Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ CHẾ ĐIỀU HÒA VỐN TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH DOANH VÀ CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.49 KB, 29 trang )

CƠ CHẾ ĐIỀU HÒA VỐN TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH
DOANH VÀ CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
I. TẬP ĐOÀN KINH DOANH: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC
MÔ HÌNH
1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các Tập
đoàn kinh doanh
1.1. Khái niệm Tập đoàn kinh doanh
Mô hình TĐKD (TĐKD) là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh gồm
nhiều doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm tạo thế mạnh chung trong việc thực
hiện những mục tiêu nhất định. Những doanh nghiệp tham gia tập đoàn đều có tư
cách pháp nhân độc lập, liên kết với nhau ở mức độ chặt chẽ hoặc lỏng lẻo thông
qua các mối quan hệ tài sản, phân công và hợp tác.
Đáp ứng nhu cầu liên kết bậc cao giữa các doanh nghiệp trong nền sản xuất
lớn, từ những năm 1960 các TĐKD đã nối tiếp nhau ra đời và ngày càng phát triển.
Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng TĐKD được hiểu là tổ hợp các
công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một
nước hay nhiều nước trong đó có một “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối
hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính và chiến lược phát triển. TĐKD
là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh
tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng cường khả năng cạnh tranh và tối đa
hoá lợi nhuận.
1.2. Tính tất yếu của các Tập đoàn kinh doanh
TĐKD đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển của kinh
tế thế giới, khoảng cuối thế kỷ 19 gắn với quá trình công nghiệp hoá dồn dập ở
Châu Âu và ở Mỹ. Công việc này đòi hỏi phải có một lượng vốn khổng lồ. Để khắc
phục nguồn vốn hạn chế của các cá nhân, doanh nghiệp đơn lẻ, Chính phủ các
nước đã khuyến khích thành lập các công ty cổ phần lớn và đó là tiền thân của các
TĐKD sau này. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và tích tụ, tập trung vốn đặc
biệt phát triển mạnh vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai và đã tạo ra
một làn sóng hợp nhất mạnh mẽ chưa từng có để hình thành các tập đoàn tư bản


cực lớn.
Tích tụ và tập trung đẩy mạnh quá trình liên kết ngang và liên kết dọc dẫn
đến quá trình liên kết đa ngành, đa chức năng trong từng TĐKD. Việc hình thành
và phát triển có hiệu quả của các TĐKD đã đưa chúng trở thành những trung tâm
thu hút, thâu tóm hàng loạt các công ty khác xung quanh nó. Kết quả các TĐKD
ngày càng trở nên hùng mạnh. Sở dĩ TĐKD được hình thành, có sức sống mãnh
liệt và có sự phát triển không ngừng như vậy bởi vì nó phù hợp với các quy luật
khách quan và những xu thế phát triển của thời đại:
Thứ nhất: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ
khoa học công nghệ và liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu, rộng
của phân công lao động xã hội, đến quy mô của sản xuất và tiêu thụ, sản xuất kinh
doanh không còn manh mún, rời rạc và sở hữu không còn là sở hữu cá thể nữa mà
đã và đang đi sâu vào xã hội hoá, vào hợp tác, phân công và sở hữu hỗn hợp.
TĐKD với tư cách là một loại hình tổ chức kinh tế, tổ chức kinh doanh, tổ chức
liên kết kinh tế, có nghĩa nó là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất cần phải ra
đời, phát triển để đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là: Quy luật tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất.
Trong cơ chế thị trường vô cùng năng động, mỗi doanh nghiệp là một tế bào
của nền kinh tế, nó phải tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt, do đó
phải tái sản xuất mở rộng không ngừng. Quá trình đó cũng là quá trình tích tụ, tập
trung vốn vào sản xuất. Để thực hiện quá trình này doanh nghiệp phải tích luỹ từ
lợi nhuận thu được, đồng thời phải tìm cách tăng vốn từ lợi nhuận đi vay, liên
doanh liên kết,... theo đó, TĐKD ra đời và phát triển.
Ba là: Quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp không bao giờ chấm dứt ấy sẽ
dẫn đến 2 xu hướng chính:
- Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính và sát nhập

