Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.17 KB, 87 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng hoạt động của Cơ quan tư pháp trong đó, việc nâng cap
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân nói chung và ở giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
nói riêng nhằm đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án, trong suốt quá
trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,
xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi
thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà,
đảm bảo cho tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác”. Tại Nghị quyết 49-NQ/TW cũng tiếp tục khẳng định:
“Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Nghị quyết 49 cũng chỉ rõ:
“Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ
quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm” Để có thể hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trước những yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới cả về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Trong những năm qua, hoạt động của Viện kiểm sát về thực hiện chức năng
THQCT và KSVTTPL trong TTHS nói chung và trong xét xử các vụ án hình sự


2


nói riêng đã đạt được những kết quả đáng kể và đã góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của xã hội, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm việc xét xử của Toà án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Bằng việc kháng nghị kịp thời theo các thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với các bản án, quyết định của Toà án có
vi phạm pháp luật, VKS các cấp đã góp phần hạn chế có hiệu quả tình trạng oan
sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong TTHS nói chung và xét xử các vụ án
hình sự nói riêng cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém, hạn chế chưa đáp ứng được đầy
đủ và kịp thời yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay như: trong một số
trường hợp còn bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội; việc kháng nghị còn
hạn chế và chất lượng, hiệu quả chưa cao; việc tham gia xét hỏi và tranh luận tại
phiên toà hình sự chưa tích cực, chủ động; tinh thần trách nhiệm, trình độ và kỹ
năng nghiệp vụ của KSV còn nhiều hạn chế, bất cập ...,
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm tìm ra được các nguyên nhân của những bất
cập, hạn chế nêu trên để đưa ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong xét xử phúc
thẩm hình sự là một yêu cầu cấp thiết, khách quan hiện nay.
Giai đoạn hiện nay, chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020”, trong đó việc tổ chức lại hệ thống các cơ quan Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Toà án được xác định là một khâu mang tính đột phá. Một trong
những nội dung quan trọng trong Nghị quyết này đề ra là “nghiên cứu chuyển
Viện kiểm sát thành Viện công tố...”. Yêu cầu này đã đặt ra cho khoa học pháp lý
cần có phương pháp tiếp cận mới, có cách nhìn mới cả về phương tiện lý luận và


3
thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS nói chung và trong xét xử

phúc thẩm hình sự nói riêng.
Tất cả những vấn đề mang tính thời sự như đã nêu trên cùng sự quam tâm,
mong muốn nghiên cứu của cá nhân chính là lý do mà tác giả đã lựa chọn “Chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự” làm đề tài
Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong TTHS nói chung và
trong xét xử phúc thẩm nói riêng là vấn đề không có gì mới mẻ trong khoa học
pháp lý. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về vấn đề này
ở các góc độ, phạm vi và cấp độ khác nhau như: Đề tài khoa học cấp bộ “Những
vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay” (1999) của VKSNDTC; Luận án tiến sĩ luật học “Quyền công tố ở
Việt Nam” (2002) của Lê Thị Tuyết Hoa; Luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò của
Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình sự” (2002) của Tôn Thiện Phương; Luận văn
thạc sĩ luật học “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” (2005) của Lê Lan Chi; “Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm”
(2008) Nxb Tư pháp (TS. Dương Thanh Biểu chủ biên); “Tổ chức và hoạt động
của Viện công tố ở Việt Nam” (2007) của TS. Nguyễn Đức Mai (trong đề tài khoa
học cấp bộ của VKSNDTC...
Ngoài ra, cũng còn một số bài viết của nhiều tác giả khác đề cập đến vấn đề
này đăng trên các tạp chí chuyên ngành (Tạp chí luật học, Tạp chí kiểm sát, Tạp
chí Toà án, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp...). Tuy nhiên, các công trình này nghiên
cứu hoặc là mang tính bao quát về các vấn đề chung hoặc là nghiên cứu một số nội
dung về kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên toà hình sự. Cho đến nay, vấn đề
“Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm” vẫn chưa được
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở những vấn đề mà cả lý


4
luận và thực tiễn đang đặt ra. Việc tác giải lựa chọn “Chức năng của Viện kiểm sát

trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học là cần thiết nhằm kế thừa có chọn lọc những thành tựu đạt được của các công
trình nghiên cứu nêu trên, góp phần bổ sung, hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực
tiễn cho hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề chung
về chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và các hình
thức thực hiện chức năng này. Trên cơ sở phân tích và chỉ ra những bất cập, hạn
chế và vướng mắc trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong
giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này của VKS, đáp ứng các yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ chủ yếu sau
đây:
- Phân tích cơ sở pháp lý về chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự;
- Làm rõ nội dung chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ
án hình sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện chức năng của VKS
trong giai đoạn xét phúc thẩm vụ án hình sự những năm gần đây; chỉ ra những bất
cập, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của chúng;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho VKS
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.


