Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về chỉ định thầu ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.7 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN LINH CHI

PHÁP LUẬT VỀ CHỈ ĐỊNH THẦU Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN LINH CHI

PHÁP LUẬT VỀ CHỈ ĐỊNH THẦU Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ


HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em
và các bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lới
cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, bộ môn Luật kinh tế
trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
PGS.TS. Nguyễn Viết Tý, người thầy kính mến đã hết lòng giúp đỡ,
dạy bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã
cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Cảm ơn các thầy cô giáo đã trang bị nhiều kiến thức quý báu trong
quá trình đào tạo tại trường đại học Luật Hà Nội.
Chân thành cảm ơn ba mẹ, hai em và bạn bè đã luôn ở bên cạnh động
viên, giúp đỡ tôi học tập và ủng hộ tôi trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 15/5/2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Viết Tý. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các

nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài
còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ
quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 15/5/2014
Tác giả


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………

03

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU VÀ
CHỈ ĐỊNH THẦU………………………………………………….

07

1.1. Khái quát về đấu thầu và chỉ định thầu……………………..

07

1.1.1.

Đấu thầu và vai trò của đấu thầu……………………………….

07


1.1.2.

Chỉ định thầu – Một hình thức của đấu thầu ………………..

13

1.2. Khái quát về pháp luật về đấu thầu chỉ định thầu ………...

18

1.2.1.

Lịch sử phát triển pháp luật đấu thầu…………………………

18

1.2.2.

Hệ thống các văn bản pháp luật về đấu thầu………………….

20

1.2.3.

Pháp luật về chỉ định thầu - một bộ phận của pháp luật đầu thầu..

24

1.3. Pháp luật đấu thầu một số nước trên thế giới và kinh nghiệm
đối với Việt Nam…………………………………….


26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỈ ĐỊNH
THẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY……………………………….

2.1. Những quy định pháp luật hiện hành về chỉ định thầu ……

28
28

2.1.1.

Quy định về khái niệm chỉ định thầu………………………..

28

2.1.2.

Quy định về các trường hợp được chỉ định thầu………..……

28

2.1.3.

Quy định về điều kiện áp dụng chỉ định thầu……………….

36

2.1.4.


Quy trình chỉ định thầu………………………………………..

39

2.2. Thực trạng chỉ định thầu ở Việt Nam hiện nay ……………

42

2.2.1.

Một số hạn chế bất cập trong chỉ định thầu ở Việt Nam hiện nay.

42

2.2.2.

Nguyên nhân của thực trạng trên……………………………..

51


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHỈ ĐỊNH THẦU Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY……………………………..

3.1. Hoàn thiện pháp luật về chỉ định thầu……………………..
3.1.1.

3.1.2.


56
56

Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định hiện hành trong Luật Đấu
thầu……………………………………………………….

57

Pháp luật cần có những bổ sung thích hợp trong thời gian tới...

58

3.2. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chỉ định
thầu……………………………………………………..
3.2.1.

61

Cần chấm dứt tình trạng ưu ái cho các doanh nghiệp nhà nước
hoặc các doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với các cơ quan
nhà nước trong hoạt động đấu thầu…………………….

3.2.2.

Cần triển khai mạnh mẽ hoạt động đấu thầu qua mạng một cách
có hệ thống và quy mô …………………………………

3.2.3.


61

62

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đấu thầu, mua
sắm công………………………………………………….

63

3.2.4.

Các bộ, ngành, địa phương liên quan phải tổ chức kiểm điểm

64

3.2.5.

Cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động
đấu thầu…………………………………………………

65

KẾT LUẬN……………………………………………………….

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng nhờ cơ chế kinh tế thị trường cùng việc cải cách kinh tế của Nhà nước. Hoạt
động đấu thầu tuy mới được dụng rộng rãi trong thời gian qua nhưng đã góp phần
không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế của nước nhà.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã thông qua một số văn kiện quan trọng và đề ra
các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, đề ra "chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp".
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, yêu cầu Nhà nước cần phải xây dựng cơ
chế kinh tế hợp lý và một hệ thống pháp luật hoạt động có hiệu quả. Điều này đòi
hỏi quá trình cải cách kinh tế luôn có phải có những thay đổi phù hợp với tình hình
luôn luôn biến đổi.
Có thể nói, hoạt động đấu thầu đóng vai trò khá quan trọng trong toàn bộ
quá trình mua sắm của Chính phủ nói riêng và trong các hoạt động thương mại nói
chung. Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời
thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án theo quy định của pháp luật trên cơ sở
bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Trong những
năm gần đây, hoạt động đấu thầu ngày càng phổ biến trong cơ chế thị trường hiện
nay. Đặc biệt, khi Luật Đấu thầu (2005) và các văn bản hướng dẫn luật được ban
hành thì hoạt động này càng thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp cũng như
đông đảo công chúng.
Theo quy định của pháp luật, có nhiều hình thức lựa chọn nhà thầu như: đấu
thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, mua sắm trực tiếp, chào hàng cạnh


