Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI HỮU VÕ

ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG TRONG TUYỂN CHỌN VÀ GỌI
CÔNG DÂN NHẬP NGŨ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Động cùng quý thầy cô
trong Tiểu ban, gia đình và tập thể lớp đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này.

Tác giả


LỜI CAM ĐOAN



Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

Bùi Hữu Võ


1

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

2

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG TRONG TUYỂN
CHỌN VÀ GỌI CÔNG DÂN NHẬP NGŨ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

6

1.1. Tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ

6

1.1.1. Tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ với thực hiện nghĩa vụ
quân sự

6


1.1.2. Quy trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ

9

1.2. Khái niệm và đặc điểm của công bằng

12

1.3. Công bằng và điều kiện đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và
gọi nhập ngũ ở Việt Nam
1.3.1. Công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ ở Việt Nam

20
20

1.3.2. Điều kiện đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũ ở Việt Nam

26

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG TRONG
TUYỂN CHỌN VÀ GỌI CÔNG DÂN NHẬP NGŨ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

31

2.1. Thực trạng đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công
dânnhập ngũ ở Việt Nam hiện nay


31

2.2. Nguyên nhân của thực trạng đảm bảo công bằng trong tuyển
chọn và gọi công dân nhập ngũ ở Việt Nam hiện nay

43

2.3. Giải pháp đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũ ở Việt Nam thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC

54
65


2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hàng năm, vào dịp đầu xuân hay đầu tháng tám, các địa phương trong cả
nước lại tổ chức thực hiện công tác khám tuyển nghĩa vụ quân sự để lựa chọn
những thanh niên đủ tiêu chuẩn lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.Đây
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quân sự, quốc phòng của
đất nước. Thực hiện tốt công tác này không chỉ trực tiếp góp phần nâng cao
chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của bộ đội chủ lực mà còn là tiền
đề để xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên lâu dài cho địa
phương. Tuy nhiên, quy trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ ở địa bàn
cơ sở còn chưa được chặt chẽ, minh bạch, thậm chí là còn không ít những
biểu hiện tiêu cực gây bất bình trong xã hội, ảnh hưởng không nhỏ tới việc

thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân.
Trong một xã hội đang ngày càng biến động như hiện nay, bên cạnh các
giá trị dân chủ, văn minh, nhân đạo, quyền con người...thì công bằng cũng
luôn được nhìn nhận như một giá trị phổ cập, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người. “Không sợ thiếu, chỉ sợ không
công bằng” [20], đó là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lúc nhân
dân ta đang tiến hành sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, công bằng là
một trong năm mục tiêu cao cả của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó là xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.Đảng ta cũng luôn nhấn mạnh đi đôi với
phát triển kinh tế phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một
trong những động lực quan trọng để thúc đẩy công cuộc đổi mới đất
nước.Thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay cũng đang đặt ra yêu cầu hết sức bức thiết của việc thực hiện


3
nguyên tắc công bằng trong mọi mặt của đời sống xã hội, mà nòng cốt chính
là mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Từng là một quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam, từng tham
gia vào quy trình tuyển quân, nên ở một phương diện nhất định, tôi nhận thức
được những hạn chế, bất bình đẳng trong công tác tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũ hiện nay. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.Trong khi
đó, thực hiện nghĩa vụ quân sự vừa là một nghĩa vụ thiêng liêng, vừa là niềm
tự hào của hàng triệu thanh niên thì lại chưa thực sự công bằng. Vì vậy, tôi
quyết định chọn vấn đề “Đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công
dân nhập ngũ ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ, gắn với
bối cảnh sửa đổi Hiến pháp năm 2013 và sửa đổi Luật Nghĩa vụ quân sự trong
thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Có thể nói, công bằng luôn là một vấn đề được nhiều nhà khoa học xã
hội quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình
tiếp cận vấn đề này từ nhiều góc độ triết học, luật học, xã hội học, kinh tế học,
chính trị học...với những phạm vi và cấp độ nghiên cứu khác nhau như tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội, công bằng xã hội với chính sách xã hội.
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Báo cáo phát triển thế giới
2006 – Công bằng và phát triển của Ngân hàng thế giới; Thúc đẩy công cuộc
phát triển nông thôn ở Việt Nam: Tăng trưởng, công bằng và đa dạng hóa,
của Ngân hàng thế giới (Hà Nội, tháng 2 năm 2006);Quản lý sự phát triển xã
hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng của GS.TS.Phạm Xuân Nam (Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2001); Công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của GS.VS.Nguyễn Duy
Qúy (Tạp chí Triết học, số 03 năm 2008); Công bằng và bình đẳng xã hội
trong quan hệ tộc người ở các quốc gia đa tộc người của PGS.TS. Nguyễn