5
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và
thực trạng thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự
Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ và nhằm đảm bảo tính chuyên sâu
cần thiết của mỗi nội dung được đề cập nên đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu
về một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu một số
vấn đề cơ bản về cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động thực hiện chức năng của
VKS trong xét xử phúc thẩm hình sự những năm gần đây (2010-2015) để làm cơ
sở cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này của
VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân, đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong các Nghị quyết số 08, Nghị
quyết số 49 của Bộ chính trị.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giải đã sử dụng
kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, so sánh, khảo sát thực tiễn, tham
khảo ý kiến của các chuyên gia...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận:


6
Những kết quả nghiên cứu đạt được trong luận văn có thể góp một phần nhỏ
làm phong phú thêm lý luận của khoa học pháp lý về chức năng của VKS trong
TTHS nói chung và trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự nói riêng.

Về mặt thực tiễn:
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về
chức năng của VKS trong TTHS. Ngoài ra, nội dung của luận văn cũng có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ KSV nhằm đáp ứng các yêu cầu của công
cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của Luận văn gồm 02 chương.

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ PHÚC THẨM HÌNH SỰ


7
1.1. Khái quát chung về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình
sự
Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát
năm 2014 thì: Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp.
1.1.1. Quyền công tố và thực hành quyền công tố
Quyền công tố
Khi nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát chúng ta hay đề cập đến khái
niệm thực hành quyền công tố, bên cạnh đó lại xuất hiện khái niệm quyền công tố
hay Công tố quyền. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất
Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Tủy từng kiểu Nhà nước
trong từng thời kỳ nhất định và với những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội,
con người, yếu tố văn hóa, yếu tố truyền thống chính trị của mỗi quốc gia để thiết

kế một bộ máy nhà nước khác nhau. Do vậy, quyền công tố cũng có những khác
biệt nhất định, đi đôi với việc hoàn thiện thể chế, hoàn thiệt hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia thì việc hoàn thiện chế định quyền công tố cũng ngày càng rõ nét. Ở
nước ta, Hiếp pháp năm 1980 đề cập đến quyền công tố, thực hành quyền công tố
khi quy định chức năng của Viện kiểm sát tại Điều 138. Cũng tại Điều 137 Hiếp
pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2002 và Điều 107 Hiến pháp năm 2013 cũng đã
khẳng định lại sự tồn tại của thuật ngữ quyền công tố, thực hành quyền công tố
trong chức năng của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có văn bản
pháp luật nào quy định về khái niệm quyền công tố. Vậy, quyền công tố là gì? Mặc
dù, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật đã tập trung
nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm này. Do vậy,
cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn còn nhiều quan điểm khác nhau về
quyền công tố và đến nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách thống
nhất, cụ thể là:


8
Quan điểm thứ nhất thì đánh đồng “Quyền công tố với chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát” [41, tr.5].
Quan điểm thứ hai coi “Quyền công tố là chỉ là quyền năng, một hình thức
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong tố
tụng hình sự” [41, tr.5]
Quan điểm thứ ba coi “Quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ
phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự” [41, tr.5].
Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền buộc tội (quyền truy cứu
trách nhiệm hình sự) nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực công) đối với kẻ
phạm tội. “Quyền này là quyền của Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở
nước ta là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều này, cơ quan công tố phải có
trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tại liệu, chứng cứ để xác định tội phạm
và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc

tội đó tại phiên tòa. Và do quyền công tố là truy cứu trách nhiệm hình sự nhân
danh công quyền đối với người phạm tội nên đối tượng của quyền công tố chỉ là tội
phạm và người phạm tội [41, tr5-6].
Quan điểm thứ năm cho rằng “Công tố là buộc tội, đưa một người ra trước
tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa” [11. tr. 32]
Quan điểm thứ sáu thì cho rằng “Quyền công tố là quyền do các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố
vụ án đến giai đoạn thi hành án” [16, tr. 14].
Như vậy, các quan điểm trên hoặc là đã mở rộng phạm vi quyền công tố
sang cả các lĩnh vực khác; hoặc là đã thu phạm vi quyền công tố trong một giai
đoạn cụ thể là giai đoạn Viện kiểm sát truy tố người phạm tội và thực hiện chức
năng buộc tội tại phiên tòa; hoặc coi quyền công tố là một quyền năng cụ thể của
Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Nhìn chung các quan điểm trên phần nào vẫn có


9
những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên các quan điểm trên vẫn chưa phân định rõ khái
niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền công tố, để làm rõ được khái niệm
này trước hết cần phải xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
- Quyền công tố là quyền lực công xuất hiện gắn liền với sự ra đời của Nhà
nước và pháp luật: “Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước từ Nhà
nước chủ nô đến Nhà nước hiện đại” [16, tr, 118-119]. Nhà nước ra đời và tồn tại
trong một xã hội có giai cấp đối kháng không thể điều hòa được. Đồng thời bất cứ
kiểu Nhà nước nào cho dù sơ khai nhất cũng ban hành ra pháp luật để điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội ở các mức độ khác nhau và để bảo vệ lợi ích của giai cấp
cầm quyền, trừng phạt những người có ý chí chống lại giai cấp cầm quyền thông
qua việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Do vậy,
bản chất của quyền công tố chính là quyền nhân danh Nhà nước để bảo vệ lợi ích
công đó chính là sự buộc tội.

