).
Có nhiều nguyên nhân gây ra TNLĐ song chủ yếu là do công tác an toàn
lao động không được thực hiện tốt. Sự cố công nghệ như nổ nồi hơi, bình nén


7

khí, thiết bị nâng không đảm bảo an toàn… vị trí, tư thế lao động gò bó; trình
độ lao động thấp; ý thức kỷ luật lao động kém; tâm lý lao động không ổn
định… đều là những nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến TNLĐ.
* Bệnh nghề nghiệp
BNN cùng với TNLĐ được coi là những rủi ro nghề nghiệp của người
lao động, là tiêu chí đánh giá tình hình an toàn và vệ sinh lao động ở một đơn
vị, một ngành hay một quốc gia.
Theo quy định của ILO thì một bệnh mà người lao động mắc phải do ảnh
hưởng của một yếu tố có hại nào đó trong quá trình làm việc của mình được
gọi là BNN. Các yếu tố ảnh hưởng này có tính chất thường xuyên và kéo dài
gây nên sự tích lũy tiềm tàng về bệnh tật cho cơ thể.
Theo Điều 143 Bộ luật lao động 2012, BNN là bệnh phát sinh do điều
kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động.
Cũng tương tự như TNLĐ, dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt giữa
BNN và bệnh thông thường là dấu hiệu “gắn liền với việc thực hiện công
việc, nhiệm vụ lao động”. Điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp có thể là

hệ quả của các yếu tố vật lý như nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, các bức xạ có
hại… do các yếu tố hóa học như các chất độc, các loại hơi, khí độc, bụi độc,
các chất phóng xạ… do các yếu tố sinh hóa như sinh vật, vi sinh vật, các loại
khuẩn, siêu vi khuẩn, côn trùng… hoặc các yếu tố về tư thế lao động, độ tiện
nghi về không gian nơi làm việc, mất vệ sinh, các yếu tố tâm lý không thuận
lợi… Điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động dần dần, phá hủy
các bộ phận, chức năng của người lao động và sinh ra bệnh. [22]
Như vậy, BNN là bệnh mà người lao động mắc phải do thường xuyên
thực hiện nhiệm vụ lao động trong môi trường có yếu tố độc hại. Có thể gọi
BNN là tình trạng bệnh lý mang tính chất đặc trưng nghề nghiệp hoặc liên


8

quan đến nghề nghiệp mà nguyên nhân gây bệnh là do tác động thường xuyên
và kéo dài của điều kiện lao động xấu.
BNN là bệnh mà nguyên nhân gây ra là do tác hại của môi trường lao
động, đó là tất cả những yếu tố người lao động gặp phải trong quá trình lao
động ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe người lao động, làm giảm khả năng
lao động, gây nên tình trạng bệnh lý từ nặng đến nhẹ (có thể gây chết người).
Do vậy, việc chuẩn đoán BNN không chỉ dựa vào triệu chứng bệnh để kết
luận mà còn phải dựa vào việc xác định các yếu tố độc hại trong môi trường
lao động của người lao động.
Dù rất khác nhau về nguyên nhân, tính chất, biểu hiện lâm sàng… song
giữa TNLĐ và BNN lại có điểm chung là đều làm suy giảm khả năng lao
động của người lao động hoặc gây tử vong, từ đó làm giảm hoặc mất thu nhập
từ lao động của họ. Chính vì thế, người lao động bị TNLĐ hay BNN đều là
đối tượng áp dụng chung một chế độ BHXH.
1.1.2. Một số điểm phân biệt giữa tai nạn lao động với bệnh
nghề nghiệp

Theo quy định của pháp luật, BNN là bệnh phát sinh do các yếu tố điều
kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động tới người lao động theo danh
mục các loại BNN do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban
hành. Còn TNLĐ là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng
nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao
động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Tuy nhiên,
nhiều khi lại rất khó phân biệt giữa TNLĐ và BNN. Có những trường hợp đặc
biệt được coi là TNLĐ như khi cơ thể người lao động bị nhiễm độc đột ngột
một lượng chất độc lớn (gọi là nhiễm độc cấp tính), có thể gây chết người
ngay tức khắc hoặc hủy hoại một bộ phận chức năng nào đó của cơ thể. Song
trong một số trường hợp, một số triệu chứng của nhiễm độc cấp tính được