4
Quốc Phẩm (Nxb.Lí luận chính trị, Hà Nội, năm 2006); Công bằng xã hội và
phát triển con người bền vững, Phạm Thành Nghị (Tạp chí Nghiên cứu con
người, số 05 năm 2007)...
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu luật học ở Việt Nam cũng đã có những
đóng góp quan trọng trong việc nhận thức và kiến giải một số vấn đề liên
quan tới công bằng trong lĩnh vực pháp luật, như: Nguyên tắc công bằng
trong luật hình sự Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học của Võ Khánh Vinh
(năm 1993); Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm công bằng xã hội ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học của Vũ Anh Tuấn (năm 2001);
Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế của ThS. Lã Khánh
Tùng (Tạp chí Kiểm sát, số 17 năm 2008)... Nhìn chung, các công trình và các
bài viết trên đã phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về khái niệm, đặc
điểm của công bằng và vai trò của nó đối với nhà nước, pháp luật cũng như

trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn
đề công bằng và đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ quân sự, một
vấn đề rất gần dân, thu hút được sự quan tâm trực tiếp của nhân dân thì gần
như lại chưa có.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là vấn đề công bằng trong việc thực
hiện nghĩa vụ quân sự của nam thanh niên. Tuy nhiên đây là vấn đề lớn, phức
tạp, vì vậy trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu vấn đề đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công
dân nhập ngũ ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của
Luận văn
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản


5
Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra,trong Luận văn cósử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như so sánh, phân tích, tổng hợpvà thống kê.
5. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là đề xuất những giải pháp nhằm
đảm bảo công bằng trong công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ ở
Việt Nam thời gian tới.Để đạt được mục đích trên, tác giả phân tích làm rõ cơ
sở lý luận và thực trạng đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũở nước ta hiện nay, từ đótìm ra các giải pháp để tiếp tục đảm bảo
công bằng cho công tác này trong thời gian tới.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
có kết cấu 2 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi

công dân nhập ngũ ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp đảm bảo công bằng trong tuyển
chọn và gọi công dân nhập ngũ ở Việt Nam hiện nay.


6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG TRONG TUYỂNCHỌN VÀ
GỌI CÔNG DÂN NHẬP NGŨ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. TUYỂN CHỌN VÀ GỌI CÔNG DÂN NHẬP NGŨ

1.1.1. Tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ với thực hiện nghĩa vụ
quân sự
Nghĩa vụ quân sự có phạm vị rộng, không đơn giản, bó hẹp như nhiều
người vẫn thường nghĩ đó chỉ là việc nhập ngũ hàng năm của công dân nam
trong độ tuổi gọi nhập ngũ. Điều 2, Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi năm 2005
đưa ra khái niệm về nghĩa vụ quân sự: “Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang
của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Cũng tại Điều
này quy định: “Làm nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và trong
ngạch dự bị của quân đội. Công dân phục vụ tại ngũ gọi là quân nhân tại
ngũ. Công dân phục vụ trong ngạch dự bị gọi là quân nhân dự bị”. Tiếp theo,
Điều 6 quy định: “Quân nhân tại ngũ và quân nhân dự bị gồm có sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan và binh sĩ. Chế độ phục vụ của sĩ quan
do Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định”. Tại Chương V của
Luật còn quy định về việc phục vụ của hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị, theo đó, hạ
sĩ quan và binh sĩ dự bị được chia thành quân nhân dự bị hạng một và quân
nhân dự bị hạng hai với hạn tuổi phục vụ là đến hết 45 tuổi đối với nam và
đến hết 40 tuổi đối với nữ.
Như vậy, có thể thấy thực hiện nghĩa vụ quân sự không chỉ bao gồm việc
phục vụ tại ngũ của công dân nam trong độ tuổi từ 18 đến 25 mà còn gồm cả

công dân nam, nữ phục vụ trong ngạch dự bị, và chế độ phục vụ của quân
nhân chuyên nghiệp, sĩ quan trong quân đội. Do đó, nghĩa vụ quân sự sẽ bao
gồm nhiều mảng, phạm vi khác nhau. Trong khi đó, tuyển chọn và gọi công


7
dân nhập ngũ là giai đoạn đầu chuẩn bị cho việc phục vụ tại ngũ của công dân
nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ. Có thể nói, theo cách hiểu và quan tâm của
dư luận hiện nay thì đây chính là phần quan trọng nhất của việc thực hiện
nghĩa vụ quân sự, và đảm bảo được công bằng trong giai đoạn này chính là
đảm bảo được công bằng trong thực hiện nghĩa vụ quân sự của nam thanh
niên nói chung.
Hoạt động tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ được quy định chi tiết
trong các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, đó là Luật Nghĩa vụ quân sự
năm 1981 sửa đổi năm 2005 quy định việc phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và
binh sĩ (Chương II), việc chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ (Chương
III); việc gọi nhập ngũ, Hội đồng nghĩa vụ quân sự, việc hoãn gọi nhập ngũ,
việc miễn làm nghĩa vụ quân sự (Chương IV). Thông tư 167/2010/TT–BQP
quy định đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn đối với công dân nhập ngũ; trách
nhiệm của các cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân trong việc tổ chức thực
hiện tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ (tuyển quân) hàng năm. Thông tư
liên tịch số 175/2011/TTLT-BQP-BGĐT, Thông tư 13/2013/TTLT-BQPBGDĐT hướng dẫn Nghị định 38/2007/NĐ-CP về tạm hoãn gọi nhập ngũ và
miễn gọi nhập ngũ thời bình đối với công dân nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ
do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Thông tư liên tịch số 76/2006/TTLT-BQP-BCA ngày 03/5/2006 của Bộ Quốc
phòng - Bộ Công an về hướng dẫn tiêu chuẩn chính trị, nguyên tắc thủ tục
tuyển chọn công dân vào phục vụ trong quân đội. Thông tư liên tịch số
36/2011/TTLT BQP-BYT hướng dẫn việc khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ
quân sự.
Theo đó, tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ thực chất là hai bước của

quá trình tuyển quân, đây chính là hoạt động thường niên được thực hiện bởi
các cơ quan chức năng nhằm mục đích là lựa chọn những thanh niên đủ tiêu


