Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.65 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG VĂN THỰC

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các cố liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Văn Thực


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ
ÁN HÌNH SỰ .................................................................................................................6
1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự .............................6
1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ...................................................6
1.1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ..............................................................................9
1.2. Cở sở, ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự .............................................12
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................16
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI
ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................................................................18
2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự ......................................................................................18
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong

giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ............................................................................18
2.1.2. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. ....................22
2.2. Quy định về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự ......................................................................................................................30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................32


Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ.........................................................................................................33
3.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự .....................................................................33
3.1.1. Những kết quả đạt được ..............................................................................33
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế ................................................................................38
3.1.3. Nguyên nhân những hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự .................41
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ............48
3.2.1. Giải pháp lập pháp .....................................................................................48
3.2.2. Các giải pháp khác .....................................................................................53
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................59
KẾT LUẬN ..................................................................................................................61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ..................................................................62


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:


Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

KSHĐTP:

Kiểm sát hoạt động tƣ pháp

KSV:

Kiểm sát viên

KTVAHS:

Khởi tố vụ án hình sự

QĐKTVA:

Quyết định khởi tố vụ án

THQCT:

Thực hành quyền công tố


TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
3.1

Số vụ án VKS trực tiếp khởi tố và yêu cầu CQĐT khởi tố

34

3.2

Số vụ án VKS hủy quyết định khởi tố và không khởi tố của

35


CQĐT
3.3

Số vụ án và số bị can VKS và CQĐT quyết định đình chỉ

40


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự (TTHS), khởi tố vụ án hình sự (KTVAHS) là giai đoạn đầu
tiên có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Giai
đoạn này có nhiệm vụ xác định có sự việc xảy ra hay không, nếu xảy ra thì có hay
không dấu hiệu của tội phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, nhằm xử lý kịp thời
nghiêm minh các hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô
tội, góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ. Kết
thúc giai đoạn này, khi đã khởi tố vụ án Cơ quan điều tra (CQĐT) đƣợc tiến hành các
biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cƣỡng chế tố tụng để nhanh chóng phát hiện tội
phạm và ngƣời phạm tội. Vì vậy, nếu các hoạt động tố tụng không thực hiện đúng
trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định ở giai đoạn này, rất có
thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, làm oan sai
ngƣời vô tội… Là cơ quan tƣ pháp có chức năng thực hành quyền công tố (THQCT)
và kiểm sát hoạt động tƣ pháp (KSHĐTP) nên Viện kiểm sát (VKS) có vị trí vô cùng
quan trọng trong giai đoạn khởi tố. Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát
là cơ quan tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Nghị quyết số 08/NQTW
ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân Theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố

tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm
nhiệm vụ. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật;
những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn
lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong
bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình" [04].
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08 – NQ/TW, ngày 02/6/2005, Ban Chấp
hành Trung ƣơng đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/ TW về chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020 [05]. Theo đó, VKS tập trung vào chức năng công tố, nghiên cứu
việc chuyển VKS thành Viện công tố, tăng cƣờng hơn nữa vai trò của VKS đối với


2
hoạt động điều tra. Cùng với đó trong thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và
ban hành nhiều văn bản pháp luật nhƣ: Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKS năm
2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động của các cơ quan tƣ
pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới
liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung
các quy định của luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS. Từ lý do trên, tác
giả quyết định chọn đề tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong khởi tố
vụ án hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này,
qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo
những khía cạnh sau:
Nghiên cứu chung về việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Điển hình nhƣ: Nguyễn Minh Đức: “Về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
theo tinh thần cải cách tư pháp”, (Tạp chí chuyên ngành), 2006, Hà nội; Lê Hữu Thể,

“Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư
pháp” (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2008; Khuất Duy Nga: “Những chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong thời kì đổi mới” (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005: Đỗ Văn
Dƣơng: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
(Tạp chí chuyên ngành)…
Nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực cụ
thể, nhƣ: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tƣ Pháp, Hà Nội, 2005; Phạm
Mạnh Hùng: Hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự về quan hệ giữa
Viện kiểm sát và cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự (Tạp chí chuyên ngành) 2007,
Hà Nội…
Một số công trình nghiên cứu về VKS trong giai đoạn khởi tố nhƣ: “Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự”, Luận văn
thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thành Trì, năm 1996; “Chức năng của Viện kiểm sát trong