4


tranh trong mua bán hàng hóa, tự thực hiện, lựa chọn nhà thầu trong trường hợp
đặc biệt.
Trong số đó, chỉ định thầu được xem là một hình thức lựa chọn nhà thầu
đặc biệt, đang được áp dụng khá phổ biến, nhất là từ khi Nghị định 85/2009/NĐCP ngày 15/10/2009 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn
nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng ra đời. Tuy nhiên, thực trạng chỉ định thầu
hiện nay lại bộc lộ nhiều hạn chế bất cập.
Thực tế cho thấy, tình trạng chỉ định thầu vẫn được áp dụng một cách tràn
lan, bừa bãi, không đảm bảo theo quy định pháp luật. Một số doanh nghiệp được
ưu ái trong chỉ định thầu mà không quan tâm đến năng lực nhà thầu. Chỉ định thầu
gây ra hậu quả là tăng tham nhũng, lãng phí và giảm hiệu quả sử dụng vốn… Thực
tế cho thấy, không ít công trình, dự án được chỉ định thầu mà chất lượng công
trình không đảm bảo, rất chậm tiến độ. Từ đó dẫn đến các dự án chỉ định thầu ở
Việt Nam đều không đảm bảo…
Những tồn tại đó một phần xuất phát từ các quy định của pháp luật chưa cụ
thể, rõ ràng và thống nhất. Nhiều quy định chưa chặt chẽ gây khó khăn trong việc
thực hiện và cũng là cơ sở để các nhà thầu "lách luật". Mặt khác, việc ban hành
các văn bản hướng dẫn cụ thể của Bộ kế hoạch và Đầu tư còn chậm và thiếu chặt
chẽ. Điều này đã khiến cho các dự án chỉ định thầu chưa đạt được hiệu quả cao.
Tất cả đó là lý do để tôi chọn vấn đề: “Pháp luật về chỉ định thầu ở Việt
Nam – thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, tình hình nghiên cứu về pháp luật đấu thầu được nhiều
tác giả thực hiện như: "Đấu thầu trong các hoạt động xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước và ODA theo pháp luật Việt Nam hiện hành" (Trần Thắng
Lợi); "Những quy định mới của luật xây dựng năm 2003 về đấu thầu xây dựng và


5

các giải pháp thực hiện" (Bùi Lê Bá Hùng); "Chế độ đấu thầu - Thực trạng pháp

luật, thực tế thực hiện và những vấn đề cần giải quyết" (Đặng Thị Khánh Ly);
"Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp các công
trình sử dụng vốn nhà nước" (Bùi Thanh Hằng); "Pháp luật kiểm soát hành vi
thông đồng trong đấu thầu tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện"
(Trần Anh Quân), "Pháp luật về đấu thầu mua sắm công những vấn đề lý luận và
thực tiễn" (Nguyễn Thị Như Trang)….
Một mặt, các đề tài đã nói lên được những ưu điểm cũng như những bất cập
của pháp luật đấu thầu. Mặc khác, các đề tài đã góp phần không nhỏ giúp hoàn
thiện pháp luật đấu thầu giúp luật đấu thầu phù hợp hơn với thực tiễn.
Tuy nhiên, mặc dù có rất nhiều đề tài nghiên cứu về pháp luật đấu thầu
nhưng chưa có đề tài nào đề cập, đi sâu nghiên cứu đến vấn đề pháp luật Chỉ định
thầu mặc dù thực trạng Chỉ định thầu đang tồn tại nhiều bất cập trong thực tiễn. Vì
vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về chỉ định thầu ở Việt Nam – thực
trạng và giải pháp” với mong muốn sẽ góp một phần nhỏ hoàn thiện hơn nữa để
hệ thống pháp luật đấu thầu phù hợp hơn với thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chỉ định thầu,
làm rõ thực trạng của pháp luật về chỉ định thầu, từ đó tìm kiếm các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về chỉ định thầu.
Để đạt được mục đích nêu trên khi nghiên cứu đề tài này phải thực hiện
những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Xác định được một số khái niệm liên quan đến chỉ định thầu và pháp luật
về chỉ định thầu.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng pháp luật về chỉ định thầu hiện hành ở
Việt Nam;