9

biểu hiện ra do sự tích lũy chất độc trong cơ thể sau một thời gian dài tiếp xúc
như nhiễm độc chì không được coi là TNLĐ mà vẫn là BNN. Những trường
hợp nhiễm độc cấp tính, bán cấp tính do hơi độc, hóa chất độc gây nên tại nơi
làm việc thì được coi như TNLĐ. Ví dụ, trong nhà máy hóa chất do sự cố
trong quá trình sản xuất hơi Clo bị thải ra quá nhiều nên công nhân có thể bị
nhiễm độc cấp tính và có thể chết trong tình trạng phù phổi cấp. Trong những
trường hợp nhiễm độc cấp tính giống như trên là do hóa chất độc hại vào cơ
thể nhanh với nồng độ cao hoặc một lượng lớn xảy ra ở một nghề có yếu tố
độc hại đó được coi là TNLĐ.
Tuy vậy, giữa TNLĐ và BNN tồn tại một số điểm khác nhau cơ bản giúp
ta phân biệt đó là:
Thứ nhất, TNLĐ xảy ra đến bất ngờ, phát sinh trong khoảng thời gian
ngắn còn BNN xảy ra từ từ, phát sinh trong khoảng thời gian dài sau cả một
quá trình tiếp xúc với yếu tố độc hại trong sản xuất. Nếu người lao động tiếp
xúc với yếu tố độc hại trong thời gian ngắn mà đã gây tổn thương cho một bộ

phận cơ thể thì phải được coi là TNLĐ. Thời gian tiếp xúc ngắn hay dài tùy
thuộc vào từng quốc gia quy định khác nhau và tùy thuộc vào từng yếu tố độc
hại trong BNN.
Thứ hai, TNLĐ nếu gây thương tật thì đó là những thương tật dễ nhận
biết hoặc ở bên ngoài, còn BNN gây ra thương tật thường ẩn dấu trong cơ thể,
khó nhìn thấy, sau một khoảng thời gian mới phát bệnh ra ngoài cơ thể. Chính
vì vậy, nhiều người lao động khi phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở giai đoạn
cuối không thể chữa trị.
Thứ ba, di chứng do TNLĐ gây ra sau một thời gian điều trị dễ khỏi hơn
so với di chứng của BNN. Di chứng của BNN rất dễ tái phát khi gặp điều kiện
như thời tiết lạnh, môi trường ô nhiễm, ẩm ướt, nhiều tiếng ồn… và nó còn có
thể ảnh hưởng tới con cái cũng như nhiều đời sau, những người có cùng huyết


10

thống với người lao động bị mắc BNN. Ví dụ, nếu người lao động bị nhiễm
độc hóa chất khi mang thai sẽ ảnh hưởng tới con, con sinh ra rất dễ bị dị dạng,
khiếm khuyết.
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của chế độ bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
1.2.1. Khái niệm chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Trong quá trình lao động sản xuất có thể xảy ra những rủi ro bất thường
ngoài ý muốn của con người. TNLĐ, BNN là loại rủi ro đặc trưng, nó gây ra
những hậu quả to lớn cho người lao động không chỉ là những thiệt hại về vật
chất mà cả những thiệt hại về tinh thần.
Đối với người lao động, TNLĐ, BNN làm cho họ giảm sút sức khỏe suy
giảm khả năng lao động dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động.
Nhiều trường hợp sau khi bị TNLĐ, BNN họ không có khả năng tự phục vụ
bản thân, trở thành gánh nặng cho gia đình. Bên cạnh những tổn thất về kinh

tế, người lao động còn chịu tổn thất nặng nề về tinh thần, bởi không ai muốn
trở thành người tàn phế, người vô ích. Từ đó, nhu cầu được bảo hiểm của
người lao động và gia đình họ trong các trường hợp này càng trở nên bức
thiết. Sự ra đời của chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN trong lịch sử hình thành và
phát triển của BHXH không chỉ có ý nghĩa ràng buộc trách nhiệm của người
sử dụng lao động đối với những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động gắn liền
với nghề nghiệp của người lao động mà còn thể hiện sự quan tâm và trách
nhiệm của Nhà nước đối với lực lượng lao động và cộng đồng xã hội nói
chung.
Như vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu là “chế độ bảo hiểm
xã hội do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả nhằm bù đắp một phần hoặc thay thế
thu nhập từ lao động của người lao động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất
khả năng lao động mà nguyên nhân là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp”.