3
tố tụng hình sự”, Luận văn thạc sỹ của tác giả Võ Phƣớc Long thực hiện năm 2007;
“Kiểm sát hoạt động khởi tố và điều tra vụ án hình sự”…
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động của VKS nhân dân nói chung và một số công trình, bài viết nghiên
cứu về chức năng hoạt động của VKS trên một số lĩnh vực cụ thể. Về vấn đề: “Nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự”
có một số công trình đề cập đến nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện hoặc chƣa nghiên cứu dƣới góc độ coi khởi tố vụ án là một giai đoạn
tố tụng độc lập mà vẫn gắn liền với giai đoạn điều tra. Hơn nữa, các công trình khoa
học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật đã đƣợc sửa đổi,
bổ sung với nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể
và toàn diện hơn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và
thực trạng về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và một
số vấn đề về trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố. Đồng thời nghiên cứu thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam (từ
năm 2009 – năm 2013) để thấy đƣợc những tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó, đƣa ra
những giải pháp góp phần nâng cao chất lƣợng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. (Đề tài không nghiên cứu số
liệu của VKS quân sự).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm và đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc về cải cách tƣ
pháp.


4
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ Lý luận- thực tiễn, lịch
sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, logic, điều tra xã hội học… nhằm giải quyết
mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự cùng với việc làm rõ vấn đề quyền
công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự, những quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; đánh giá thực trạng việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này, luận văn đƣa
ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự.
5.2. Nhiệm vụ của đề tài
Với mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề chung nhƣ: khái niệm về: nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của Viện kiểm sát và vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật.
- Nghiên cứu một cách khái quát những quy định của pháp luật TTHS và những
văn bản pháp luật có liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự.
- Phân tích những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những vƣớng mắc, bất cập trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự. Làm cơ sở cho việc đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt
động của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
- Thứ nhất, đề tài góp phần tạo sự thống nhất trong nhận thức về nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của VKS cùng với vấn đề về thực hành quyền công tố và kiếm sát
việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.


5
- Thứ hai, với việc đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật TTHS về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự,
đề tài đã giải quyết đƣợc những hạn chế, vƣớng mắc trong việc thực hiện những quy
định của pháp luật trên thực tế.
- Thứ ba, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu để nghiên cứu,
giảng dạy trong nhà trƣờng và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà khoa học khi
nghiên cứu những vấn đề có liên quan.

7. Cơ cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc chia làm
3 chƣơng:
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ


6

Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Trƣớc tiên, cần xác định KTVAHS không phải là hành vi tố tụng mà là một giai
đoạn tố tụng bắt đầu từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận những thông tin về
tội phạm, kiểm tra xác minh các thông tin đó, kết thúc khi xử lý nguồn tin, ra các quyết
định phù hợp theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong trƣờng hợp xác định có dấu
hiệu của tội phạm thì ra quyết định khởi tố vụ án, nếu xác định không có dấu hiệu tội
phạm thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, KTVAHS đƣợc coi là

giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng vụ án hình sự.
Đến nay, trong lý luận, quan niệm KTVAHS có cách diễn đạt khác nhau, nhƣng
đều thừa nhận đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Từ điển Bách khoa Việt
Nam giải thích, “Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của Cơ quan điều tra, kiểm sát
hoặc xét xử, ra quyết định khởi tố vụ án khi xác định có dấu hiệu tội phạm và đó là
giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” [51, tr. 352]. Còn Từ điển Luật học thì
cho rằng, “Khởi tố vụ án hình sự là khi nhận được tin báo về một vụ việc nào đó, cơ
quan Công an hoặc Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra,
xác minh nguồn tin. Chỉ sau khi có dấu hiệu tội phạm thì mới được quyết định khởi tố
vụ án” [52, tr. 254]. Theo sách Thuật ngữ pháp lý dùng trong hoạt động của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân, “Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự do cơ quan
có thẩm quyền tiến hành sau khi đã xác minh một sự việc xảy ra có dấu hiệu tội
phạm... Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” [15,
tr167]. Còn Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì giải thích: “Khởi tố vụ
án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành sau
khi đã xác định một sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là giai
đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự” [02, tr685]. Giáo trình luật tố tụng hình sự
Việt Nam của Trƣờng Đại Học Luật Hà Nội thì đƣa ra khái niệm “Khởi tố vụ án hình