8
chuẩn về sức khỏe, văn hóa, chính trị lên đường thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc một cách công bằng, hiệu quả, an toàn và tiết kiệm; qua đó góp phần
nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động
viên và góp phần xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương, đặc biệt là các địa
phương vùng sâu, vùng xa, địa bàn trọng yếu.
Đối tượng được tuyển chọn và gọi nhập ngũ là nam thanh niên từ đủ 18
đến hết 25 tuổi (gọi từ lứa tuổi thấp đến lứa tuổi cao) và căn cứ vào một số
tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn chính trị, đạo đức: Thực hiện theo hướng dẫn của liên Bộ
Quốc phòng - Bộ Công an về tiêu chuẩn chính trị, nguyên tắc, thủ tục tuyển
chọn công dân vào phục vụ trong quân đội. Những cơ quan, đơn vị trọng yếu,
tuyển chọn theo quy định của Bộ Quốc phòng về nguyên tắc tuyển chọn, điều
động người vào làm việc ở cơ quan; đơn vị trọng yếu, cơ mật. Những công
dân xăm da (bằng kim) có hình mang tính kinh dị, kỳ quái, kích động, bạo lực
gây phản cảm ở những vị trí lộ diện như mặt, cổ, tay (từ 1/3 dưới cánh tay trở
xuống); chân (1/3 từ dưới đùi trở xuống), không gọi nhập ngũ vào quân đội.
- Tiêu chuẩn sức khỏe: Tuyển những công dân có sức khỏe loại 1, 2, 3
(rất tốt, tốt, khá) theo tiêu chuẩn sức khỏe quy định của liên Bộ Y tế - Bộ
Quốc phòng về việc khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự. Các đơn vị
đặc thù thực hiện tuyển chọn theocác tiêu chuẩn riêng theo quy định của Bộ.
Những công dân mắc các tật khúc xạ về mắt (cận thị, viễn thị), nghiện ma túy,
nhiễm HIV, AIDS, không gọi nhập ngũ vào quân đội.
- Tiêu chuẩn học vấn: Tuyển chọn và gọi nhập ngũ những công dân có
trình độ học vấn lớp 8 trở lên. Những địa phương thực sự khó khăn, không
đảm bảo đủ chỉ tiêu giao quân thì được tuyển chọn số có trình độ học vấn lớp

7. Các xã thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, các xã biên giới
được tuyển từ 20-25% có trình độ học vấn cấp tiểu học, còn lại là trung học


9
cơ sở trở lên, nếu vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu có thể tuyển một số thanh niên
không biết chữ để vừa huấn luyện, vừa học tập để nâng cao trình độ học vấn
nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở cho địa phương sau khi xuất
ngũ. Tích cực tuyển chọn, gọi nhập ngũ những công dân đã tốt nghiệp các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề để giảm
bớt lưu lượng đào tạo trong quân đội, góp phần thực hiện công bằng xã hội và
nâng cao chất lượng xây dựng quân đội.
1.1.2. Quy trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ
Việc tuyển quân sẽ được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ về chỉ tiêu tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hàng năm và giao cho
Tổng Tham mưu trưởng quyết định. Cấp tỉnh và cấp sư đoàn, lữ đoàn, trung
đoàn sẽ tiến hành tuyển quân 2 đợt/năm, mỗi đợt tuyển 50% so với chỉ tiêu cả
năm; cấp huyện và cấp tiểu đoàn tuyển quân một đợt/năm. Sau khi các địa
phương được giao chỉ tiêu tuyển quân thìquy trình tuyển chọn và gọi công
dân nhập ngũ diễn ra theo các bước sau:
- Bước 1: Sơ tuyển tại cơ sở:Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã, phường, thị
trấn tổ chức xét duyệt tiêu chuẩn chính trị và sơ tuyển sức khỏe ngay tại địa
phương mình. Đầu tiên, Ban chỉ huy quân sự xã phối hợp với Ban công an xã
cùng với thôn (bản, ấp, làng, khu phố) rà soát, lập danh danh sách nam thanh
niên trong độ tuổi gọi nhập ngũ. Sau đó, Hội đồng nghĩa phụ quân sự xã sẽ
tiến hành xét duyệt tiêu chuẩn chính trị, đạo đức của các công dân này theo
Thông tư số 167/2010/TTBQP và Thông tư 76/2006/TTLT-BQP-BCA.
Những công dân nào không đảm bảo về tiêu chuẩn chính trị, đạo đức
như phạm tội, đang bị điều tra, xét xử hoặc có những hình xăm phản cảm sẽ
bị loại ra khỏi danh sách công dân thuộc diện gọi nhập ngũ. Tiếp theo, chủ

tịch Hội đồng nghĩa vụ quân sự của xã (chủ tịch xã) phát giấy gọi sơ tuyển
sức khỏe đối với những công dân thuộc diện gọi nhập ngũ, sau đó Ban chỉ