6

- Đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chỉ định thầu ở

Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng phương pháp luận là phương
pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
Đồng thời luận văn cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, so sánh, bình luận và dự đoán.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận văn có những đóng góp sau đây:
- Trình bày những vấn đề cơ bản của pháp luật về đấu thầu, từ đó làm rõ
những vấn đề có tính đặc thù trong hoạt động chỉ định thầu.
- Đưa ra những đánh giá về thực trạng pháp luật về chỉ định thầu và thực
tiễn áp dụng các quy định này.
- Trình bày và đề xuất những giải pháp cần thiết cho việc thực hiện hiệu quả
các quy định về chỉ định thầu
- Tìm hiểu và phân tích những điểm mới về chỉ định thầu hiện nay, cơ sở lý
luận và thực tiễn áp dụng các quy định này.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan pháp luật về đấu thầu và chỉ định thầu;
Chương 2: Thực trạng chỉ định thầu ở Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động chỉ định thầu ở Việt Nam hiện nay.


7

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU VÀ CHỈ ĐỊNH THẦU
1.1. Khái quát về đấu thầu và chỉ định thầu

1.1.1. Đấu thầu và vai trò của đấu thầu
♦ Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu

Theo từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 1998) thì
cụm từ " đấu thầu" được giải thích là đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán
với điều kiện tốt nhất thì được giao làm hoặc bán hàng (phương thức giao
làm công trình hoặc mua hàng) [10, tr.270]. Như vậy, bản chất của đấu thầu
là sự "đọ sức", công khai cạnh tranh lành mạnh để thực hiện một yêu cầu nào
đó.
Đấu thầu còn được hiểu là Đấu giá để thầu [11, tr.318].
Từ điển kinh doanh của Anh (Longman Dictionary of Business) không
nêu rõ đấu thầu là gì mà chỉ giải thích đấu thầu mua sắm là việc sử dụng các
phương pháp hoặc nỗ lực đặc biệt để nhận được hay mua được.
Ngôn ngữ quốc tế cũng thừa nhận một số định nghĩa về đấu thầu trong
các văn bản khác nhau, nhưng dễ nhận thấy là bản chất của đấu thầu dù dưới
dạng quy chế hay luật thì đều sử dụng một thuật ngữ có xuất xứ từ tiếng Anh là
"Procurement" (nghĩa là mua sắm).
Theo khoản 2, Điều 4 của Luật Đấu thầu (2005), "đấu thầu" là quá trình
lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn,
dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết
và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư
có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu


8

quả kinh tế. Kết quả của sự lựa chọn là có hợp đồng ký kết giữa các bên với các
điều khoản quy định chi tiết trách nhiệm của mỗi bên: bên nhà thầu thì phải
thực hiện các nhiệm vụ nêu trong hồ sơ mời thầu, còn bên chủ đầu tư có trách
nhiệm giám sát, kiểm tra, nghiệm thu và thanh toán. Thực chất quá trình đấu

thầu ở Việt Nam đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước là một quá trình mua
sắm, xây dựng công trình .., là quá trình chi tiêu, sử dụng tiền của Nhà nước.
Theo định nghĩa tại khoản 1, Điều 214 Luật Thương mại (2005) thì:
"Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua
hàng hóa, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn
trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân
đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để kí kết
và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)".
Có thể thấy rằng, các khái nhiệm pháp lý về đấu thầu được ghi nhận
trong Luật Thương mại (2005) và Luật Đấu thầu (2005) đều mới chỉ quan tâm
đến biểu hiện về hình thức của hành vi mà chưa làm rõ bản chất và cơ chế cạnh
tranh trong đấu thầu. Các cách hiểu nói trên về hoạt động đấu thầu có thể xây
dựng từ quan niệm của các nhà làm luật về nhiệm vụ và giới hạn điều chỉnh của
pháp luật. Theo đó, Luật Đấu thầu có vai trò là công cụ pháp lý để quản lý nhà
nước đối với việc đấu thầu các dự án liên quan đến hoạt động chi tiêu, sử dụng
vốn Nhà nước trong mua sắm hàng hóa, cung cấp dịch vụ tư vấn và xây lắp.
Còn Luật Thương mại điều chỉnh hoạt động đấu thầu với tư cách là hoạt động
thương mại. Cả hai văn bản này đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đấu
thầu hơn là quan tâm đến việc duy trì và bảo vệ cơ chế cạnh tranh của hoạt
động này.
Dưới góc độ của lý luận về cạnh tranh, đấu thấu được nhìn nhận là hình
thức lựa chọn người cung cấp hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ, theo đó người