7
sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định
có hay không dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không
khởi tố vụ án’’. [31, tr. 235].
Mặc dù có các cách diễn đạt khác nhau nhƣng có thể thống nhất: KTVAHS là
giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, đƣợc thực hiện kể từ khi cơ quan có
thẩm quyền tiếp nhận và kiểm tra, xác minh những tố giác, tin báo về tội phạm của cơ
quan, tổ chức, công dân hoặc tin báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, trong
trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú, các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp phát
hiện tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, có

thể khái niệm về KTVAHS nhƣ sau: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
Tố tụng hình sự trong đó các cơ quan có thẩm quyền xác định một sự việc có dấu hiệu
của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án
làm căn cứ tiến hành điều tra.
Từ khái niệm trên, có thể đƣa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự nhƣ sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn TTHS đầu tiên, có thời hạn đƣợc
xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố tụng ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn KTVAHS chỉ xác định có hay không
có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không
khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố,
ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan
đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhƣ cơ quan Kiểm Lâm, Hải
quan, ... Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội
phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án
hình sự.
Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền đƣợc sử dụng trong giai
đoạn KTVAHS bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội hoặc
công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; thu thập dấu


8
vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của ngƣời bị tạm giữ; lấy lời
khai của ngƣời tố giác tội phạm... Bên cạnh đó hoạt động khám nghiệm hiện trƣờng có
thể đƣợc tiến hành trƣớc khi KTVA (về nguyên tắc, các hoạt động điều tra chỉ đƣợc
tiến hành khi đã có quyết định khởi tố vụ án).
Toàn bộ những vấn đề liên quan đến khởi tố vụ án hình sự đƣợc quy định từ Điều
100 đến Điều 109 của BLTTHS năm 2003, theo đó trình tự khởi tố vụ án hình sự đƣợc

thực hiện qua các bƣớc:
- Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Nhiệm vụ giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố đƣợc quy định
cụ thể tại điều 103 BLTTHS năm 2003: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách
nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức
và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm
chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu
liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Cơ quan điều tra và
VKS là những cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến.
Viện kiểm sát khi tiếp nhận các tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố phải chuyển
ngay hồ sơ kèm theo các tài liệu liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để tiến hành xác
minh. Cơ quan điều tra là đầu mối quản lý toàn bộ các tố giác, tin báo về tội phạm
(nguồn đề khởi tố).
- Kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm
Thời hạn và nhiệm vụ kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm đƣợc quy định tại
điều 103 BLTTHS năm 2003. Theo quy định của luật thì chỉ có CQĐT mới đƣợc xác
minh, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong thời hạn 20 ngày,
trong trƣờng hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có
nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để
giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhƣng không quá hai tháng, CQĐT có
nhiệm vụ khẩn trƣơng chủ động áp dụng các biện pháp do luật định để xác minh kiểm
tra nguồn tin, xem xét có hay không dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự.


9
- Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là căn cứ pháp lý để CQĐT tiến hành những
biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật. Quyết định khởi tố vụ án hình sự đƣợc

quy định cụ thể tại điều 104 BLHS năm 2003 khi có căn cứ cụ thể quy định tại Điều
100 BLTTHS năm 2003 [31, tr. 154], [31, tr. 463].
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý xác định nguồn thông
tin về tội phạm hoặc sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Các trƣờng
hợp đƣợc sử dụng làm căn cứ ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự đƣợc quy
định tại điều 107 BLHS năm 2003. Những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự
bao gồm: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Ngƣời thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Ngƣời mà
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp
luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã đƣợc đại xá; Ngƣời
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trƣờng hợp cần tái thẩm đối với
ngƣời khác.
1.1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự
Trong khoa học pháp lí, thẩm quyền, nhiệm vụ và nghĩa vụ là các khái niệm khác
nhau. Thẩm quyền là “Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các
cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nƣớc do luật pháp quy định” [52, tr. 459]. Quyền
hành động là quyền đƣợc làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là
quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành
động). Nghĩa vụ là việc mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực
hiện hoặc không đƣợc thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Còn nhiệm
vụ là công việc phải làm, phải gánh vác [49, tr. 1251]. Theo cách giải nghĩa này thì
nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính bắt buộc đối với chủ thể phải thực hiện.
Tuy nhiên, khi nói đến nhiệm vụ ngƣời ta thƣờng nói đến công việc phải thực hiện của
ngƣời có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nƣớc khi thực hiện thẩm
quyền của cơ quan, tổ chức đó. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tƣ cách chủ thể
trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và đƣợc pháp luật quy định. Cùng một
chủ thể, nhƣng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm



10
vụ khác nhau. Quyền hạn đƣợc hiểu là quyền theo cƣơng vị, chức vụ ho phép [49, tr.
1384]. Dƣới góc độ pháp lí, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đƣợc
xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và
trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật [52]. Quyền
hạn thƣờng gắn chủ thể với một cƣơng vị, tƣ cách cụ thể. Trong khoa học pháp lí,
quyền hạn đƣợc gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nƣớc hoặc của ngƣời
có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền
quyết định giải quyết công việc trong phạm vi nhiệm vụ của cá nhân ngƣời có thẩm
quyền của cơ quan tổ chức đó.
Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan VKS là những hoạt động,
những quyền năng pháp lí cụ thể của VKS trong một thời gian nhất định nhằm thực
hiện chức năng của ngành mình để cùng thực hiện chức năng chung của cả bộ máy
Nhà nƣớc trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật. Theo quy định tại Điều 23
BLTTHS năm 2003, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự, Viện kiểm sát thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt đông tƣ pháp nhằm đảm bảo cho việc ra quyết định khởi tố, không ra quyết
định khởi tố đƣợc tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra khái niệm:
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là hệ thống
những hoạt động mà Viện kiểm sát phải tiến hành, các hoạt động này được pháp luật
quy định nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động
tư pháp để đảm bảo cho việc khởi tố hoặc không khởi tố được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là hệ thống
những quyền năng pháp lý được pháp luật quy định mà Viện kiểm sát được làm để
thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm
đảm bảo cho việc khởi tố, không khởi tố được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm.

Có thể thấy, giữa “nhiệm vụ của Viện kiểm sát” và “quyền hạn của Viện kiểm
sát” có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ không thể tách rời. Nhiệm vụ, bản thân nó


11
cũng đã chứa đựng quyền hạn. Nhiệm vụ - quyền hạn tạo nên sự thống nhất trong
trạng thái cân bằng do pháp luật quy định. Khi pháp luật trao cho Viện kiểm sát một
nhiệm vụ nào đó thì cũng sẽ trao cho cơ quan này những quyền hạn nhất định để thực
hiện nhiệm vụ đó. Ngƣợc lại, nếu VKS có thể sử dụng quyền hạn trong một vụ án hình
sự cụ thể thì có nghĩa là cơ quan này đã đƣợc pháp luật trao cho nhiệm vụ giải quyết
vụ án đó và phải thực hiện đầy đủ nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác. Trên
thực tế không thể phân biệt hoạt động nào thể hiện nhiệm vụ của VKS và hoạt động
nào thể hiện quyền hạn của viện kiểm sát. Ví dụ: theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 36 BLTTHS, Viện trƣởng VKS có nhiệm vụ yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay
đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đây vừa là nhiệm vụ và cũng là quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng hình sự. Mối quan hệ này không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà
cả trong hoạt động thực tiễn. Nhận thức, sử dụng đúng quyền hạn theo nhiệm vụ, đúng
đối tƣợng, đúng mục đích giúp cho VKS có sự vận dụng đồng bộ, tổng hợp, linh hoạt
nhiệm vụ và quyền hạn qua đó phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Có thể nói nhiệm
vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát là hai bộ phận không tách rời trong quy định về địa
vị pháp lý của Viện kiểm sát cũng nhƣ việc thực hiện các quy định này trong thực tiễn.
Việc thực hiện quyền cũng đồng thời là việc thực hiện nhiệm vụ của của Viện kiểm sát
và ngƣợc lại.
Trong thực tiễn chính trị, pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” thƣờng đƣợc hiểu
theo hai nghĩa: Thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận trƣớc ngƣời khác, xã hội
hoặc Nhà nƣớc và đƣợc các quy phạm pháp luật quy định. Thứ hai, trách nhiệm là hậu
quả bất lợi phải gánh chịu trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội hoặc Nhà nƣớc do đã có
hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó. Trong BLTTHS năm 2003 không quy
định về trách nhiệm của Viện kiểm sát. Tuy nhiên với tƣ cách là chủ thể những hoạt

động của Viện kiểm sát, BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể về trách nhiệm của Viện
trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên (KSV):
“Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về những hành vi và quyết định của mình”.
“Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện
kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình”.