10
huy quân sự xã phối hợp với Trạm y tế xã tổ chức sơ tuyển sức khỏe cho các
công dân này. Việc sơ tuyển sức khỏe được tiến hành theo thông tư số
36/2011/TTLT-BQP-BYT nhằmkiểm tra, đánh giá sơ bộ sức khỏe đối với
những đối tượng trên, phát hiện kịp thời những trường hợp không đủ sức khoẻ
về thể lực, dị tật, dị dạng, mắc bệnh mãn tính, các bệnh thuộc danh mục bệnh
được miễn làm nghĩa vụ quân sự. Sau khi sơ tuyển, lập danh sách công dân đủ
tiêu chuẩn sức khỏe làm nghĩa vụ quân sự và những công dân mắc các bệnh
thuộc diện miễn làm nghĩa vụ quân sự thông qua Hội đồng nghĩa vụ quân sự
xã. Cuối cùng, Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã tổng hợp, lập và đề nghị Hội
đồng nghĩa vụ quân sự huyện danh sách các công dân được gọi nhập ngũ,
được tạm hoãn và miễn gọi nhập ngũ trong thời bình.
Bước 2: Khám tuyển và chốt danh sách gọi nhập ngũ: Trên cơ sở danh
sách đề nghị của Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã, Hội đồng nghĩa vụ quân sự
huyện (quận, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh) lập và duyệt danh sách công
dân được gọi nhập ngũ, được tạm hoãn và miễn gọi nhập ngũ trên địa bàn
huyện, danh sách được niêm yết công khai tại trụ sở ủy ban nhân dân các xã.
Sau đó, chỉ huy trưởng quân sự huyện phát lệnh gọi khám sức khỏe tới các
công dân được gọi nhập ngũ (đã qua vòng sơ tuyển). Tiếp theo, Hội đồng
nghĩa vụ quân sự huyện phối hợp với Phòng y tế huyện, Bệnh viện đa khoa
huyện lập kế hoạch và tổ chức khám sức khỏe cho công dân thuộc diện được
gọi làm nghĩa vụ quân sự để phân loại sức khỏe, xét nhiệm ma túy và HIV đối
với các trường hợp này. Cuối cùng, Hội đồng nghĩa vụ quân sự huyện phối
hợp với đơn vị nhận quân chốt danh sách công dân nhập ngũ theo thứ tự kết
hợp ưu tiên về độ tuổi, sức khỏe, học vấn.
Bước 3: Phát lệnh gọi nhập ngũ, tổ chức bàn giao quân số: Theo quyết

định của Uỷ ban nhân dân huyện, chỉ huy trưởng quân sự huyện (quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh) phát lệnh gọi từng công dân nhập ngũ. Lệnh gọi


11
nhập ngũ phải được đưa trước 15 ngàỳ. Ban chỉ huy quân sự huyện hoàn
chỉnh đầy đủ thủ tục hồ sơ (kể cả hồ sơ đảng viên và đoàn viên) của công dân
được gọi nhập ngũ để giao cho đơn vị nhận quân. Nắm chắc cỡ số quân trang
của các công dân được gọi nhập ngũ để cung cấp cho đơn vị nhận quân cấp
phát quân trang cho phù hợp. Phối hợp với đơn vị nhận quân tổ chức lễ giao
nhận quân theo Hướng dẫn số 2280/HD-QP ngày 16 tháng 8 năm 2000 của
Bộ Quốc phòng.
Trong quá trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, nếu có khiếu nại,
tố cáo liên quan đến các trường hợp công dân được gọi nhập ngũ, được tạm
hoãn và miễn gọi nhập ngũ trong thời bình, được miễn làm nghĩa vụ quân sự
thì Hội đồng nghĩa vụ quân sự tỉnh tổ chức giải quyết các khiếu nại, tố cáo
trên theo hạn định; trường hợp khiếu nại, tố cáo liên đến sức khỏe của công
dân được gọi nhập ngũ thì Hội đồng y khoa tỉnh tổ chức giám định sức khỏe
nghĩa vụ quân sự và đưa ra kết luận cuối cùng. Trường hợp sau khi nhận
quân, đơn vị nhận quân tổ chức phúc tra sức khỏe nghĩa vụ quân sự theo quy
định; nếu phát hiện công dân không đủ tiêu chuẩn phải trả về địa phương thì
thông báo cho cơ quan quân sự cấp huyện đến nhận công dân về và chịu trách
nhiệm đưa công dân khác đủ tiêu chuẩn đến bù đổi tại đơn vị. Thời gian bù
đổi trong 10 ngày, kể từ ngày nhận quân.
Như vậy, có thể thấy quy trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ là
một quy trình phức tạp, được tiến hành và phối hợp bởi nhiều cơ quan chức
năng khác nhau như quân đội, công an, y tế cùng với ủy ban nhân dân các cấp
và cơ sở thôn, khu phố. Về mặt pháp lý, các quy định tuyển quân là khá chặt
chẽ và đầy đủ, nếu các quy định này được tuân thủ nghiêm ngặt thì công tác
tuyển quân của nước ta ở một chừng mực nào đó sẽ đảm bảo được hiệu quả

cũng như đảm bảo được các yếu tố công bằng, khách quan.