9

tổ chức mời thầu sử dụng cơ chế cạnh tranh bằng cách đưa ra gói thầu để các
bên dự thầu cạnh tranh về giá, về chất lượng… với mong muốn có thể lựa
chọn được người cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ có chất lượng tốt nhất
với mức giá rẻ nhất. Tùy theo giá trị của gói thầu và điều kiện người mời thầu

mà mức độ cạnh tranh trong đấu thầu sẽ khác nhau. Sự cạnh tranh chỉ diễn ra
khi có nhiều người tham gia dự thầu, các nhà thầu độc lập với nhau và với
người mời thầu, đồng thời không tồn tại bất cứ thỏa thuận nào giữa người mời
thầu với một hay một số người dự thầu hoặc giữa những người dự thầu với
nhau.
Như vậy, pháp luật đấu thầu một mặt phải tạo môi trường cho cơ chế
cạnh tranh vận hành trong hoạt động đấu thầu, mặt khác phải duy trì và đảm
bảo sự lành mạnh của cơ chế cạnh tranh đó. Theo cách thiết kế của pháp luật
hiện hành, Luật Thương mại và Luật Đấu thầu đảm nhiệm toàn bộ nhiệm vụ
thứ nhất và một phần của nhiệm vụ thứ hai bằng các quy định về nguyên tắc
đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu, nghĩa vụ của các bên tham gia và việc xử lý
vi phạm pháp luật về đấu thầu [18, tr 16 -17].
Từ khái niệm trên, có thể xác định đấu thầu có một số đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, Đấu thầu là một quá trình đa chủ thể. Trong quá trình đấu thấu
luôn có hai bên là bên mời thầu và bên dự thầu. Bên mời thầu thông thường là
chủ sở hữu của nguồn vốn được dùng để mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Trong
một số trường hợp, bên mời thầu chỉ là người được giao quyền sử dụng vốn để
mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Trong những trường hợp đó, người chủ sở hữu
đích thực của nguồn vốn này sẽ có vai trò chi phối nhất định đối với gói thầu.
Bên dự thầu là bên có khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ nhưng không phải
bất kỳ chủ thể nào cũng có thể trở thành bên dự thầu mà chỉ những chủ thể có


10

năng lực thực hiện và không ở trong diện bị loại trừ theo các tiêu chuẩn do bên
mời thầu đặt ra mới có quyền trở thành bên tham dự thầu. Trong quan hệ đấu
thấu, chủ thể thứ ba cũng thường xuất hiện, đó là các nhà tư vấn. Họ hiện diện
như một nhân tố đảm bảo cho quá trình đấu thầu được thực hiện nghiêm túc.

Một chủ thể nữa trong quan hệ đấu thầu, tuy không trực tiếp tham gia
vào quan hệ đấu thầu nhưng lại giữ vai trò quyết định - đó là bên sở hữu nguồn
vốn. Hoạt động mua sắm hàng hóa, dịch vụ trong đấu thầu thường sử dụng
nguồn vốn lớn chủ yếu là của các tổ chức, phía cho vay như Nhà nước, Chính
phủ, các tổ chức quốc tế.
Ngoài các chủ thể trên còn có thêm một thành phần chủ thể nữa là các cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu nhằm đảm
bảo cho quá trình đấu thầu diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục, nhanh chóng phát
hiện và sửa chữa kịp thời những sai sót trong toàn bộ quy trình và kiểm tra lần
cuối cùng trước khi bước sang giai đoạn ký và thực hiện hợp đồng.
Thứ hai, Đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn, giữa các giai
đoạn có sự liên hệ mật thiết với nhau, giai đoạn trước là nền móng để thực hiện
giai đoạn sau. Mỗi giai đoạn thực hiện các mục tiêu khác nhau nhưng chung
quy lại, các giai đoạn này đều nằm trong một thể thống nhất. Khi tham gia vào
các giai đoạn, các chủ thể đều phải tuân theo các quy tắc chung.
Thứ ba, Đấu thầu là một giai đoạn tiền hợp đồng, luôn gắn với quan hệ
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Mục đích cuối cùng của đấu thầu là giúp
bên mời thầu tìm ra được đối tác có khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ có
chất lượng tốt với giá cả hợp lý nhất. Sau khi quá trình đấu thầu hoàn tất, bên
trúng thầu và bên mời thầu sẽ đi đến thương thảo và ký kết hợp đồng. Khi đó,
đấu thầu hoàn tất sứ mệnh của nó.