- Thiết chế nhà nước càng phát triển ở mức đọ cao thì sự phân công, phân
nhiệm các chức năng để thực hiện quyền lực công đó được thể hiện một cách rõ
ràng và cụ thể. Ở nhà nước Phong kiến trước đây quyền công tố cũng như quá trình
tố tụng của một vụ án hình sự có thể được giao cho một người vừa có chức năng
quản lý hành chính vừa có chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, sự chuyên môn hóa ngày càng cao thì
quyền công tố cũng được giao cho một cơ quan có chức năng, nhiệm vụ riêng biệt
để nhân danh Nhà nước xử lý người đã thực hiện hành vi được coi là phạm tội. Cơ
quan đó sử dụng cac quyền năng pháp lý nhất định đó được gọi là co quan có trách
nhiệm thực hành quyền công tố.
- Quyền công tố cũng như bất kỳ một quyền nào của Viện kiểm sát luôn phải
được xem xét trong mối quan hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể
trong hoạt động của Viện kiểm sát. Hay nói cách khác đây là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng. Xem xét khái niệm quyền công tố trong tổng thể lĩnh vực pháp


10
luật hình sự để thấy quyền công tố là quền nhân danh quyền lực công để trấn áp,
hoặc công khai tố cáo với xã hội về một hành vi bị coi là tội phạm.
- Bản chất của tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan tố tụng hình sự
trong việc phát hiện, xác định và xử lý chủ thể thực hiện hành vi phạm tội được thể
hiện ở ba chức năng chính là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chứ năng
xét xử. Trong đó chức năng buộc tội là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Hình thức buộc tội là nhan danh Nhà
nước giữa vai trò là động lực chính thu hút hoạt động của tất cả các chủ thể tham
gia tố tụng.
Như vậy, về bản chất, quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Hay nói cách khác, bản chất của quyền
công tố là việc đòi trừng phạt những hành vi phạm tội để bảo vệ lợi ích công.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về quyền công tố như sau: Quyền

công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và thực hiện sự buộc
tội đối với người đó trước phiên toà.
Từ khái nhiệm trên có thể xác định được đối tượng, nội dung và phạm vi của
quyền công tố
Đối tượng của quyền công tố là yếu tố mà quyền công tố tác động tới nhằm
thực hiện mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự. Với cách hiểu này, đối tượng của
quyền công tố không gì có thể khác hơn là tội phạm và người phạm tội.
Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội với người đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị coi là phạm tội.
Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi phạm tội xảy ra và kết thúc khi
bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
Thực hành quyền công tố


11
Tương tự như vấn đề quyền công tố, khi đề cập đến hoạt động thực hành
quyền công tố, trong thời gian qua có không ít quan điểm nhận thức không chính
xác, rõ ràng hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố, giữa
thẩm quyền của VKS với các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó.
Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này phát sinh ngay từ khi có
hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi phán quyết của Toà án nhân danh công lý
tuyên phạt đối với người đã thực hiện tội phạm có hiệu lực pháp luật. Quyền công
tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội do chính hành vi
phạm tội làm phát sinh. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu
tranh chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy
định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Các quyền năng đó được giao cho cơ
quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình

sự đối với người phạm tội thì cơ quan đó được coi là cơ quan thực hành quyền
công tố. Ở nước ta, Nhà nước chỉ giao cho VKS thực hiện chức năng này cho nên
VKS là cơ quan duy nhất có chắc năng thực hành quyền công tố.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác
nhau, mỗi giai đoạn này tuy có tính độc lập tương đối nhưng liên quan chặt chẽ với
nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một nội dung nhất định của hoạt động tố tụng và giai
đoạn tố tụng trước là tiền để cho giai đoạn tố tụng tiếp theo; giai đoạn tố tụng sau
kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của giai đoạn trước đó nhằm phát hiện và
khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm của giai đoạn trước và tạo thành một
quá trình tố tụng thống nhất và hoàn chỉnh. Theo pháp luật TTHS nước ta, VKS
thực hiện các hành vi tố tụng thuộc nội dung của quyền công tố trong tất cả các
giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử). Tuỳ thuộc vào từng giai
đoạn tố tụng cụ thể mà việc sử dụng các quyền năng pháp lý của VKS cũng khác