12
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG BẰNG
1.2.1. Khái niệmcông bằng
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, công bằng luôn là
vấn đề được quan tâm, gắn liền với những cuộc đấu tranh vì hòa bình, vì sự
phát triển và tiến bộ của con người. Nó tồn tại, xuất phát từ nhu cầu tâm lý
thỏa mãn khách quan của con người, và khi không được thỏa mãn nhu cầu
tâm lý tự nhiên này, con người hay cộng đồng trong mối quan hệ ấy sẽ cảm
thấy bị kìm kẹp, ức chế, dễ đi đến đấu tranh. Thực tế lịch sử đã chứng minh, ở
đâu có áp bức, có bất công, bóc lột thì tất yếu ở đó sẽ xuất hiện những cuộc
đấu tranh đòi lại sự công bằng, thậm chí đã có không ít những cuộc đấu tranh
diễn ra và được thực hiện bằng sinh mệnh của hàng triệu người, tiếp nối qua
nhiều thế hệ.
Tư tưởng về công bằng là cả một quá trình phát triển. Nó bắt đầu từ
những khái niệm sơ khai, đơn giản, dần dần nó được mở rộng ra gắn liền với
lợi ích giai cấp, với nhà nước và pháp luật và được quy định bởi các điều kiện
kinh tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định, bao hàm cả sự giao thoa
giữa tính thời đại với bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Do đó, công bằng
luôn là một khái niệm đa diện, phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt, công bằng có nghĩa là “Theo đúng lẽ phải,
không thiên vị” [36, tr.200]; còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì cho
rằng, công bằng: “Là khái niệm nêu ra sự tương quan giữa một số hiện tượng
theo quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người với người. Công
bằng đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhân (những giai cấp)
với địa vị của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và thù lao, công và
tội, thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ. Không có sự tương xứng trong
quan hệ ấy là bất công” [17, tr.580–581].



13
Trong Báo cáo phát triển thế giới năm 2006 - Công bằng và phát triển,
Ngân hàng thế giới đã đúc kết: “Kể từ những năm 1970, nhiều nhà tư tưởng
có ảnh hưởng lớn như Jhon Rawls, Amartye Sen, Ronald Dworkin và John
Roemer đã có những đóng góp quan trọng cho cách nghĩ về sự công
bằng...Rawls cho rằng, công bằng xã hội đòi hỏi phải thỏa mãn hai nguyên
tắc cơ bản. Nguyên tắc thứ nhất yêu cầu phải mở rộng sự tự do tối đa cho mỗi
người, nhất quán với sự tự do tương tự của người khác. Nguyên tắc thứ hai
yêu cầu cơ hội phải được mở rộng cho tất cả các thành viên trong xã hội và
phải tối đa hóa được cơ hội cho những nhóm thiệt thòi nhất. Sen bổ sung,
những cơ hội mà Rawls đề cập, đó là tập hợp các hành động và các trạng
thái người đó đánh giá cao hoặc thụ hưởng. Còn Dworkin thì cho rằng, công
bằng đòi hỏi các cá nhân phải được đền bù cho những khía cạnh thuộc về
hoàn cảnh của họ mà không có khả năng kiểm soát hoặc họ không chịu trách
nhiệm về nó.Đối với Roemer, công bằng đòi hỏi phải có chính sách cơ hội
bình đẳng. Nhìn chung quan niệm của bốn nhà tư tưởng đều thống nhất với
nhau ở chỗ: Chuyển trọng tâm của công bằng từ kết cục sang cơ hội” [21,
tr.111–113].
Ở Việt Nam, thời gian gần đây cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề công bằng dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, trong đó có
thể kể đến một số cách tiếp cận sau:
Cách tiếp cận thứ nhất tập trung đến đối tượng được thụ hưởng, lấy sự
tương xứng làm cơ sở để đánh giá sự công bằng. Cụ thể, trong luận án phó
tiến sĩ Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, tác giả Võ Khánh
Vinh định nghĩa: “Công bằng là sự đánh giá tương xứng giữa giá trị thực tế
của những cá nhân khác nhau (các nhóm xã hội, các giai cấp) và địa vị xã hội
của họ, giữa lao động và trả công, giữa hành vi và sự đền đáp, giữa công lao
và việc thừa nhận nó, giữa phẩm giá của con người và sự thừa nhận của xã



14
hội đối với những phẩm giá đó, giữa quyền và nghĩa vụ, giữa vi phạm pháp
luật và trách nhiệm....” [35, tr. 16-17]. Trong luận án tiến sĩ Vai trò của pháp
luật trong việc bảo đảm công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, tác giả Vũ
Anh Tuấn định nghĩa: “Công bằng xã hội là khái niệm chỉ sự tương xứng
giữa vai trò và vị thế của các thành viên trong xã hội (cá nhân, giai cấp,
nhóm xã hội), giữa cái mà họ tạo ra được cho xã hội với cái mà họ được nhận
lại từ xã hội (cái tạo ra và cái được nhận lại có thể là điều tốt lành hoặc
ngược lại) như cống hiến và hưởng thụ, lao động và sự trả công, quyền và
nghĩa vụ, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý...Không có sự tương xứng
nói trên là bất công xã hội” [31, tr. 25]...
Cách tiếp cận thứ hai quan tâm đến sự hài hòa xã hội, nghĩa là đối tượng
được thụ hưởng phải phù hợp với các nhóm xã hội, khả năng, hiện thực, và
những điều kiện nhất định.Cụ thể, trong tác phẩm Quản lý sự phát triển xã
hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, GS.TS. Phạm Xuân Nam
định nghĩa: “Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan
hệ phân phối sản phẩm xã hội tương đối hợp lý giữa các cá nhân và nhóm xã
hội, phù hợp với sự cống hiến của mỗi người và khả năng hiện thực của
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [15, tr.14].
Còn theo TS. Nguyễn Minh Tuấn, trong bài viết Luận bàn về sự công
bằng trên Tạp chí Tia sáng của Bộ Khoa học và Công nghệ, tác giả có một lối
tiếp cận vừa tương đồng lại vừa mới mẻ. Ông cho rằng trong kinh tế học,
người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng xã hội đó là: Công
bằng xã hội theo chiều ngang nghĩa là đối xử như nhau đối với những người
có đóng góp như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc theo nghĩa là đối
xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng
lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau. Chẳng hạn trong việc xây dựng