11

Thứ tư, Đấu thầu là quá trình cạnh tranh bình đẳng, công khai và minh
bạch. Khi tham gia vào hoạt động đấu thầu, bên mời thầu đưa ra trước các yêu
cầu của mình để các bên dự thầu căn cứ vào đó để đưa ra các mức giá cung cấp
hàng hóa, dịch vụ. Vì thế, đấu thầu sự cạnh tranh giữa các bên dự thầu. Bên
mời thầu sẽ chỉ chọn bên dự thầu nào đưa ra sản phẩm chất lượng và giá cả hợp

lý nhất. Tất nhiên, sự cạnh tranh giữa các bên dự thầu phải tuân theo những
nguyên tắc, những yêu cầu nhất định, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa
các nhà thầu. Các bên dự thầu được hưởng các điều kiện và cơ hội ngang nhau
trong quá trình tham gia đấu thầu, tuyệt đối không có sự phân biệt đối xử.
Chính điều này đã tạo ra sự minh bạch trong cả quá trình đấu thầu. Nhờ cạnh
tranh bình đẳng, công khai và minh bạch, bên mời thầu sẽ hiểu rõ hơn năng lực
của từng nhà thầu để tuyển chọn đối tác thích hợp để hợp tác.
Thứ năm, đấu thầu có thể được thực hiện trên cơ sở từng gói thầu. Gói
thầu ở đây có thể là toàn bộ dự án hoặc dự án được chia ra thành từng phần, có
quy mô hợp lý, đảm bảo được tính đồng bộ. Việc phân chia này đảm bảo cho
bên mời thầu lựa chọn được từng nhà thầu phù hợp với từng gói thầu và tạo cơ
hội thuận lợi cho sự tham gia của các nhà thầu.
Thứ sáu, khi tham gia đấu thầu, nhà thầu phải có sự bảo lãnh dự thầu.
Bảo lãnh dự thầu là việc nhà thầu đặt một khoản tiền mặt, séc hoặc bảo lãnh
của ngân hàng hoặc các hình thức tương đương… để đảm bảo trách nhiệm của
mình với hồ sơ dự thầu. Khi nhà thầu rút đơn dự thầu trong thời hạn có hiệu lực
của hồ sơ dự thầu đã có hiệu lực của hồ sơ dự thầu đã được quy định trong hồ
sơ mời thầu hoặc khi nhà thầu đã được bên mời thầu thông báo trúng thầu trong
thời hạn có hiệu lực của hồ sơ dự thầu mà nhà thầu từ chối thực hiện hợp đồng
hoặc không có khả năng nộp hoặc từ chối bảo lãnh thực hiện hợp đồng… thì
phía bảo lãnh sẽ phải trả cho bên mời thầu một số tiền ngay sau khi nhận được


12

văn bản yêu cầu của bên mời thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm đảm
bảo nhà thầu không thay đổi ý định và hủy bỏ việc tham gia đấu thầu. Đây cũng
là biện pháp bảo vệ quyền lợi bên mời thầu và loại bỏ những nhà thầu không
nghiêm túc.
♦ Vai trò của đấu thầu trong nền kinh tế


Đấu thầu là hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các quy
luật khách quan của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá cả - giá trị.
Thông qua hoạt động đấu thầu, bên mời thầu có nhiều cơ hội để lựa chọn người
bán phù hợp với mình, mang lại hiệu quả cao nhất, xứng đáng với giá trị đồng
tiền mà mình bỏ ra. Đồng thời, các bên dự thầu cũng có nhiều cơ hội để cạnh
tranh nhằm đặt được các Hợp đồng, có thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ của
mình để tối đa hóa lợi nhuận.
Thông qua đấu thầu, các hoạt động kinh tế được kích thích phát triển.
Với việc nhiều nhà thầu đóng vai trò là tổng thầu đứng ra để kết hợp các nhà
chế tạo, sản xuất, các chuyên gia tư vấn nhằm thực hiện các gói thầu quy mô
lớn, tổng hợp nhiều lĩnh vực đã làm cho hoạt động kinh tế diễn ra theo hướng
chuyên môn hóa sâu và đa phương hóa rộng.
Đấu thầu là công cụ quan trọng của kinh tế thị trường giúp bên mời thầu
(người mua) và bên dự thầu (người bán) gặp nhau thông qua cạnh tranh. Nhờ
các quy chế đấu thầu mà trách nhiệm của các bên ngày càng được nâng cao.
Nhờ đó, chất lượng, tiến độ công trình luôn được đảm bảo hoặc có nhiều cải
thiện đáng kể.
Đồng thời, đấu thầu cũng giúp phát triển các ngành sản xuất theo hướng
chuyên môn hóa sâu và hợp tác hóa rộng, thông qua đó phát triển thị trường đấu
thầu. Mặt khác, đấu thầu cũng giúp kích thích thị trường trong nước phát triển,