12
nhau. Như vậy, thực hành quyền công tố là quá trình hiện thực hoá quyền truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bằng các quyền năng tương ứng mà
Nhà nước trao cho một cơ quan nhất định. Vì vậy, chúng tôi hoàn toàn đồng tính
với quan điểm cho rằng thực hành quyền công tố là việc VKS sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, tuy tố, xét xử [24, tr.28].
Như trên đã trình bày thì Đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người
phạm tội. Đây cũng chính là đối tượng của hoạt động THQCT.
Phạm vi thực hành quyền công tố: Để xác định đúng phạm vi thực hành
quyền công tố trong xét xử phúc thẩm hình sự không thể không xem xét đến phạm
vi của quyền công tố và THQCT. Nhiệm vụ của TTHS là mọi tội phạm xảy ra đêề
phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật. Khi tội phạm xảy ra, thì đồng thời làm
xuất hiện quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Điều đó có nghĩa là quyền
công tố cũng xuất hiện. Vì vậy, về nguyên tắc thì phạm vi của quyền công tố và

THQCT là đồng nhất với nhau, tức là đều xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra cho
đến khi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải tội phạm
nào xảy ra cũgn đều được phát hiện kịp thời và tiến hành khởi tố (những trường
hợp tội phạm ẩn) hoặc khi đã phát hiện tội phạm xảy ra nhưng cũng cần có những
hoạt động xác minh, thu thập tài liệu trước khi khởi tố (các hoạt động tiền tố tụng).
Mặc khác, không phải mọi trường hợp việc THQCT đã được phát động đều kết
thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật mà có thể kết thúc sớm hơn khi có một
trong những căn cứ được quy định trong BLTTHS. Như vậy, trong thực tế thì
phạm vi THQCT thường hẹp hơn phạm vi của quyền công tố. Phạm vi THQCT bắt
đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi nào bản án có hiệu lực pháp luật,
không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật
TTHS.


13
Nội dung THQCT: Hiện nay vẫn còn một số quan điểm chưa thống nhất về
nội dung THQCT. Có quan điểm cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm
giam bị can là nội dung THQCT thì cả Cơ quan điều tra và Toà án cũng là cơ quan
THQCT. Chúng tôi cho rằng nhận thức này là không chính xác vì không phải cứ
khởi tố vụ án hoặc bắt tạm giam bị can, bị cáo đều là THQCT và cũng không phải
chỉ có truy tố và buộc tội mới là THQCT. Nội dung của THQCT là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Vì vậy, chỉ có cơ quan nào được phép sử dụng tất cả các
quyền năng pháp lý này để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
trong suốt quá trình TTHS thì mới là cơ quan THQCT. Ở nước ta chỉ có VKS mới
là cơ quan THQCT.
Ở đây cũng cần xác định rõ trong TTHS, thì những quyền năng pháp lý nào
thuộc về nội dung THQCT và những quyền năng pháp lý nào thuộc về nội dung
KSVTTPL. Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND chúng
tôi cho rằng: Những quyền năng pháp lý mà VKS tự quyết định và liên quan đến

việc cáo buộc bị can, bị cáo là những quyền năng thuộc nội dung THQCT; những
quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát hiện và yêu cầu cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khắc phục, xử lý vi phạm
pháp luật là những quyền năng thuộc nội dung KSVTTPL. Mặt khác, cũng có
những hành vi tố tụng thể hiện sự đan xen giữa THQCT và KSVTTPL trong
TTHS. Ví dụ: Trong quyết định kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án có thể đồng thời bao
hàm cả hai nội dung (một là có sự vi phạm trong việc áp dụng BLHS; hai là, vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên
cũng làm phát sinh trình tự xét xử phúc thẩm.
Từ phân tích trên có thể rút ra khái niệm: Thực hành quyền công tố là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội


14
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS
Khái niệm KSVTTPL:
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam chưa có một định nghĩa thống nhất về
khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS”. Theo Từ điển tiếng
Việt thì: “kiểm sát là việc kiểm tra việc chấp hành pháp luật Nhà nước” [58, tr
523]. Theo Từ điển Luật học thì: “kiểm sát hoạt dộng tư pháp là kiểm tra, giám
sát, xem xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, giam giữ, cảo tạo của cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết
các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [57, tr.441]. Cả hai định nghĩa này
đều chưa bao quát được chủ thể của hoạt động kiểm sát.
Điều 23 BLTTHS quy định “...Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng,
áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp
luật của những cơ quan hoặc cá nhân này”. Như vậy, có thể nói theo quy định của
pháp luật thì chỉ có một chủ thể duy nhất là VKS có chức năng KSVTTPL trong
TTHS.
Mặc khác, theo quy định tại Điều 32 BLTTHS, thì các chủ thể khác (như các
cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử...) có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vấn đề đặt ra ở đây là
các chủ thể này có được cọi là một trong các chủ thể của hoạt động KSVTTPL
trong TTHS hay không? Chúng tôi cho rằng “giám sát” và “kiểm sát” là hai khai