15
chính sách thuế: Những người có khả năng ngang nhau cần phải đóng một
khoản thuế ngang nhau (công bằng theo chiều ngang), và những người có khả
năng hay thu nhập không ngang nhau cần phải áp dụng những khoản thuế
khác nhau (công bằng theo chiều dọc)[32].
Tuy nhiên, GS.TS.Lê Hữu Tầng (Tạp chí Triết học, số 01 năm 2008) lại
bày tỏ quan điểm không tán thành. Ông cho rằng, nếu nội hàm của khái niệm
công bằng xã hội theo chiều ngang ở trên là rõ thì nội hàm của khái niệm
công bằng xã hội theo chiều dọc lại không được rõ như vậy, vì đối xử khác
nhau với những người có các điều kiện sống khác nhau thì mức khác nhau
như thế nào sẽ được coi là công bằng? Thêm nữa, cùng một cách giải quyết
cụ thể trong một trường hợp cụ thể nếu xét theo chiều ngang là công bằng,
nhưng xét theo chiều dọc lại là không công bằng, và ngược lại. Việc phân
định và kết hợp công bằng như vậy sẽ thủ tiêu luôn vấn đề công bằng, khiến
cho vấn đề ấy không còn cần phải xem xét nữa, vì ở khắp nơi, tất cả đều là
công bằng hoặc là không công bằng tuỳ thuộc vào các góc độ xem xét khác
nhau. Vì vậy, khó có thể tán thành với ý kiến cho rằng việc phân định và kết
hợp công bằng theo chiều dọc và chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội
thực sự.
Theo một cách tiếp cận khác thì công bằng xã hội là “Sự bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong mọi quan hệ xã hội và thiết chế xã
hội; mà cốt lõi là sự bình đẳng về thông tin, kinh tế, chính trị và pháp luật”
[14, tr. 288]. Công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người với người
không phải về mọi phương diện, cũng không phải về một phương diện bất kỳ,
mà chỉ về một phương diện đã hoàn toàn xác định: Phương diện giữa cống
hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau.Công bằng xã hội được xem là một dạng, một biểu hiện của bình
đẳng xã hội, là sự hiện thực hóa của bình đẳng xã hội trong cuộc sống.Thực



16
hiện công bằng xã hội chính là thực hiện bình đẳng xã hội từng phần để
hướng tới bình đẳng xã hội ngày càng cao hơn và là tiền đề, điều kiện để thực
hiện bình đẳng xã hội. Câu châm ngôn của Luật Công bằng “Equality is
equity” (bình đẳng là công bằng) được hiểu với ý nghĩa đó [15, tr.16].
Vậy, khi trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp như ở Việt Nam
hiện nay thì chúng ta có thể thực hiện được công bằng xã hội hay không? Như
đã đề cập, công bằng theo nghĩa là cống hiến ngang nhau sẽ hưởng thụ ngang
nhau thì không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện được công bằng, hơn thế
nữa, càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện công bằng
nếu muốn tạo ra sự ổn định cho xã hội. “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công
bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” [20], đó là lời căn dặn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay khi cuộc sống của nhân dân ta còn hết sức thiếu
thốn, gian khổ trong những năm tháng chiến tranh.
1.2.2. Đặc điểm của công bằng
Dưới góc độ pháp lý quốc tế, nguyên tắc công bằng như là nền tảng của
nhà nước pháp quyền hiện đại và là một nguyên tắc quan trọng của nhiều bản
Hiến pháp dân chủ.Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 đều đề cao giá trị bình đẳng,
công bằng, mục đích là chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về
nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, thế
giới quan chính trị, tài sản hay các điều kiện khác. Kế thừa tư tưởng của triết
gia người Anh John Locke, Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 đã khẳng
định:“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Tại Điều 1,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng khẳng định:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự



17
do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép thành lập
trên cơ sở nó đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng”.Ngay cả Luật Công
bình, ra đời trước vào thế kỷ XVI cũng được xây dựng dựa trên đặc trưng là
các nguyên lý xây dựng và áp dụng luật được dựa trên lẽ phải, công lý là
chính.Đến nay, nó vẫn là một trong hai bộ phận chính của hệ thống pháp luật
Anh.
Ở Việt Nam, công bằng là một trong năm thành tố của mục tiêu chung
mà chúng ta đang phấn đấu để đạt tới trên con đường xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Rõ ràng,
công bằng đã và đang đặt ra yêu cầu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; vì vậy, bên cạnh sự cần thiết phải làm sáng rõ nội hàm của khái niệm
công bằng thì chúng ta cũng phải tìm ra các đặc trưng của nó để vận dụng vào
thực tiễn công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta một cách hiệu quả. Theo một số nhà nghiên cứuthì công bằng có những đặc
điểm cơ bản sau:
a) Công bằng là một giá trị xã hội lớn lao, được nhận thức và thực hiện
dưới nhiều góc độ khác nhau với những nội dung yêu cầu khác nhau. Đặc
biệt, dưới góc độ giai cấp, tính lịch sử, bản sắc dân tộc và điều kiện kinh tế xã hội thì điều đó lại càng phức tạp hơn. Do đó, khi nghiên cứu về vấn đề
công bằng, phải đặt khái niệm này trong một phạm vi, yêu cầu nghiên cứu cụ
thể thì mới làm rõ được những nội dung yêu cầu của nó.
b) Trong bất kỳ thời đại nào, công bằng luôn là khái niệm chứa đựng bản
sắc dân tộc hòa quyện với những giá trị chung của nhân loại. Một nền văn hóa
của một dân tộc bao giờ cũng mang đậm bản sắc, tính cách của dân tộc đó
nhưng lại hầu như không có một nền văn hóa nào chỉ đứng một mình, mà bao
giờ nó cũng liên kết với một hay nhiều nền văn hóa khác. Vì vậy, chuẩn mực