các doanh nghiệp thất bại để nâng cao trình độ hóa sản xuất.
- Nếu cạnh tranh qua nhiều năm mà không phân thắng bại thì trong số các
doanh nghiệp đó sẽ có sự liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Có 3 hình thức
liên kết giữa các doanh nghiệp:
+ Liên kết ngang: diễn ra giữa các công ty trong cùng một ngành.
+ Liên kết dọc: là sự liên kết giữa các công ty trong cùng một dây chuyền
công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi công ty đảm nhận một bộ phận hoặc một số
công đoạn nào đó.
+ Liên kết hỗn hợp: là sự kết hợp liên kết ngang và dọc, gồm rất nhiều các
công ty hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau, ít nhất không có mối liên hệ
kinh tế với nhau. Đó là sự liên kết đa ngành, đa lĩnh vực.
Bốn là: Tiến bộ khoa học công nghệ.
Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ chính là yếu tố quyết
định giúp các doanh nghiệp thắng trong cạnh tranh và đạt tới lợi nhuận cao.
Để đổi mới công nghệ cần phải có nhiều vốn, nhiều thời gian trong khi độ
rủi ro lại cao và cần phải có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đủ mạnh. Một doanh
nghiệp nhỏ, biệt lập, manh mún không đủ sức làm việc đó. Điều đó đòi hỏi phải có
một doanh nghiệp lớn, mà TĐKD là một loại hình tiêu biểu.
1.3. Các phương thức hình thành Tập đoàn kinh doanh
Trên thực tế các TĐKD được hình thành theo các cách thức sau:
- Các công ty lớn mạnh thôn tính các công ty nhỏ yếu. Nhờ hoạt động có
hiệu quả, công ty lớn thôn tính các công ty con dưới các hình thức mua toàn bộ các
công ty con hoặc mua cổ phần với khối lượng lớn đủ để nắm quyền kiểm soát
trong Hội đồng quản trị ( HĐQT ) công ty và buộc các công ty bị thôn tính phải
phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương thức chiến lược của tập
đoàn và công ty mẹ.
- Các công ty tự nguyện đàm phán, tự nguyện sát nhập hợp nhất thành một
công ty mới lớn hơn hoặc liên kết xung quanh một công ty lớn được tôn sùng là
công ty đầu đàn. Trong sự hợp nhất này có sự tham gia góp vốn của các công ty
thành viên vào công ty đầu đàn và ngược lại. Có thể nói rằng đây là quá trình sát