15
niệm khác nhau. Quyền giám sát của các chủ thể nêu trên đối với hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,... chỉ là hoạt động mang
tính tự nguyện nhằm hướng tới việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật” và
“loại trừ vi phạm pháp luật” của những cơ qun hoặc cá nhân trong TTHS. Còn
KSVTTPL là các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ chức năng hoạt động chuyên trách
của một cơ quan nhà nước là VKS. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của
VKS và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là phương thức và các
quyền năng pháp lý mà pháp luật cho phép VKS khi thực hiện chức năng
KSVTTPL. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của hoạt động
giám sát nỳa nên có thể coi đây là các thiết chế bổ trợ cho hoạt động KSVTTPL
trong TTHS.
Ngoài ra, không thể không nhắc tới vai trò giám sát lẫn nhau giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng. Xuất phát từ đặc thù của quan hệ phối hợp, chế ước lẫn
nhau trong TTHS, Cơ quan điều tra, Toà án có thể phát hiện và kiến nghị xử lý các
quyết định, hành vi tố tụng của nhau và của VKS nếu nhận thấy có vi phạm pháp

luật.
Theo Lý luận nhà nước và pháp luật thì “tuân theo pháp luật” là một dạng
thực hiện pháp luật mang tính chất thụ động, thể hiện ở việc các chủ thể phải kiềm
chế bản thân để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Như vậy, nếu
hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS” nêu trên thì nội hàm của khái niệm này sẽ bị thu hẹp đáng kể. Theo quy
định của pháp luật hiện hành thì đối tượng của KSVTTPL trong TTHS không chỉ
có hoạt động tuân theo pháp luật mà còn bao gồm cả các hoạt động thực hiện pháp
luật khác ở mức độ cao hơn (như hoạt động áp dụng pháp luật, sử dụng pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng).
Theo Luật tổ chức VKSND và BLTTHS, thì hoạt động KSVTTPL trong
TTHS được chia thành các bộ phận khác nhau gắn liền với từng giai đoạn TTHS:


16
Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử, Kiểm sát thi hành án,.... Mỗi bộ phận này có
đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ, quyền hạn riêng nhưng liên hệ mật thiết với nhau
và đều là hoạt động thực hiện chức năng KSVTTPL của VKS đối với hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
nhằm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của bất kỳ ai, của bất kỳ cơ quan hay tổ
chức nào trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, khi phát hiện các vi phạm
của các đối tượng kể trên, VKS có trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện pháp
thích hợp do pháp luật quy định để loại trừ vi phạm đó.
Từ những nội dung trình bày trên, có thể đưa ra khái niệm: KSVTTPL trong
TTHS là tổng hợp các quyền năng pháp lý của VKS, có nội dung là kiểm tra, giám
sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia TTHS trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Đối tượng KSVTTPL
Pháp luật TTHS quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mỗi quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,
nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng. Vì vậy, kiểm sát hoạt động của các chủ thể trong
TTHS chính là kiểm sát việc các chủ thể có tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hay không.
Hoạt động của các chủ thể trong TTHS bao gồm: Hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng và tương ứng là hoạt động của những người tiến hành tố tụng;
Hoạt động của những người tham gia tố tụng như: người bị tạm giữ, tạm giam, bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa, người
làm chứng...Tóm lại, việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia vào TTHS
là đối tượng của KSVTTPL trong TTHS. Tất nhiên, đối tượng của KSVTTPL
trong TTHS không thể bao gồm việc tuân theo pháp luật của chính bản thân VKS.


17
Phạm vi KSVTTPL
Theo quy định của pháp luật TTHS, thì hoạt động KSVTTPL của VKS được
thực hiện liên tục trong toàn bộ các giai đoạn của quá trình TTHS. Tuy nhiên, hoạt
động KSVTTPL trong mỗi giai đoạn tố tụng lại do các chủ thể - các VKS khác
nhau (theo phân cấp) thực hiện. Căn cứ vào chủ thể thực hiện hoạt động này có thể
phân hoạt động KSVTTPL trong TTHS thành các hoạt động cụ thể sau: Hoạt động
KSVTTPL ở trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án (hoạt động
này do VKS cấp sơ thẩm thực hiện); Hoạt động KSVTTPL ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm (do VKS cấp phúc thẩm thực hiện); Hoạt động KSVTTPL ở giai đoạn giám
đốc thẩm, tái thẩm (do VKS cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thực hiện).
Nội dung KSVTTPL
Nội dung của hoạt đọng KSVTTPL trong TTHS được thể hiện qua các
quyền năng pháp lý mà VKS được sử dụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý
vi phạm của các chủ thể tham gia vào TTHS, nhằm đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Căn cứ vào các quy định của BLTTHS 2003 và Luật tổ chức VKSND 2014
có thể phân các quyền năng trên thành những nhóm sau:
Các quyền năng nhằm phát hiện vi phạm pháp luật bao gồm các quyền năng
kiểm tra, giám sát hoạt động khởi tố, điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động thi hành
án.... Các quyền năng này nhằm bảo đảm cho VKS phát hiện được các vi phạm,
xác định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các biện
pháp để khắc phục vi phạm, bảo đảm sự tuân thủ triệt để pháp luật.
Các quyền năng của VKS về yêu cầu khắc phục, xử lý vi phạm đối với các
chủ thể tham gia vào TTHS. Các quyền này bao gồm: kiến nghị, yêu cầu khắc
phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; kiến nghị, kháng nghị trong công
tác kiểm sát xét xử.
2.1. Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự


18
Theo từ điển Luật học thì “xét xử là hoạt động xem xét, đánh gái bản chất
pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ
việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất,
mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”. Như vậy xét xử là việc xem xét,
đánh giá một vụ việc nào đó dựa trên các quy định của pháp luật của một cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thông qua nhiệm vụ được phân công của quyền lực Nhà
nước, nhân danh Nhà nước để đưa ra một phán quyết về vụ việc đó.
Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định rõ và chính xác tính chất của xét xử
phúc thẩm (Điều 230), đó là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét
lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Mục đích của phúc thẩm là nhằm
kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước.Về phạm vi xét
xử phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại vụ án trong phạm vi nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Các phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng

nghị sẽ có hiệu lực pháp luật sau khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên,
trong quá trình xét xử nếu thấy cần thiết, Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét cả
những phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị.Từ đó có thể thấy,
căn cứ để tiến hành xét xử phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm. Hay căn cứ làm phát sinh trình tự, thủ tục xét xử phúc thẩm đó chính là
kháng cáo, kháng nghị. Đây cũng là một dấu hiệu để phân biệt với các hình thức
xét xử khác.
Mối quan hệ giữa chức năng chung của VKS trong TTHS và chức năng của
VKS trong từng giai đoạn TTHS cụ thể là mối quan hệ giữ “cái chung” và “cái
riêng”, giữa “tổng thể” và “bộ phận. Vì vậy, từ chức năng chung của VKS trong
TTHS bao gồm chức năng THQCT và chức năng KSVTTPL, có thể rút ra kết luận
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, VKS cũng thực hiện hai chức năng là


19
THQCT và KSVTTPL. Khái niệm, phạm vi, nội dung THQCT và KSVTTPL trong
giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự cũng được xác định trên cơ sở khái niệm, phạm
vi, nội dung của THQCT và KSVTTPL trong TTHS nói chung.
2.1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung THQCT trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự
Khái niệm THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Là một giai đoạn độc lập của quá trình TTHS, xét xử phúc thẩm phát sinh
trên cơ sở kháng cáo của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác hoặc
kháng nghị của VKS cùng cấp hoặc của VKS cấp trên trực tiếp. Nhiệm vụ của giai
đoạn này là xét xử lại vụ án về mặt nội dung cũng như kiểm tra lại tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có
hiệu lực thi hành ngay.
Vì vậy, từ khái niệm chung về THQCT trong TTHS đã đề cập ở trên, có thể
rút ra khái niệm: THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm là hoạt động của VKS
thực hiện các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật TTHS nhằm bảo

đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
làm oan người vô tội.
Đối tượng THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Như trên đã trình bày, thì đối tượng của thực hành quyền công tố nói chung
là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử. Từ đó có thể chỉ ra đối tượng của thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
những người phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án nhưng chưa có hiệu
lực.

Phạm vi THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm


20
Do tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án hoặc quyết định sơ
thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo hoặc kháng nghị cho nên thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ phát sinh khi có
kháng cáo hoặc kháng nghị. Theo quy định của BLHTT thì sau khi tuyên án, bản
án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành ngay mà trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày tuyên án, người kháng cáo có quyền kháng cáo, VKS cùng
cấp có quyền kháng nghị; và trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày tuyên án
VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị. Trong thời hạn này VKS và người có
quyền kháng cáo có thể kháng cáo, kháng nghị bất cứ lúc nào. Vì vậy, trong giai
đoạn phúc thẩm hình sự phạm vi THQCT được bắt đầu từ sau khi tuyên bản án,
quyết định sơ thẩm và kết thúc sau khi Toà án phúc thẩm tuyên án hoặc vụ án bị
đình chỉ theo quy định của pháp luật.
Nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự
Về cơ bản, nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm tương tự như
nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, khác
với giai đoạn xét xử sơ thẩm nội dung THQCT trong xét xử phúc thẩm có thêm

phần quyền kháng nghị phúc thẩm nhưng không có hoạt động công bố cáo trạng,
khi tranh luận KSV phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án. Mặt
khác, theo quy định tại Điều 241 BLTTHS, Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án có thể xem xét cả
các phần kháng không bị kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy, nội dung hoạt động
THQCT trong xét xử phúc thẩm cũng được thực hiện tương ứng với phạm vi xét
xử của Toà án cấp phục thẩm, tưc là VKS chỉ thực hiện hoạt động THQCT đối với
những vấn đề thuộc nội dung kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề khác khi
thấy cần thiết.
2.1.2. Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung KSVTTPL trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự


21
Khái niệm KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự hoạt động KSVTTPL có nội dung
là kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện pháp luật của Toà án và những người
tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự nhằm bảo đảm cho việc
xét xử được tiến hành đúng các quy định của pháp luật.
Từ khái niệm chung về KSVTTPL trong TTHS có thể rút ra khái niệm:
KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm là tổng hợp các quyền năng pháp lý
của VKS, có nội dung là kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả
các chủ thể tham gia TTHS trong giai đoạn phúc thẩm nhằm bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Đối tượng của KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Đối tượng của KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự là sự
tuân theo pháp luật của Toà án cấp phúc thẩm và những người tham gia tố tụng
trong giai đoạn tố tụng này. Khi tiến hành các hoạt động kiểm sát, VKS không chỉ
dựa trên các quy định của BLTTHS mà còn trên các căn cứ pháp lý khác là Hiến
pháp, Luật tổ chức VKSND, BLHS và các văn bản pháp luật khác liên quan để

kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể là đối tượng của hoạt động
kiểm sát cũng như để bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ của chính hoạt động
kiểm sát của VKS.
Phạm vi KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Toà án cấp trên trực tiếp của Toà
án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng để mở phiên toà phúc thẩm
xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản
án, quyết định sơ thẩm. Những người có liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị
có quyền tham gia phiên toà phúc thẩm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Như vậy, khi có kháng cáo, kháng nghị hợp lệ thì mặc nhiên phát sinh
thủ tục xét xử phúc thẩm của Toà án và hoạt động của các chủ thể tham gia TTHS


22
khác. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, thì trong thời hạn 15 ngày đối với
VKS cấp sơ thẩm và 30 ngày đối với VKS cấp trên trực tiếp, kể từ ngày tuyên án
sơ thẩm, VKS có quyền kháng đối với bản án sơ thẩm. Vì vậy, để đảm bảo các
hành vi tố tụng của các chủ thể nói trên tuân thủ pháp luật, thì trong hoạt động
KSVTTPL của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm được bắt đầu ngay từ thời
điểm sau khi tuyên bản án sơ thẩm.
Theo quy định tại Điều 248 và Điều 253 BLTTHS, bản án hoặc quyết định
phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định.
Điều đó đồng nghĩa với việc hoạt động THQCT cũng được kết thúc. Tuy nhiên,
đối với hoạt động KSVTTPL, phạm vi kết thúc của hoạt động này sau khi VKS
thực hiện xong quyền kiểm tra, giám sát tính có căn cứ và hợp pháp của bản án
phúc thẩm. Quá trình kiểm sát nếu phát hiện bản án phúc thẩm có vi phạm pháp
luật thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà VKS kiến nghị với Toà án khắc phục hoặc
đề nghị VKS cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Nội dung KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Nội dung của các quyền năng của VKS khi tiến hành KSVTTPL trong giai

đoạn xét xử phúc thẩm hình sự là tất cả những quyền năng pháp lý mà VKS được
sử dụng để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, những vi phạm pháp luật trong các
hoạt động tố tụng của cấp sơ thẩm (bao gồm cả các sai sót thể hiện trong bản án,
quyết định sơ thẩm) và các hoạt động tố tụng của các chủ thể ở giai đoạn phúc
thẩm (việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm, việc xét xử tại phiên toà phúc thẩm), kịp
thời áp dụng những biện pháp (kháng nghị, kiến nghị...) để yêu cầu toà án cấp phúc
thẩm khắc phục.
2.1.3. Quan hệ giữa THQCT và KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm hình sự.
Từ phân tích về về khái niệm THQCT và KSVTTPL trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự cũng như đối tượng, phạm vi, nội dung giữa hai chức năng này,


23
có thể thấy rằng tuy đây là hai chức năng độc lập, có đối tượng tác động, phạm vi
và nội dung hoạt động khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại
với nhau. Kết quả của hoạt động kiểm sát là cơ sở cho hoạt động THQCT có hiệu
quả và ngược lại kết quả của hoạt động THQCT cũng là tiền đề cho hoạt động
KSVTTPL. Thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm sát cho thấy,
trên cơ sở các quy định của pháp luật, VKS các cấp luôn quán triệt quan điểm đấu
tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt
động tư pháp hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đã được phát hiện đều
phải được điều tra và xử lý nghiêm minh theo pháp luật; các bản án, quyết định của
Toà án phải bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ; mọi hoạt động xét xử phải tuân
thủ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Pháp luật TTHS nước ta quy định nguyên tắc hai cấp xét xử, đây cũng là
thông lệ chung của các quốc gia khác trên thế giới. Theo nguyên tắc này, bản án
hoặc quyết định sơ thẩm không có hiệu lực ngay sau khi tuyên án mà có thể bị
kháng cáo, kháng nghị yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án. Kháng
nghị của VKS đối với các bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật vừa thể