12
Cùng với đó, theo Luật trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc số 35/2009/QH12
của Quốc hội thì VKS có trách nhiệm bồi thƣờng khi gây ra các thiệt hại về vật chất,
tổn thất về tinh thần cho cá nhân, tổ chức trong thi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của
mình. Nhƣ vậy, “trách nhiệm của VKS trong tố tụng hình sự” đƣợc hiểu theo nghĩa
thứ hai. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều phải đƣợc xử lý kịp thời; việc khởi tố đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội. Khi có vi
phạm và sai sót trong giai đoạn này thì Viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thƣờng, các
cá nhân với tƣ cách là chủ thể tiến hành các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát có
liên quan tùy theo tính chất và mức độ mà bị xử lý kỉ luật hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Nhƣ vậy:
Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là những
hậu quả (bất lợi) mà Viện kiểm sát phải gánh chịu theo quy định của pháp luật khi
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
1.2. Cở sở, ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân,
nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nƣớc thông qua cơ quan đại diện dân cử. Bộ máy
Nhà nƣớc đƣợc tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực Nhà nƣớc thống nhất

nhƣng trong bộ máy nhà nƣớc có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Mỗi cơ quan Nhà nƣớc đƣợc pháp luật quy
định chức năng nhất định để thực hiện quyền lực nhà nƣớc thống nhất. Viện kiểm sát
nhân dân là cơ quan đƣợc Hiến pháp quy định hai chức năng: Thực hành quyền công
tố và Kiểm sát hoạt động tƣ pháp.
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật
định." (Điều 107 Hiến pháp năm 2013).


13
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương
mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của pháp luật.” (Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2002).
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát thực hiện hai chức
năng: Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Trong tố tụng hình sự,
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật (Điều 23
BLTTHS năm 2003).
Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình
sự.
Để làm rõ nội dung vấn đề thực hành quyền công tố trong khởi tố vụ án hình sự,
trƣớc hết chúng ta cần làm rõ vấn đề: Quyền công tố và thực hành quyền công tố.
“Công tố” theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là: “Điều tra, truy tố và buộc tội kẻ

phạm pháp trước Tòa án”. [48, tr. 436].
Hiện nay xung quanh vấn đề “Quyền công tố” có nhiều quan điểm khác nhau. Có
tác giả đƣa ra khái niệm quyền công tố nhƣ sau: Quyền công tố là quyền nhân danh
Nhà nƣớc thực hiện các chức năng do luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp
của việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị Luật hình sự cấm trƣớc Tòa án nhằm góp phần ra đƣợc các bản án có căn
cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của công dân,
cũng nhƣ các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nƣớc trong hoạt động tƣ pháp
hình sự. [03]. Theo nội dung này, tác giả coi quyền công tố là một quyền năng, một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nƣớc
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Quyền này thuộc


14
về Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc giao cho một cơ quan thực hiện (ở nƣớc ta là Viện kiểm
sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Để
làm đƣợc điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm
bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác minh tội phạm và ngƣời phạm tội. Trên
cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trƣớc Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trƣớc phiên
tòa. [35, tr. 40]. Bên cạnh đó còn có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
quyền công tố[23, tr. 18-19], [24, tr. 24], [35], tuy nhiên tác giả luận văn thấy quan
điểm hai là tƣơng đối hợp lý vì đã thể hiện đƣợc đầy đủ nội dung của quyền công tố,
quyền này thuộc về Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc giao cho VKS thực hiện để phát hiện
tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội, điều này đƣợc thể
hiện rõ tại Điều 137 Hiến pháp năm 2013 và Điều 23 BLTTHS năm 2003. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này, VKS phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác minh tội phạm và ngƣời phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị
can ra trƣớc Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trƣớc phiên tòa.