nhập tự nguyện do tác động của nhiều nguyên nhân. Các công ty thành viên cảm
thấy nguy cơ bị thôn tính do sức ép cạnh tranh của các công ty khác lón hơn nếu
chúng cứ tồn tại một cách biệt lập. Vì vậy, họ phải tự ngồi lại với nhau để đàm
phán ký kết hợp đồng hoặc thỏa ước liên kết dưới các hình thức khác nhau để
chống lại những thách thức từ bên ngoài. Có thể là thỏa ước về phân chia thị
trường sản phẩm, nguyên liệu, quy định giá cả hoặc cùng góp vốn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh.
2. Đặc điểm của Tập đoàn kinh doanh
Nghiên cứu một số TĐKD trên thế giới, dễ nhận thấy rằng các TĐKD có
một số đặc điểm chủ yếu sau:
- TĐKD có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. Nhiều
TĐKD có phạm vi hoạt động rộng, có các chi nhánh hoạt động trên nhiều quốc gia
trên phạm vi toàn cầu.
- TĐKD là một tổ hợp các công ty, gồm “công ty mẹ” và các “công ty con,
cháu” phần lớn mang họ của “công ty mẹ”. Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ
phần trong các công ty con, cháu. Nó chi phối các công ty này về chiến lược phát
triển. Do vậy, sở hữu vốn của các TĐKD là sở hữu hỗn hợp nhưng có một chủ
(công ty mẹ) đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính.
- TĐKD hoạt động chuyên ngành hoặc đa ngành, đa lĩnh vực. Mỗi TĐKD
đều có định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực kinh doanh đặc trưng, mũi nhọn. Bên
cạnh các đơn vị sản xuất, trong các TĐKD thường có các tổ chức tài chính trung
gian như ngân hàng, bảo hiểm; thương mại dịch vụ, nghiên cứu khoa học, đào
tạo,... Xu hướng chung là các tổ chức tài chính và quá trình nghiên cứu ứng dụng
ngày càng được chú ý hơn vì nó là đòn bẩy cho sự phát triển của các TĐKD.
- TĐKD tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như: huy động,
điều hoà, quản lý vốn, nghiên cứu triển khai, đào tạo, xây dựng chiến lược phát
triển, chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư. Như vậy,
TĐKD làm cả hai chức năng cơ bản là kinh doanh như một doanh nghiệp và liên
kết kinh tế.
3. Vai trò, ý nghĩa của các Tập đoàn kinh doanh

Trên thực tế, sự phát triển kinh tế của những quốc gia phát triển trên thế giới
luôn gắn với sự phát triển của các TĐKD. Dưới góc độ quản trị tài chính, sự hình
thành và phát triển của các TĐKD có ý nghĩa và tác dụng trên những mặt chủ yếu
sau:
Thứ nhất, làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của Tập đoàn
cũng như của từng công ty thành viên. TĐKD cho phép huy động được những
nguồn lực to lớn trong xã hội cho quá trình sản xuất kinh doanh, cải tạo cơ cấu sản
xuất, hình thành các công ty hiện đại, quy mô và có tiềm lực kinh tế. TĐKD hạn
chế tối đa sự cạnh tranh nội bộ, mặt khác tạo sự thống nhất, giúp đỡ nhau chiến
thắng trong cạnh tranh với các công ty khác, đặc biệt là với các Tập đoàn tư bản
nước ngoài.
Đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa như nước ta, TĐKD
có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó là giải pháp chiến lược bảo vệ sản xuất trong nước
chống lại sự thâm nhập của các “gã khổng lồ” của nền kinh tế thế giới. Thực tế chỉ
ra rằng, ngay ở các nước đang phát triển, với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các
TĐKD vẫn có thể không ngừng mở rộng và vươn ra thị trường thế giới...
Hai là: Tích tụ, tập trung và điều hoà vốn.
TĐKD là giải pháp cho sự hạn chế về vốn của từng công ty cá biệt. Trong
các TĐKD, nguồn vốn huy động được tập trung đầu tư vào những công ty, những
lĩnh vực có hiệu quả nhất, khắc phục tình trạng vốn bị phân tán. Nhờ vậy:
+ Vốn của các công ty thành viên luôn được sử dụng vào những nơi có hiệu
quả nhất.
+ Tập trung đầu tư vốn vào những dự án tạo ra sức mạnh quyết định cho sự
phát triển của tập đoàn.
+ Vốn của công ty này được huy động vào công ty khác và ngược lại, giúp
cho các công ty liên kết với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn
và giúp nhau phát huy hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả Tập đoàn.
Ba là: Thành lập các TĐKD là một giải pháp hữu hiệu, tích cực cho việc đẩy
mạnh việc nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất
kinh doanh của các công ty thành viên, bởi vì:

+ Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi một lượng
vốn rất lớn mà mỗi công ty riêng biệt sẽ rất khó huy động được. Tập trung và điều
hoà vốn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cần thiết cho triển khai
nghiên cứu ứng dụng khoa học mới vào sản xuất.
+ Các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lớn đòi hỏi phải có sự
hợp lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên
cứu mà chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty lại mới tạo ra được tiềm năng nghiên
cứu khoa học to lớn đó.
+ Thông qua sự hợp tác trao đổi thông tin và những kinh nghiệm trong
nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ cho phép các công ty thành viên có khả
năng đưa nhanh những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn
hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn nhanh.
Bốn là: TĐKD với các hình thức là công ty đa quốc gia có ý nghĩa rất lớn,
được coi là giải pháp quan trọng giúp các nước công nghiệp hóa sau thực hiện
chiến lược chuyển giao công nghệ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất. Các tập
đoàn với chiến lược chung về phát triển và chuyển giao công nghệ đã giúp cho các
nước giải quyết một số vấn đề sau đây:
+ Tránh nhập cùng một loại công nghệ trùng lắp trong nhiều công ty thành
viên, nhờ đó cơ cấu công nghệ trong tập đoàn đa dạng, hợp lý và có hiệu quả hơn.
+ Việc phổ biến rộng rãi những thông tin và kinh nghiệm trong chuyển giao
công nghệ từ các công ty thành viên trong tập đoàn sẽ giúp tránh được những sai
lầm đáng tiếc có thể xảy ra do thiếu những hiểu biết cơ bản trong chuyển giao công
nghệ nước ngoài.
+ Thông qua sự chỉ đạo thống nhất, các công ty thành viên sẽ lựa chọn được
những công nghệ thích hợp trong chuyển giao công nghệ với chi phí thấp nhất,
giảm lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào việc thực hiện những mục tiêu
chiến lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cho cả tập đoàn.
4. Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh doanh
Hiện nay trên thế giới, người ta phân chia TĐKD thành các loại hình tổ chức
khác nhau theo nhiều cách:

4.1. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức, các
TĐKD trên thế giới được phân thành 3 loại hình sau:
- Những TĐKD được thành lập theo nguyên tắc “kết hợp chặt chẽ trong một
tổ chức kinh tế ”, các công ty thành viên thuộc một tổ chức thống nhất và mất tính
độc lập về tài chính, sản xuất và thương mại. Những TĐKD này được cấu tạo dưới
dạng đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu
khác nhau.
- Những TĐKD được thành lập theo nguyên tắc “liên kết kinh tế” thông qua
những hiệp ước và hợp đồng kinh tế. Các công ty thành viên ký kết hợp đồng thoả
thuận với nhau về những nguyên tắc chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh
như xác định quy mô sản xuất, hợp tác nghiên cứu trao đổi bằng phát minh sáng
chế kỹ thuật. Về tổ chức thường có ban quản trị chung điều hành các hoạt động
phân phối của tập đoàn theo đường lối chung thống nhất, nhưng những công ty
thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức sản xuất và thương mại của
mình.
- Những TĐKD được thành lập trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính
và kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định, hình thành một
công ty tài chính chung gọi là Holding Company.
Công ty này trở thành công ty mẹ của tập đoàn. Đây là hình thức phát triển
cao của TĐKD. Trong TĐKD không chỉ còn thống nhất hạn chế những hoạt động
mà lúc này đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực từ tài chính đến các hoạt động sản xuất,
thương mại, dịch vụ.
4.2. Căn cứ vào hình thức biểu hiện và tên gọi, trong thực tiễn các TĐKD có
các hình thức sau:
- Cartel: Là loại hình TĐKD giữa các công ty trong một ngành, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, cùng ký hợp đồng với nhau hoặc thoả thuận kinh tế nhằm mục
đích hạn chế cạnh tranh.
Trong các Cartel các công ty vẫn giữ nguyên độc lập về mặt pháp lý, còn
tính độc lập về mặt kinh tế được điều hành bằng hợp đồng kinh tế. Đối tượng của
những thoả thuận kinh tế có thể là: thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu

thụ sản phẩm,...Tuy nhiên do các Cartel thường dẫn đến độc quyền nên Chính phủ
nhiều nước ngăn cấm và hạn chế hình thức tập đoàn này bằng cách thông qua
những đạo luật chống độc quyền hay luật Cartel.
- Syndicate: Thực chất đây là một dạng đặc biệt của Cartel. Trong Syndicate
có một văn phòng thương mại chung được hình thành do một ban quản trị chung
điều hành và tất cả các công ty thành viên phải tiêu thụ hàng hóa qua kênh của văn
phòng tiêu thụ này.
- Trust: là một liên minh độc quyền của các tổ chức sản xuất kinh doanh do
một ban quản trị thống nhất điều hành. Khi gia nhập Trust, các doanh nghiệp bị
mất độc quyền về thương mại, các nhà tư bản trở thành cổ đông. Việc thành lập
Trust nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao, chiếm nguồn nguyên liệu và khu vực đầu
tư.
- Consortium: là một trong những hình thức tổ chức độc quyền ngân hàng
nhằm mục đích chia nhau mua trái khoán trong và ngoài nước hoặc tiến hành công
việc buôn bán nào đó.
- Concern: là hình thức tập đoàn phổ biến nhất hiện nay. Concern không có
tư cách pháp nhân. Các công ty thành viên trong các Concern vẫn giữ nguyên độc
lập về pháp lý. Mối quan hệ giữa các thành viên trong Concern dựa trên cơ sở
những thỏa thuận về lợi ích chung như: phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học
công nghệ, hợp tác sản xuất kinh doanh và có hệ thống tài chính chung.
- Conglomerate: là một tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành
viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất với nhau mà chủ yếu quan hệ về tài
chính và hành chính. Conglomerate được hình thành bằng cách thu hút vốn cổ
phần của những công ty có lợi nhuận cao nhất thông qua thị trường chứng khoán.
Đặc điểm cơ bản của hình thức TĐKD này là hoạt động của nó chủ yếu nhằm mở
rộng phạm vi kiểm soát tài chính. Do đó, các Conglomerate có mối quan hệ chặt
chẽ với các ngân hàng. Vai trò của ngân hàng và các tổ chức tín dụng với các
Conglomerate là cực kỳ to lớn.
- Các TĐKD xuyên quốc gia: là những công ty có quy mô tầm cỡ quốc tế
với hệ thống chi nhánh dày đặc ở nước ngoài. Nó gồm hai bộ phận là công ty mẹ

thuộc nước chủ nhà và hệ thống chi nhánh ở nước ngoài. Mối quan hệ giữa công ty
mẹ và các công ty chi nhánh là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chủ yếu về tài
chính, công nghệ và kỹ thuật. Các công ty chi nhánh có thể mang hình thức công ty
100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ty hỗn hợp với hình thức góp vốn
cổ phần.
II. CƠ CHẾ ĐIỀU HÒA VỐN TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH
DOANH
1. Vốn và yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả
1.1. Khái niệm vốn
Vốn có vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại,
phát triển của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, do vậy nó được đặc biệt
quan tâm. Khái niệm về vốn cho đến nay vẫn là một đề tài gây nhiều tranh luận.
Tùy theo cách tiếp cận cũng như những mục đích khác nhau mà các khái niệm về
vốn được đưa ra, song nhìn chung có một số khái niệm đáng chú ý sau:
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ là các yếu tố của sản xuất, ông cho
rằng:
“ Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá
trình sản xuất ”. Định nghĩa này có tính khái quát cao, song do hạn chế của trình độ
phát triển của nền kinh tế đương đại, ông cho rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư.
Paul. A. Samuelson - nhà kinh tế học hiện đại cho rằng “ vốn ” là một loại
hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho
hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp, bao gồm máy móc, vật tư, trang thiết bị,
nguyên liệu,...Quan niệm của ông là một bước tiến lớn so với các bậc tiền bối của
ông, song ông không đề cập đến các tài sản tài chính, giấy tờ có giá đem lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Như vậy, ông đã đồng nhất vốn với tài sản cố định của
doanh nghiệp.
Trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa
“vốn hiện vật” và “vốn tài chính” của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng
hoá để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá khác.