18
của công bằng bao giờ cũng đồng thời chịu sự chi phối của bản sắc dân tộc
lẫn những giá trị công bằng chung của nhân loại qua các thế hệ.
c) Trong xã hội có giai cấp, bản thân công bằng cũng vừa mang tính giai
cấp, lại vừa mang tính xã hội. Được quy định bởi địa vị, lợi ích trong xã hội
nên mỗi giai cấp, mỗi thành phần xã hội sẽ có những quan niệm khác nhau về
các chuẩn mực công bằng và cách thức thực hiện nó. Song, các quan niệm đó
cũng phải đặt trong một giới hạn độ nhất định, nghĩa là nó phải được đặt trong
một tổng thể dung hòa ý chí, lợi ích với các giai cấp, các thành phần khác
trong tổng thể xã hội đó. Vì chỉ có như vậy, các chuẩn mực công bằng mới
tạm chấp nhận được và có điều kiện để tiếp tục tồn tại.
d) Công bằng là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử, do đó công bằng cũng mang tính lịch sử cụ thể.
Tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định sẽ có một kiểu quan
niệm công bằng đặc trưng cho hình thái kinh tế xã hội đó; và ngay trong mỗi
hình thái kinh tế - xã hội thì quan niệm về công bằng cũng thay đổi qua từng
giai đoạn.Ví dụ, trong thời kỳ công xã nguyên thủy thì công bằng được quan
niệm là cào bằng, nghĩa là các sản phẩm từ săn bắt hái lượm được chia đều
cho các thành viên.Sang đến thời kỳ chiếm hữu nô lệ và thời kỳ phong kiến
thì công bằng lại được quan niệm trong sự bất công bằng về phân phối sản
phẩm về quyền và nghĩa vụ giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Còn ngày
nay, quan niệm về công bằng lại mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ và khoa học
hơn, đó là công bằng theo hướng thụ hưởng như nhau về quyền và nghĩa vụ,
thụ hưởng thành quả lao đông theo năng lực, hay theo cách tiếp cận bình đẳng
các cơ hội.
e) Công bằng chỉ là một khái niệm mang tính tương đối, bởi lẽ, các chủ
thể trong cùng một xã hội là rất khác nhau, đa dạng về mối quan hệ, đặc điểm,
vai trò, khả năng, các giá trị cũng như vị thế... Vì vậy, mức độ thụ hưởng của



19
họ về lợi ích, tài nguyên, quyền lợi, nghĩa vụ, cơ hội đương nhiên cũng không
thể giống nhau hoàn toàn.
g) Công bằng luôn có quan hệ chặt chẽ với chân lý, các giá trị dân chủ,
nhân đạo, văn minh. Trên thực tế, để đánh giá một hoạt động nào đó có công
bằng hay không thì tất nhiên không thể không dựa vào chân lý, đó là những tri
thức phù hợp với hiện thực khách quan đã được kiểm chứng qua thực tiễn,
cho nên sẽ không công bằng khi chúng ta đánh giá hay phán xét một hiện
tượng nào đó có công bằng hoặc bất công mà lại chỉ dựa vào những tín hiệu
tôn giáo hay những luận cứ thiếu khoa học. Ở phương diện chung, nhân đạo,
dân chủ, văn minh là các giá trị mà mọi xã hội đều hướng tới, ở đó quyền con
người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi vấn đề xã hội, điều đó hoàn toàn
phù hợp với mục đích tự thân của công bằng khi bản thân nó luôn hướng tới
sự thỏa mãn tốt đẹp của con người. Có thể nói dân chủ, công bằng, văn minh
chính là cơ sở, là điều kiện cần thiết để xây dựng và đảm bảo một xã hội công
bằng, đến lượt mình công bằng sẽ thúc đẩy, củng cố xã hội đạt đến mức độ
dân chủ, văn minh và nhân đạo hơn. Thật vậy, không thể hình dung về một xã
hội dân chủ mà lại thiếu công bằng, chỉ trong một xã hội dân chủ bài bản,
đúng nghĩa mới có những tiền đề, khả năng cho sự tồn tại của những chuẩn
mực công bằng đích thực.
Tóm lại, những đặc trưng trên cho thấy công bằng là một khái niệm đa
diện, phức tạp không chỉ trong lý luận mà còn cả trong thực tiễn.Để tránh sự
phức tạp ngay trong bản thân nội hàm của khái niệm công bằng nên trong
Luận văn của mình, tác giả chủ yếu sử dụng khái niệm công bằng theo nghĩa
của Từ điển Tiếng Việt là “Theo đúng lẽ phải, không thiên vị”.Đây không chỉ
là một khái niệm gần gũi, dễ hiểu, mà thực tế còn phù hợp với cách hiểu
chung của xã hội và cũng rất phù hợp với mục đích tiếp cận vấn đề của Luận
văn.Ở cách tiếp cận này, trongmột phạm vi nhất định, công bằng được hiểu là