11

Do đó, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN của người lao động được đảm bảo
từ nguồn quỹ BHXH, không bao gồm các khoản chi phí trực tiếp do người sử
dụng lao động thanh toán. Ở đây, cần lưu ý trong trường hợp người sử dụng
lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động theo quy định
của Nhà nước thì trách nhiệm chi trả của quỹ BHXH sẽ được dịch chuyển
sang cho người sử dụng lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Trong trường hợp này, người sử dụng lao động sẽ phải trả cho người lao động
một khoản tiền ngang với mức quy định trong các văn bản pháp luật
về BHXH.
1.2.2. Ý nghĩa của chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
Thứ nhất, đối với người lao động
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đảm bảo ổn định thu nhập cho người lao

động bị TNLĐ, BNN. So với một số rủi ro khác mà người lao động có thể gặp
phải như ốm đau, thai sản, thất nghiệp - người lao động có thể nhanh chóng
phục hồi sức khỏe hoặc tìm kiếm việc làm để quay trở lại làm việc và có thu
nhập, thì rủi ro từ TNLĐ, BNN lại thường lấy mất đi một phần hoặc toàn bộ
khả năng lao động của người lao động. Do đó, người lao động khó có thể tìm
kiếm việc làm hoặc có việc làm nhưng với thu nhập thấp hơn trước. Chính vì
vậy, trợ cấp TNLĐ, BNN có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo đời sống cho
người lao động, giảm gánh nặng về vật chất cho thân nhân của người
lao động.
Thứ hai, đối với người sử dụng lao động
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN giảm chi phí cho người sử dụng lao động
khi xảy ra TNLĐ, BNN, nhanh chóng phục hồi sản xuất kinh doanh. Thông
thường trách nhiệm bồi thường cho người bị TNLĐ, BNN thuộc về người sử
dụng lao động nhưng khi loại hình BHXH ra đời và phát triển, trách nhiệm


12

này được chuyển giao cho tổ chức BHXH với điều kiện người sử dụng lao
động phải đóng một khoản phí theo quy định. Trách nhiệm này chuyển giao
đến mức nào phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia, tuy nhiên khi tham
gia BHXH, người sử dụng lao động sẽ được tổ chức BHXH gánh bớt một
phần chi phí phải trả cho người lao động khi xảy ra TNLĐ, BNN. Điều đó, sẽ
giúp người lao động không rơi vào tình trạng nợ nần, phá sản, nhanh chóng
khôi phục sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, đối với Nhà nước
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN góp phần thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động. Để góp phần thúc đẩy kinh tế bền
vững, giảm chi phí kinh tế, xã hội và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, theo khuyến cáo của ILO, các quốc gia thường xây dựng chương trình mục

tiêu quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động. Mục tiêu của chương trình là cải
thiện điều kiện, môi trường lao động cho người lao động và giảm thiểu
TNLĐ, BNN. Chương trình cũng đưa ra nhiều giải pháp để thực hiện mục
tiêu này như xây dựng hệ thống luật pháp, tập huấn về an toàn, vệ sinh lao
động cho người lao động và người sử dụng lao động… và chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN cũng đóng góp không nhỏ vào việc thực hiện chương trình này.
1.3. Nguyên tắc thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp
1.3.1. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải
đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
Ý nghĩa xã hội của chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chỉ được thực hiện khi
chế độ này được áp dụng rộng rãi đối với tất cả mọi người lao động tham gia,
không có sự phân biệt nào. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho người lao
động làm việc trong bất kì thành phần kinh tế nào, bất kì loại hình tổ chức