Vậy là ông đã bổ sung thêm một khoản mục vào định nghĩa của P.Samuelson.
Nhìn chung, trong hai khái niệm về vốn trên, các tác giả đều thống nhất ở
một điểm chung cơ bản là: vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, các tác giả đã đồng nhất vốn với các tài sản của doanh nghiệp. Thực
chất, vốn là biểu hiện bằng tiền, là toàn bộ giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang
nắm giữ; vốn và tài sản, là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn lực
sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những
giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp.
Khái niệm này chỉ ra vốn là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Nó cũng đề
cập đến vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình riêng biệt, chia cắt mà trong
toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian tồn tại của
doanh nghiệp, kéo dài từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên tới chu kỳ cuối
cùng. Vai trò của vốn được thể hiện khá rõ ràng qua khía cạnh đó. Ngoài ra, khái
niệm còn cho thấy sự khác biệt cơ bản trong quan niệm cơ bản về vốn và tài sản
khi khẳng định vốn là “các giá trị ”.
Chúng ta cũng cần phải phân biệt sự khác nhau giữa vốn và tiền, hai phạm
trù hay bị lẫn lộn. Vốn chính là tiền nhưng tiền được đưa vào quá trình sản xuất
kinh doanh, đầu tư nhằm tăng thêm giá trị cho chủ sở hữu.
Tóm lại, có thể nhận định “Vốn là giá trị được biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm mục đích sinh lời.”
1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Xã hội loài người đã từng trải qua nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp.
Trong nền kinh tế này, sản phẩm làm ra nhằm để thoả mãn nhu cầu của từng cá
nhân, từng gia đình cụ thể. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động
được mở rộng, nền kinh tế hàng hoá ra đời. Kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi các
thị trường hay ta thường gọi là kinh tế thị trường. Lịch sử phát triển xã hội đã
chứng minh đây là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hóa cho hiệu quả kinh

tế cao. Kinh tế thị trường có ưu điểm là hết sức năng động, mềm dẻo, tự cân đối, tự
điều chỉnh, tạo môi trường công bằng, kích thích sự phát triển. Tuy nhiên, kinh tế
thị trường cũng có những khuyết tật cố hữu của nó như làm xuất hiện tình trạng
độc quyền, xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế,... cần có sự can
thiệp ở quy mô rộng do một thế lực đủ mạnh, đó là Nhà nước. Nhà nước đặt ra một
môi trường pháp lý, cho phép các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong khuôn khổ
luật pháp.
Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề kinh tế cơ bản: “sản xuất cái gì? ”,
“sản xuất như thế nào? ”, “sản xuất cho ai? ” được giải quyết hoàn toàn khác so với
các hình thái kinh tế xã hội khác. Việc sản xuất cái gì là do nhu cầu thị trường
quyết định, nhà sản xuất và người tiêu dùng gặp nhau trên thị trường để định giá cả
và sản lượng. Để sản xuất cái gì, nhà doanh nghiệp phải tìm hiểu, nắm bắt thông
tin về nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị thuộc chủ sở
hữu. Điều này sẽ dẫn họ đến khu vực sản xuất hàng hóa mà người tiêu dùng có nhu
cầu cao hơn và nó cũng mách bảo các nhà sản xuất kinh doanh rời bỏ những khu
vực mà người tiêu dùng ít có nhu cầu.
Sản xuất theo phương thức nào được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa
những người sản xuất. Cách duy nhất để doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về
giá và đạt được lợi nhuận tối đa là giảm chi phí tới mức tối thiểu bằng việc áp dụng
những phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất, tiết kiệm chi phí trong mọi công
đoạn.

×