Nhƣ vậy, đối tƣợng của quyền công tố là tội phạm và ngƣời phạm tội, phạm vi
quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm đƣợc thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu
lực pháp luật không bị kháng nghị.
Việc tiến hành những biện pháp do luật định đƣợc Nhà nƣớc giao trách nhiệm
thực hiện các biện pháp pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm
tội là thực hành quyền công tố: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.
Quan điểm của tác giả luận văn về cơ bản là nhất trí với nội dung trên nhƣng cần
bổ sung thêm nhƣ sau: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời phạm tội trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử,
bởi vì khởi tố là một giai đoạn tố tụng độc lập, hoạt động thực hành quyền công tố
phải đƣợc tiến hành ngay khi có sự việc phạm tội xảy ra.
Nội dung thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án bao
gồm các nhiệm vụ, quyên hạn để phát động quyền công tố – khởi tố vụ án và một số
hoạt động khác.


15
- Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án hình sự.
Để làm rõ vấn đề này, trƣớc tiên ta phải hiểu thế nào là “kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong khởi tố vụ án hình sự”. Theo tác giả luận văn thì có thể đi đến nhận thức
vấn đề, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong KTVAHS là hoạt động kiểm sát các
hoạt động tƣ pháp hình sự có đối tƣợng là hành vi xử sự của các cơ quan có thẩm
quyền KTVAHS đƣợc pháp luật quy định, nhằm bảo đảm cho việc khởi tố vụ án đƣợc
nhanh chóng, kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật.
Nội dung của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án là những biện
pháp mà VKS không trực tiếp ra quyết định, qua công tác kiểm sát, nếu phát hiện các
vi phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án thì kiến nghị, kháng

nghị, yêu cầu bổ sung, khắc phục.
Các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đƣợc tiến hành trƣớc
khi khởi tố vụ án nhƣ: Kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố; Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, khám
xét, khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi của CQĐT nhằm đảm bảo mọi
hoạt động này đƣợc thực thi đúng trình tự, thủ tục luật định.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn KTVAHS của VKS
tiếp tục đƣợc thể hiện qua hoạt động kiểm sát việc KTVAHS, quyết định không
KTVAHS; kiểm sát việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTVAHS của Cơ quan
điều tra.
Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS có các quyền
nhằm phát hiện vi phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án và
quyền yêu cầu khắc phục, xử lý vi phạm của chủ thể tiến hành các hoạt động tƣ pháp
hình sự trong giai đoạn khởi tố vụ án.
Nhƣ vậy, xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà pháp luật trao cho cơ quan
VKS những nhiệm vụ, quyên hạn cụ thể để thực hiện chức năng của mình. Cùng với
đó, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện không đúng,
không đầy đủ chức năng đƣợc giao. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm
sát thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện chức năng thực hành quyền


16
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo việc khởi tố đúng ngƣời,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan
ngƣời vô tội. Nếu xảy ra sai sót, vi phạm thì phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy
định của pháp luật.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm là những nhiệm vụ then chốt để

phát triển xã hội, một xã hội ổn định là một xã hội ít tội phạm. Phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mọi công dân, tổ
chức trong xã hội. Trong công cuộc giữ gìn an ninh trật tự xã hội, vai trò của những
đơn vị trực tiếp đấu tranh chống tội phạm là vô cùng quan trọng. Viện kiểm sát là cơ
quan trực tiếp đấu tranh chống tội phạm. Với những nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự mà Nhà nƣớc giao phó, là đảm bảo cho mọi hành vi
phạm tội đều đƣợc phát hiện xử lý, việc điều tra, truy tố, xét xử đúng ngƣời đúng tội,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội, đảm bảo mọi hoạt động tƣ pháp
hình sự đƣợc thực hiện đúng quy định của pháp luật. Góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ, nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2. Trong giai đoạn KTVAHS, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm cụ thể để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hành
vi sử xự của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án. Qua nghiên cứu một số vấn đề
lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự, tác giả luận văn đã xây dựng đƣợc khái niệm thế nào là “nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự”, qua
đó thấy đƣợc vai trò quan trọng của VKS trong công tác phòng, chống tội
phạm.Những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm mà Nhà nƣớc giao cho nhằm đảm
bảo cho cơ quan Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.
3. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình trong giai đoạn
KTVAHS, VKS có quyền tự mình khởi tố vụ án hình sự, yêu cầu Cơ quan điều tra
khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi,


17
hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, chấp nhận hoặc không chấp nhận quyết định khởi tố vụ
án của các cơ quan khác có thẩm quyền. Mọi quyết định khởi tố vụ án hình sự của các

cơ quan có thẩm quyền khởi tố chỉ thực sự có hiệu lực sau khi đã đƣợc VKS xem xét,
quyết định. Bên cạnh đó Viện kiểm sát còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
khởi tố vụ án hình sự chủ yếu tập trung vào hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan
có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn KTVAHS, Viện kiểm sát đƣợc sử dụng tất cả quyền năng
pháp lý do luật định để phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan và
ngƣời có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố vụ án, nhằm bảo
đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tất cả những luận cứ nêu trên là cơ sở để đánh giá thực trạng của VKS trong
khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam ở chƣơng tiếp theo.