13

nào, khi gặp TNLĐ, BNN đều được hưởng quyền lợi về BHXH. Tuy nhiên,
tùy vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ mà đối tượng tham
gia, thụ hưởng bảo hiểm và các trường hợp hưởng bảo hiểm sẽ được xác định
khác nhau. Nền kinh tế càng phát triển, khả năng mở rộng đối tượng tham gia
và các trường hợp hưởng bảo hiểm càng được đảm bảo ở một mức độ cao
hơn, mặc dù vậy vẫn phải luôn đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa
những người lao động cùng tham gia chế độ. Vì thế, với nền kinh tế đang
ngày càng phát triển như nước ta hiện nay, đây vừa là một nguyên tắc, vừa là
mục tiêu mà chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN cần đạt được.
1.3.2. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trên cơ
sở cân đối mức đóng và hưởng bảo hiểm, kết hợp với nguyên tắc “lấy số đông
bù số ít”

Nguyên tắc này được hiểu là phải đảm bảo hợp lý giữa đóng góp của
người lao động cho xã hội thể hiện thông qua mức tiền công, tiền lương, thời
gian đóng góp cho quỹ BHXH để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời
gian hưởng trợ cấp TNLĐ, BNN phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của
người lao động.
Tuy nhiên, khi xem xét nguyên tắc này cần đặt chúng trong mối quan hệ
phù hợp với nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Bởi vì, người lao động đóng
góp vào quỹ BHXH không có nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ của
BHXH và mức hưởng bảo hiểm trong những trường hợp nhất định không
hoàn toàn căn cứ vào mức đóng bảo hiểm của người lao động đó.
1.3.3. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải
đảm bảo mức trợ cấp không được cao hơn mức tiền lương khi đang làm việc,
nhưng không được thấp hơn mức bảo hiểm tối thiểu do Nhà nước quy định và


14

trong những trường hợp nhất định phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người
lao động bị TNLĐ, BNN
Trợ cấp TNLĐ, BNN là nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động do bị
TNLĐ, BNN. Vì vậy, về nguyên tắc mức trợ cấp TNLĐ, BNN không được
cao hơn mức tiền lương khi đang làm việc. Quan điểm này vừa phản ánh tính
cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho
những người lao động tham gia BHXH. Tuy nhiên cũng cần tính đến nhu cầu
sinh hoạt tối thiểu cho người được hưởng bảo hiểm. Do đó, Nhà nước cần
phải có những quy định khống chế mức trợ cấp TNLĐ, BNN tối thiểu nhằm
bảo vệ quyền lợi cho người được hưởng bảo hiểm. Mức trợ cấp tối thiểu được
quy định, thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và thường căn cứ
vào một số yếu tố liên quan như mức sống tối thiểu, tiền lương tối thiểu…

1.3.4. Thực hiện bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải
được Nhà nước thống nhất quản lý
BHXH là một chính sách xã hội lớn, hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận. Mục tiêu chính của BHXH nói chung cũng như của chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN nói riêng là nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia
đình họ, góp phần ổn định xã hội. Do đó Nhà nước, với vai trò quản lý xã hội,
sẽ phải có trách nhiệm trong việc thống nhất quản lý thực hiện chế độ bảo
hiểm TNLĐ, BNN.
Bên cạnh đó, khi Nhà nước thống nhất quản lý, quyền lợi về bảo hiểm
TNLĐ, BNN của người lao động ở các khu vực kinh tế, giữa các vùng, miền
được đảm bảo, sẽ góp phần hình thành và phát triển thị trường lao động.
1.4. Điều chỉnh pháp luật về chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp


15

Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán mà các nước quy
định khác nhau về chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Song nhìn chung pháp luật
các nước thường quy định chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN gồm các nội dung
sau đây:
1.4.1. Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp
Việc quy định những chủ thể nào thuộc đối tượng hưởng chế độ bảo
hiểm TNLĐ, BNN là rất quan trọng bởi đây là cơ sở, tiền đề để tiến hành
những bước tiếp theo. Đối tượng trước hết hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ,
BNN đó là người lao động có tham gia BHXH bị TNLĐ, BNN làm suy giảm
khả năng lao động ở một mức độ nhất định. Đây là lực lượng chủ yếu làm ra
sản phẩm cho xã hội đồng thời cũng là đối tượng áp dụng chính. Xét trên khía
cạnh công bằng xã hội và thực hiện nguyên tắc “số đông bù số ít” thì mọi