20
đồng nghĩa với bình đẳng. Bình đẳng là sự ngang nhau về một giá trị, phương
diện nào đó bất chấp các chủ thể có sự khác nhau về đặc điểm, địa vị, vai trò,
khả năng thực tế...chẳng hạn bình đẳng về quyền con người, bình đẳng giới,
bình đẳng trước pháp luật...Và xét trong mối quan hệ bình đẳng, công bằng
được thể hiện qua sự đối xử không thiên vị giữa các bên chủ thể, tức là theo
đúng lẽ phải, không thiên về bên nào.
1.3. CÔNG BẰNG VÀ ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG TRONG
TUYỂN CHỌN VÀ GỌI CÔNG DÂN NHẬP NGŨ Ở VIỆT NAM

1.3.1. Công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ ở Việt
Nam
Đảm bảo công bằng trong tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ chính là
cơ sở để đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ
quân sự. Không lâu sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải đương đầu
với những cuộc chiến tranh khốc liệt để giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước. Đó là một trong những lý do để nghĩa vụ quân sự luôn được đề cao
trong các bản hiến pháp của Việt Nam qua các thời kỳ.
Hiến Pháp 1946 quy định: “Mỗi công dân Việt Nam phải bảo vệ Tổ
quốc” (Điều 4). “Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính”(Điều 5). Hiến
Pháp năm 1959quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý
nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.Công dân có bổn phận
làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc” (Điều 42). Hiến pháp năm 1980:
“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
của nhân dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc
phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.Tất cả
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ



21
quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định” (Điều 52).Hiến pháp 1992 (sửa
đổi năm 2013) khẳng định: “ Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền
cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia
xây dựng quốc phòng toàn dân” (Điều 45).“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân.Nhà nước củng cố và tăng cường nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang
nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.Cơ quan, tổ chức,
công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”(Điều 6)
[26].
Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2005 quy định: “Nghĩa vụ quân sự là nghĩa
vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam” (Điều
2). “Công dân nam, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng
tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại
ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam” (Điều 3). “Công dân nam đủ mười
tám tuổi được gọi nhập ngũ, độ tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ mười
tám tuổi đến hết hai mươi lăm tuổi” (Điều 12)[27].
Như vậy, theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, việc thực hiện nghĩa vụ
quân sự ở Việt Nam đối với nam thanh niên là nghĩa vụ bắt buộc, không phân
biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, nơi cư trú. Các hành vi vi phạm phải bị xử lý về hành chính hoặc hình
sự hoặc theo Điều lệnh của quân đội. Quy định này là sự kế thừa các bản Hiến
pháp, Luật Nghĩa vụ quân sự trước đây, góp phần đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
Xuất phát từ ý nghĩa, đặc điểm của khái niệm công bằng và xuất phát từ
cơ sở lý luận, pháp lý nêu trên, công bằng trong công tác tuyển chọn và gọi



22
công dân nhập ngũ được hiểu rằng không có sự thiên vị trong hoạt động tuyển
chọn và gọi công dân nhập ngũ của các cơ quan chức năng; dù cho những
nam thanh niên trong hạn tuổi nhập ngũ ở cùng một địa bàn cơ sở có sự khác
biệt về kinh tế, dân tộc, tôn giáo, thành phần gia đình hay trình độ văn hóa.
Nghĩa là công tác này phải được thực hiện một cách khách quan để đảm bảo
rằng những thanh niên ưu tú nhất theo quy định của pháp luật sẽ phải lên
đường làm nghĩa vụ đối với tổ quốc. Trên cơ sở đó, tính công bằng còn có thể
được mở rộng ra trên bình diện cả nước giữa các địa phương ở các vùng miền
khác nhau dựa trên bình quân tương đối về quy mô dân số. Ví dụ, Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh có dân số đông thì số lượng nam thanh niên nhập ngũ
cũng phải lớn tương ứng với số dân, dù cho ở những thành phố này nảy sinh
những khó khăn đặc thù như không gian đô thị chật hẹp nên tỉ lệ thanh niên bị
cận thị cao, hay học vấn cao không muốn cho con đi lính. Tuy nhiên, những
lý do kiểu này là không thuyết phục.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng đặt ra vấn đề tính công bằng có cần thiết
phải được mở rộng ra giữa những thanh niên được lựa chọn lên đường nhập
ngũ với những thanh niên không phải nhập ngũ; hay giữa những gia đình có
con em đi lính trong khi những gia đình còn lại thì con em của họ có điều kiện
tiếp tục lao động, học tập khi mà bảo vệ Tổ quốc lại là nghĩa vụ chung. Vì
vậy, nên chăng những gia đình này phải có những đóng góp vật chất ở một
mức độ nhất định nào đó cho công tác quốc phòng của đất nước nói chung,
đồng thời góp phần đảm bảo tính công bằng của việc tuyển chọn và gọi công
dân nhập ngũ nói riêng. Với ý nghĩa đó, công tác tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũ đang được cả xã hội mong đợi ở sự công bằng, công tâm, nghiêm
minh, khách quan và hợp tình, hợp lý.



×