18

Chƣơng 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố vụ án hình sự.
Điều 36, 104 và 109 BLTTHS năm 2003 đều có quy định thống nhất là VKS ra
quyết định KTVAHS trong trƣờng hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án
hình sự của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trƣờng hợp HĐXX yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự.
Nhƣ vậy, về thẩm quyền trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án của VKS theo quy
định của BLTTHS năm 1988 rộng hơn so với quy định của BLTTHS năm 2003. Theo
Điều 87 BLTTHS năm 1988 thì“khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự…”. Điều đó dẫn tới việc
khởi tố vụ án bị chồng chéo, đồng thời làm giảm hiệu quả của công tác thực hành
quyền công tố của VKS. Khắc phục tình trạng trên, BLTTHS năm 2003 đã thu hẹp
phạm vi khởi tố vụ án hình sự của VKS. Theo đó thì VKS chỉ đƣợc ra quyết định khởi
tố vụ án trong 2 trƣờng hợp đó là: VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của
CQĐT, HĐXX yêu cầu khởi tố vụ án. VKS không chủ động phát hiện và khởi tố vụ án
hình sự.
Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hoặc thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tố vụ án, kháng nghị quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử.
Thứ nhất: Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, VKS yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự
theo quy định tại khoản 2 Điều 36. So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003
quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 không quy định cụ


19
thể về thẩm quyền yêu cầu khởi tố vụ án của VKS nhƣng theo hƣớng dẫn tại điểm 2
mục 2 Thông tƣ liên ngành số 03/TTLN ngày 19/05/1992 thì khi kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm của CQĐT, VKS có quyền yêu cầu khởi tố hoặc ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự, chuyển cho CQĐT để tiến hành điều tra. Nhƣ vậy, so
với các quy định của pháp luật trƣớc đây thì quyền hạn của VKS bị giới hạn hơn rất
nhiều.
Thứ hai: VKS thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 quy định vấn đề này tại Điều 106 nhƣ sau: “Khi có căn cứ xác định
tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm
khác thì CQĐT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự”. Còn BLTTHS năm 1988 không quy định về vấn đề này. Nhƣ vậy để thấy
đƣợc sự đổi mới trong các quy định của pháp luật hiện hành xác định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ

án hình sự.
Sau khi khởi tố vụ án hình sự, CQĐT có điều kiện thu thập thêm nhiều chứng cứ,
tài liệu giúp cho việc nhận thức, đánh giá về hành vi phạm tội đầy đủ và chính xác hơn.
Vì vậy, những nhận thức đánh giá ban đầu về tội phạm khi KTVAHS nhiều khi không
còn đúng với hành vi phạm tội đã xảy ra hoặc phát hiện thêm tội phạm mới và vì vậy
quyết định khởi tố vụ án cần đƣợc thay đổi, bổ sung cho phù hợp. Luật TTHS quy định
chỉ có CQĐT và VKS mới có thẩm quyền thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ
án hình sự.
Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của
CQĐT chƣa đủ căn cứ hoặc không có căn cứ thì VKS có văn bản yêu cầu CQĐT bổ
sung tài liệu, chứng cứ hoặc ra quyết định hủy bỏ; nếu CQĐT không nhất trí và rõ ràng
việc thay đổi, bổ sung này không có căn cứ thì VKS căn cứ theo khoản 5, Điều 112
của BLTTHS ra quyết định hủy bỏ.
Trƣờng hợp có căn cứ thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự,
VKS có văn bản yêu cầu CQĐT ra quyết định; nếu đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra
không nhất trí thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự trong thời gian 24 giờ, kể từ khi ra quyết định phải gửi cho CQĐT để tiến hành
điều tra theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.


×