người lao động đều thuộc đối tượng bảo vệ của chế độ bảo hiểm TNLĐ,
BNN. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà
vấn đề này cũng được quy định khác nhau. Người lao động ở đây có thể thuộc
mọi thành phần kinh tế nhưng cũng có thể chỉ là cán bộ, công nhân viên
chức… Mỗi nhóm lao động có những đặc điểm khác nhau và có thể gặp rủi ro
khác nhau, vì vậy cần phải có nhiều hình thức, nhiều cơ chế bảo vệ đa dạng.
Ví dụ như: Pháp luật Đức quy định đối tượng áp dụng bảo hiểm TNLĐ là tất
cả người lao động, kể cả bị tai nạn trên đường đi, giữa nơi ở và nơi làm việc;
người bị mắc BNN thì được xử lý như người bị TNLĐ. Trong khi đó, pháp
luật Thái Lan lại quy định đối tượng áp dụng của chế độ bảo hiểm này là tất
cả người lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, loại trừ
người làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; người làm việc trong
các doanh nghiệp nhà nước, nhân viên chính phủ thì thực hiện theo hệ
thống riêng. [13]


16

Thông thường các hệ thống BHXH đều quy định điều kiện để người lao
động được hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN là người lao động phải tham
gia BHXH đồng thời họ phải bị TNLĐ, BNN theo quy định pháp luật của
quốc gia đó. Việc xác định thế nào là TNLĐ, BNN được pháp luật của mỗi
quốc gia quy định khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của
mình. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia khi xác định các trường hợp được coi
là TNLĐ, BNN đều gắn tai nạn hoặc bệnh đó với quá trình lao động do người
lao động thực hiện, có thể trong hoặc ngoài giờ làm việc tiêu chuẩn.
Tổ chức lao động quốc tế ILO đưa ra gợi ý cho các quốc gia khi xác định
điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN tại Điều 6 của Công ước 121 năm
1964 về trợ cấp TNLĐ, BNN như sau:
Các chế độ trợ cấp cho người bị TNLĐ và BNN nên bao gồm các điều

kiện sau:
- Tình trạng sức khỏe kém;
- Do sức khỏe kém nên không thể làm việc nên không có thu nhập, như
đã định nghĩa trong luật pháp và quy định quốc gia;
- Mất hoàn toàn hoặc một phần khả năng tạo thu nhập trên mức độ
thương tật đã được pháp luật quy định, có thể trở thành thương tật vĩnh viễn
hoặc mất một khả năng nào đó (thân thể hoặc trí tuệ);
- Người trong gia đình mất đi sự hỗ trợ do người lao động chính chết.
Ở Trung Quốc, pháp luật có quy định điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ,
BNN như sau:
Người lao động được hưởng bảo hiểm khi bị suy giảm khả năng lao
động hoặc chết do TNLĐ, BNN trong các trường hợp sau:
- Bị tai nạn trong khi kinh doanh, sản xuất tại đơn vị.
- Bị tai nạn khi đang làm công việc do người sử dụng lao động yêu cầu.
- Bị BNN do tiếp xúc với những vật độc hại tại nơi làm việc.
- Bị tai nạn trong thời gian đi làm hoặc tan ca. [23]


17

Hiện nay, có hai cách thường được sử dụng để xác định những BNN
được bảo hiểm. Cách thứ nhất đó là xác định danh mục bệnh và chỉ rõ những
công việc dễ gây ra từng loại BNN. Người lao động mắc bệnh do đã làm công
việc có trong danh mục thì đương nhiên được bảo hiểm. Cách thứ hai đó là
theo yêu cầu đền bù của người bệnh, sẽ xác định xem có đúng vì nguyên nhân
hoạt động nghề nghiệp mà phát bệnh không. Cách làm này khiến người bị
bệnh phải qua kiểm tra, chuẩn đoán, giám định phức tạp để đi kết luận, nhưng
cũng có mặt lợi cho người lao động nếu mắc BNN mà chưa có trong danh
mục BNN. Phần lớn pháp luật các nước đều ấn định rõ một danh mục các
BNN người lao động mắc phải khi tiếp xúc với công việc, và pháp luật Việt