13

chống được sự độc quyền tự nhiên. Không những thế, các chủ đầu tư, bên mời
thầu còn được tăng cường về năng lực, họ có thêm kiến thức, thông tin và trở
thành những người mua sáng suốt. Chính điều này thúc đẩy hoạt động đấu thầu
diễn ra bình đẳng, công khai, minh bạch. Tính công khai minh bạch không
những giúp các cơ quan quản lý nắm bắt thông tin về nhà thầu mà còn giúp cho

các nhà thầu hiểu về nhau, giám sát quá trình đấu thầu hạn chế khiếu kiện, tranh
chấp có thể phát sinh trong các giai đoạn đấu thầu.
Đấu thầu cũng thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức và kinh
nghiệm giữa các Quốc gia, các tổ chức phát triển và đang phát triển. Hoạt động
đấu thầu diễn ra không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà nó diễn ra
trên phạm vi toàn thế giới. Các nhà thầu một mặt muốn nâng cao uy tín của
mình, mặt khác muốn vươn rộng ra thị trường thế giới, họ sẽ chia sẻ kiến thức,
kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ để tìm các đối tác trong quá trình hoạt
động của mình.
Đấu thầu cũng tạo điều kiện để thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế từ
cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Mặt
khác các hoạt động đấu thầu cũng thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc phục
những nhược điểm của thủ tục hành chính nặng nề, cản trở sự năng động và
sáng tạo.
1.1.2. Chỉ định thầu – Một hình thức của đấu thầu
♦ Các hình thức đấu thầu

Theo quy định tại Điều 215 Luật Thương mại năm 2005, có hai hình thức
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, đó là đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế. Còn
theo quy định tại mục 1, chương II Luật Đấu thầu 2013 thì còn có thêm các
hình thức đấu thầu như: chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp,


14

tự thực hiện, và lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt và tham gia thực
hiện của cộng đồng.
*Đấu thầu rộng rãi:
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu,
nhà đầu tư tham dự. Đây là hình thức lựa chọn được Nhà thầu tốt nhất mang

tính cạnh tranh cao. Tuy nhiên, hình thức này cũng mang lại nhiều khó khăn
cho bên mời thầu khi phải quản lý số lượng lớn hồ sơ, chi phí cho hoạt động tổ
chức đấu thầu cũng lớn kéo theo thời gian thực hiện công tác tổ chức cũng dài.
Đồng thời có thể xảy ra trường hợp Nhà thầu liên kết để đẩy giá trúng thầu.
(Xem điểm a, khoản 1 Điều 215 Luật thương mại 2005 và Điều 18 Luật Đấu
thầu năm 2005)
* Đấu thầu hạn chế:
Đấu thầu hạn chế là hình thức chỉ có một số lượng nhà thầu nhất định
tham gia dự thầu (ít nhất là 3 nhà thầu) được áp dụng trong trường hợp gói thầu
có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà
thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Ưu điểm của hình thức này là bên mời thầu
tiết kiệm được thời gian và chi phí. Tuy nhiên, do sự lựa chọn ít nên trong
nhiều trường hợp bên mời thầu chưa chắc đã lựa chọn được nhà thầu phù hợp
nhất. Trong trường hợp số Nhà thầu được chọn nhỏ hơn 5 thì bên mời thầu phải
thông báo công khai và báo cáo chủ đầu tư trình cấp có thẩm quyền xem xét.
Danh sách Nhà thầu tham dự do Chủ đầu tư quyết định trên cơ sở đánh giá của
bên mời thầu về năng lực, kinh nghiệm. Điều kiện áp dụng hình thức này là chỉ
có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu gói thầu, do yêu cầu của
nguồn vốn sử dụng và do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn
chế có lợi thế. (Xem điểm b, khoản 1 Điều 215 Luật thương mại 2005 và Điều
19 Luật Đấu thầu năm 2005)


15

*Chỉ định thầu:
Chỉ định thầu là hình thức lựa chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu
của gói thầu để thương thảo và ký kết hợp đồng [13]. Nhà thầu được lựa chọn
có những điều kiện nhất định mà những nhà thầu khác không đáp ứng được.
Luật Đấu thầu 2013 cũng quy định rõ các trường hợp được chỉ định thầu. (Xem