hiện kết quả hoạt động KSVTTPL trong xét xử, vừa thể hiện trách nhiệm THQCT
của VKS bảo đảm nguyên tắc “không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”, đồng thời
không để xảy ra các trường hợp xét xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Như vậy,
kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý quan trọng mà Nhà nước chỉ trao
cho VKS nhằm đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ thống nhất và nghiêm minh.
Khi bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng
nghị, Toà án phúc thẩm sẽ tiến hành nhiều biện pháp nhằm làm sáng tỏ nội dung
kháng cáo, kháng nghị, xem xét những vấn đề khác có liên quan, đồng thời chuẩn
bị các điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử. Trong toàn bộ quá trình này, VKS
có nhiệm vụ KSVTTPL đối với tất cả các hoạt động tố tụng của HĐXX và những


24
người tham gia tố tụng khác tại phiên toà phúc thẩm. Hoạt động nỳa của KSV cũng
là một yếu tố bảo đảm cho hoạt động THQCT của KSV tại phiên toà (như tham gia
xét hỏi, phát biểu quan điểm của VKS, tranh luận, đối đáp, đề nghị HĐXX chấp
nhận hay không chấp nhận toàn bộ hay một phần kháng cáo, kháng nghị...) đạt
hiệu quả cao. Nếu KSV theo dõi chặt chẽ diến biến phiên toà, kịp thời phát hiện
những vi phạm, thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ án của HĐXX để yêu cầu
khắc phục ngay thì các hoạt động của KSV tại phiên toà cũng sẽ đạt kết quả tốt,
đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, THQCT và KSVTTPL trong xét xử phúc thẩm hình sự là hai chức
năng có tính độc lập tương đối nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành hai mặt
thống nhất trong hoạt động của VKS ở giai đoạn tố tụng này. Chức năng
KSVTTPL nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng được hợp pháp, khách quan, đầy
đủ, tương hỗ cho chức năng THQCT nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời là một trong các giải pháp
đẻ hạn chế độc quyền, lạm quyền trong xét xử [59,tr.18].
Cả hai chức năng này đều có chung mục đích là nhằm bảo đảm để vụ án

được giải quyết đúng đắn, khách quan và công bằng. Tính độc lập của hai chức
năng này chỉ là tương đối, bởi lẽ trong một số trường hợp khó có thể phân định cụ
thể và rõ ràng giữa hai chức năng này. Việc thực hiện đồng thời hai chức năng này
tại phiên toà là nhiệm vụ hết sức nặng nề đỏi hỏi mỗi KSV phải nỗ lực rèn luyện,
phấn đấu và nêu cao tinh thần trách nhiệm mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này.
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật TTHS về chức năng
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự từ năm 1945 đến
trước năm 2003
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời đã bắt tay ngay vào việc kiện toàn lại bộ máy nhà nước. Trong đó,


25
hệ thống các cơ quan Tòa án đã được tổ chức hoạt động trên phạm vi cả nước. Tại
các Sắc lệnh số 33C/SL ngày 13/9/1945, Tòa án quân sự được thành lập ở 03 miền
Bắc, Trung, Nam; Sắc lệnh 13/SL ngày 24/11/1946 hệ thống Tòa án nhân dân
được thành lập bao gồm các tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; Sắc
lệnh số 64 ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời thành lập Tòa án đặc
biệt để xét xử những nhân viên của UBND, nhân viên của các cơ quan của Chính
phủ phạm tội. Trong các Tòa án đều có “công tố viên” do Công tố ủy viên phụ
trách, chuyên thực hiện chức năng công tố. Chánh án và Công tố ủy viên trong các
Tòa án đều là thủ trưởng đơn vị, có nhiệm vụ riêng biệt.
Tại kỳ họp thứ 8, phiên họp ngày 29/4/1958, Quốc Hội khóa I đã quyết định
chia tách và thành lập mới một số cơ quan nhà nước, trong đó có việc thành lập
Viện công tố trung ương và hệ thống Viện công tố, Tòa án cũng được thành lập
thành hệ thống riêng biệt. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị
định số 256/TTg quy định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố và tổ chức
hệ thống Viện công tố - tiền thân của VKSND, có nhiệm vụ chung là: “giám sát
việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của nhà nước, truy tố theo luật hình sự

những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự, an ninh,
bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho
công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi…Khi thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể, Viện công tố có trách nhiệm áp dụng những biện pháp pháp
lý thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi phạm pháp, mọi phần tử phạm
pháp”. Theo đó, Viện công tố thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như: điều tra, truy
tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật
trong công tác điều tra của CQĐT; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công
tác xét xử của Tòa án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các
bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của các cơ quan giam giữ, cải tạo…
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980


×