Nam cũng quy định giống như vậy.
Bên cạnh người lao động là đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ,
BNN thì thân nhân của người lao động cũng là đối tượng hưởng của chế độ
này. Thân nhân của người lao động thường được xác định là cha mẹ, vợ hoặc
chồng và con của người lao động. Trong những trường hợp người lao động
đang làm việc bị chết do TNLĐ, BNN hoặc bị chết trong thời gian điều trị lần
đầu do TNLĐ, BNN thì thân nhân của họ sẽ được hưởng bảo hiểm. Đây là
quy định hết sức phù hợp, nhằm bù đắp một phần thiệt hại về vật chất cũng
như tinh thần cho gia đình người lao động.
1.4.2. Các chế độ và mức hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp
Các chế độ áp dụng đối với người lao động bị TNLĐ, BNN có thể kể
đến như giám định y khoa, trợ cấp thương tật, bệnh tật và một số chế độ khác
có liên quan. Trong đó, trợ cấp thương tật, bệnh tật được xác định là chế độ có
vai trò quan trọng đối với người lao động bị TNLĐ, BNN. Khi người lao
động bị TNLĐ, BNN, họ có thể bị mất một phần hoặc toàn bộ khả năng lao
động do đó thu nhập từ lao động bị giảm hoặc mất. Vì vậy, người lao động


18

cần một khoản trợ cấp tương xứng để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia
đình. Tùy thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động mà người lao động
có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng.
Người lao động bị TNLĐ, BNN sẽ được giới thiệu đi giám định mức suy
giảm khả năng lao động sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định
để xác định mức trợ cấp. Nếu như họ bị tái phát thì sẽ được giám định lại để
xác định mức trợ cấp cho phù hợp.
Do bị TNLĐ, BNN nên người lao động có thể bị tổn thương các chức
năng hoạt động của cơ thể (chân, tay, tai, mắt…), vì vậy cần phương tiện trợ

giúp sinh hoạt như chân tay giả, máy trợ thính, xe lăn… Hơn nữa nhiều
trường hợp người lao động bị thương tật nặng không thể tự phục vụ bản thân,
kể cả những sinh hoạt thiết yếu trong cuộc sống cho nên ngoài trợ cấp thương
tật, bệnh tật thì người lao động còn được bảo đảm thêm các khoản trợ cấp
khác để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt và trợ cấp phục vụ.
Thu nhập của người lao động được sử dụng để nuôi sống không chỉ bản
thân người lao động mà cả thân nhân như con, vợ/chồng, cha mẹ. Khi người
lao động chết, đời sống của những thân nhân này sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
họ cần một khoản trợ cấp để ổn định đời sống. Chính vì vậy, pháp luật còn
quy định về việc trợ cấp cho người lao động bị chết vì TNLĐ, BNN. Đây là
một quy định hết sức đúng đắn nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt
cũng như lâu dài của gia đình người lao động đồng thời khoản trợ cấp này
cũng bù đắp được phần nào những thiệt hại về mặt tinh thần giúp họ lấy lại
niềm tin vào cuộc sống.
Người lao động sau khi điều trị ổn định thương tật, bệnh tật do TNLĐ,
BNN mà sức khỏe còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.
ILO cũng gợi ý các chế độ mà người lao động bị TNLĐ, BNN sẽ được
hưởng là: chăm sóc sức khỏe và các trợ cấp đi kèm theo cho người sức khỏe


19

yếu như khám đa khoa, chuyên khoa, khám nha khoa, chăm sóc sức khỏe tại
nhà, tại bệnh viện, cung cấp thuốc men, trang thiết bị y tế… (Điều 10, 11, 12
Công ước 121); trợ cấp bằng tiền theo các chế độ nêu trong Điều 6 (khoản b,
c và d), Điều 13 đến Điều 22 Công ước 121.
Đặc biệt, ILO quy định rất cụ thể, rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của các
quốc gia thành viên trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động bị TNLĐ,
BNN. Các thành viên có trách nhiệm chung đối với việc cung cấp các trợ cấp
được quy định bởi Công ước và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để phục vụ