Điều 20 Luật Đấu thầu năm 2005)
* Mua sắm trực tiếp:
Mua sắm trực tiếp được áp dụng khi hợp đồng đối với gói thầu có nội
dung tương tự được ký trước đó không quá sáu tháng.
Khi thực hiện mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được
lựa chọn thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự. Đơn
giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không được
vượt đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp
đồng trước đó.
Đồng thời, được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương
tự thuộc cùng một dự án hoặc thuộc dự án khác (Xem Điều 21 Luật Đấu thầu
năm 2005).
* Chào hàng cạnh tranh:
Hình thức chào hàng cạnh tranh được quy định cụ thể tại Điều 22 Luật
Đấu thầu năm 2005, theo đó chào hàng cạnh tranh được áp dụng trong trường
hợp có đủ các điều kiện như: (i) Gói thầu có giá gói thầu dưới hai tỷ đồng; (ii)
Nội dung mua sắm là những hàng hoá thông dụng, sẵn có trên thị trường với
đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau về chất lượng.
Việc gửi chào hàng có thể thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, gửi bằng fax
hoặc qua đường bưu điện.


16

* Tự thực hiện:
Hình thức tự thực hiện được quy định tại điều 23 Luật Đấu thầu (2005),
hình thức này được áp dụng trong trường hợp chủ đầu tư là nhà thầu có đủ năng
lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thuộc dự án do mình quản lý và sử
dụng.
Khi áp dụng hình thức tự thực hiện, dự toán cho gói thầu phải được phê

duyệt theo quy định. Đơn vị giám sát việc thực hiện gói thầu phải độc lập với
chủ đầu tư về tổ chức và tài chính.
* Lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt
Hình thức này áp dụng đối với các gói thầu có đặc thù riêng biệt mà nếu
không có quy định riêng thì việc tổ chức đấu thầu không thể thực hiện được.
Với hình thức này, người có thẩm quyền trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định phương án lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư (xem tại Điều 24 Luật Đấu
thầu năm 2005).
Ngoài các hình thức chọn nhà thầu, nhà đầu tư nêu trên, Luật Đấu thầu
2013 sắp có hiệu lực cũng có đề cập thêm một hình thức mới, đó là hình
thức: "Tham gia thực hiện của cộng đồng" (quy định tại Điều 27 Luật Đấu
thầu 2013). Theo đó, cộng đồng dân cư, tổ chức, tổ, nhóm thợ tại địa phương
nơi có gói thầu được giao thực hiện toàn bộ hoặc một phần gói thầu đó trong
các trường hợp: (i) Gói thầu thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, chương
trình hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho các huyện, xã miền núi, vùng sâu, vùng
xa, hải đảo, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; (ii) Gói thầu quy mô
nhỏ mà cộng đồng dân cư, tổ chức, tổ, nhóm thợ tại địa phương có thể đảm
nhiệm.
♦ Khái niệm về chỉ định thầu


17

Theo từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 1998), "chỉ
định" có nghĩa là quyết định giao cho ai một nhiệm vụ gì đó.
Chỉ định thầu là một khái niệm không mới và được nhắc đến từ lâu. Theo
đó, chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để thương thảo hợp đồng [13].
Chỉ định thầu là một hình thức của Đấu thầu, bởi vì chỉ định thầu mang
bản chất của đấu thầu như: (i) mục đích cuối cùng là lựa chọn nhà thầu để ký

kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua
sắm hàng hóa, xây lắp; (ii) lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng
dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất… (iii)
Kết quả của sự lựa chọn là có hợp đồng ký kết giữa các bên với các điều khoản
quy định chi tiết trách nhiệm của mỗi bên.
So với các hình thức đấu thầu khác, chỉ định thầu cũng có những đặc
điểm riêng của nó:
Thứ nhất, chỉ định thầu được hiểu là giao cho nhiệm vụ cho một nhà
thầu nhất định để thực hiện gói thầu. Hình thức này áp dụng cho nhà thầu có
những điều kiện mà các nhà thầu khác không có, đáp ứng được các yêu cầu
của bên mời thầu.
Thứ hai, chỉ định thầu chỉ được áp dụng trong những trường hợp nhất
định, không được áp dụng rộng rãi. Chỉ định thầu chỉ được thực hiện trong các
trường hợp nhất định vì những lý do như: bất khả kháng, do yêu cầu, do đảm
bảo bí mật, độc quyền, đảm bảo tương thích, chuyên môn v.v..
Vì vậy, với hình thức chỉ định thầu, nhà thầu được chỉ định sẽ không có
đối thủ cạnh tranh. Trong khi đó, các hình thức đấu thầu khác thì các nhà thầu