mục tiêu đó. Và mỗi nước thành viên phải tiến hành các biện pháp để phòng
tránh TNLĐ, BNN, cung cấp dịch vụ phục hồi chức năng để giúp người tàn
tật trở lại công việc trước đây… (Điều 25, Điều 26 Công ước 121).
Pháp luật Trung Quốc thì quy định người bị TNLĐ, BNN sẽ được hưởng
các quyền lợi sau:
- Thứ nhất, điều trị y tế
Khi người lao động được xác nhận là bị thương tật, bệnh tật do TNLĐ,
BNN thì toàn bộ chi phí y tế điều trị thương tật, bệnh tật của họ do cơ quan
BHXH chi trả nếu họ tham gia vào hệ thống bảo hiểm TNLĐ, BNN nếu
không tham gia thì do người sử dụng lao động chi trả.
Sau khi điều trị ổn định thương tật, người lao động được giới thiệu đi
giám định tại cơ quan giám định y tế theo quy định. Trung Quốc đã ban hành
chuẩn quốc gia về giám định mức độ thương tật đối với người lao động. Mức
độ thương tật, bệnh tật được chia thành 10 cấp, từ cấp 1 đến cấp 4 là mất hoàn
toàn khả năng lao động, cấp 5 đến cấp 6 là mất phần lớn khả năng lao động,
cấp 7 đến cấp 10 là mất một phần khả năng lao động.
- Thứ hai, trợ cấp một lần
Người lao động khi bị TNLĐ hoặc BNN sẽ được hưởng trợ cấp một lần
dựa trên cơ sở cấp độ thương tật, bệnh tật và mức lương trung bình của họ
trong vòng 12 tháng trước khi bị TNLĐ, BNN.


20

- Thứ ba, phụ cấp TNLĐ, BNN
Sau khi người lao động bị TNLĐ, BNN, nếu bị tàn tật vĩnh viễn, họ sẽ
được hưởng trợ cấp thương tật hàng tháng. Mức trợ cấp mà người lao động
được hưởng phụ thuộc vào mức độ thương tật, bệnh tật và mức lương trung
bình của họ. Người bị thương tật, bệnh tật từ cấp độ 1 đến cấp độ 4 được
hưởng trợ cấp hàng tháng tương ứng bằng 90%, 85%, 80% và 75% mức

lương trung bình của họ; người bị thương tật cấp 5 và cấp 6 thì mức hưởng là
70% mức lương trung bình. Các cấp còn lại sẽ được hưởng trợ cấp thương tật
một lần theo mức từ 6 đến 24 tháng lương tùy theo mức độ thương tật của họ.
- Thứ tư, trợ cấp tử tuất và quyền lợi của thân nhân
Khi người lao động bị chết do TNLĐ, BNN thì thân nhân của họ, những
người mà người lao động có trách nhiệm nuôi dưỡng khi còn sống, sẽ được
hưởng các quyền lợi:
+ Mai táng phí (trợ cấp tang lễ): bằng 6 tháng tiền lương trung bình của
người lao động.
+ Trợ cấp tử tuất: từ 48 tháng đến 60 tháng tiền lương trung bình của
người lao động trong năm trước khi chết.
+ Trợ cấp hàng tháng: nếu vợ hoặc chồng góa đủ điều kiện để được
hưởng trợ cấp hàng tháng thì được hưởng trợ cấp hàng tháng với mức trợ cấp
bằng 40% tiền lương trung bình của người chồng hoặc vợ trước khi chết. Cha
mẹ già và các con chưa đến tuổi thành niên được nhận trợ cấp hàng tháng
bằng 30% mức lương trung bình của xã hội. [14]
Có thể thấy, trợ cấp TNLĐ, BNN được thực hiện trên cơ sở mức lương
làm căn cứ đóng bảo hiểm của người lao động hoặc một mức thu nhập nhất
định do Nhà nước quy định (ví dụ: mức lương tối thiểu). Mức trợ cấp TNLĐ,
BNN được quy định khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc vào điều kiện kinh tế
- xã hội của mỗi nước và trong những trường hợp cụ thể thì mức trợ cấp còn


×