18

nộp hồ sơ và cạnh tranh công bằng với nhau. Chỉ nhà thầu có năng lực thực sự
mới được lựa chọn.
1.2. Khái quát về pháp luật về đấu thầu chỉ định thầu
1.2.1. Lịch sử phát triển pháp luật đấu thầu
Có thể nói, hệ thống văn bản pháp luật về mua bán công sản hiện nay nói
chung cũng như về đấu thầu nói riêng đã được đặt những tiền đề đầu tiên ngay
từ buổi đầu lập nước. Trong một số sắc lệnh của mình giai đoạn 1945 - 1946,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở các cơ quan chính phủ khi mua sắm tài sản,
đồ vật phải hết sức tiết kiệm và tránh lãng phí.

Trên thực tế, hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu chỉ mới phát triển
vài thập kỷ gần đây và ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Đầu những năm 1990, trong các văn bản quản lý đầu tư xây dựng đã xuất
hiện "Quy chế đấu thầu trong xây dựng" nhưng chưa rõ ràng.
Đến tháng 3/1994, Bộ xây dựng ban hành "Quy chế đấu thầu xây lắp"
(Quyết định số 06/BXD - VKT thay cho quyết định số 24/BXD - VKT trước
đây). Đây là văn bản được coi là Quy chế đấu thầu đầu tiên, theo đó quy định tất
cả công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước đều phải thực hiện đấu thầu.
Đến ngày 16/4/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 183/TTg
về việc ban hành Quy chế đấu thầu. Theo Quy chế này, các dự án sử dụng vốn
Nhà nước (bao gồm Ngân sách cấp, vốn vay, vốn viện trợ, vốn Nhà Nước ở các
doanh nghiệp) đều phải qua đấu thầu, kết quả đấu thầu có vốn đầu tư trên 10
triệu USD phải thông qua Hội đồng xét thầu Quốc gia thẩm định để trình thủ
tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt.
Năm 1996, Chính phủ ban hành quy chế đấu thầu kèm theo Nghị Định số
43/CP ngày 16/7/1996. Văn bản này mang tính pháp lý cao hơn và phạm vi


19

điều chỉnh rộng hơn, theo đó, "gói thầu" lần đầu tiên trở thành đối tượng quản
lý của công tác đấu thầu.
Ngày 10/5/1997, Luật thương mại ra đời, trong đó có 22 điều (từ Điều
141 đến Điều 162) quy định về Đấu thầu mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Sau đó, Nghị định 43/CP của Chính phủ được thay thế bằng Nghị định số
88/CP ngày 1/9/1999 và Nghị định này được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
14/CP ngày 5/5/2000, đi kèm là thông tư 04/2000/TT-BKH hướng dẫn thực
hiện quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/CP và Nghị định
14/CP. Từ năm 1999 đến năm 2003, công tác đấu thầu chủ yếu được điều chỉnh
bằng Nghị định số 88/CP và Nghị định số 14/CP, so với cơ chế cũ thì nhiều vấn

đề đã sáng tỏ hơn, phương pháp để đánh giá đấu thầu cũng khoa học và chuẩn
mực hơn.
Sự phát triển của hoạt động đấu thầu ngày càng mạnh yêu cầu các văn
bản pháp luật phải thay đổi và hoàn thiện hơn. Đến năm 2003, Chính phủ ban
hành Nghị định số 66/CP ngày 12/6/2003 sửa đổi, bổ sung Quy chế đấu thầu
kèm theo Nghị định số 88/CP và nghị định số 14/CP, Thông tư 01/2004/TTBKH ngày 2/2/2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định 66/CP. Với 45% số điều
bổ sung Nghị định 88/CP và 13% số điều sửa đổi bổ sung Nghị định 14/CP đã
tăng cường tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong đấu thầu, bảo đảm hiệu
quả kinh tế của các dự án, tăng cường một bước công tác thanh tra quản lý hoạt
động đấu thầu và thực hiện Hợp đồng, nâng cao công tác quản lý thông tin về
đấu thầu và nhà thầu. Đặc biệt là việc ban hành Luật xây dựng với chương VI
về lựa chọn Nhà thầu và Hợp đồng xây dựng đã thực sự là một bước tiến cơ
bản trong công tác quản lý Nhà nước về đấu thầu.
Để tạo ra sự thống nhất trong quy định đối với việc chi tiêu sử dụng vốn
nhà nước, từ đó khắc phục được những khó khăn phát sinh trong quá trình thực


20

hiện do có các quy định khác nhau về đấu thầu tại nhiều văn bản pháp lý và
cũng để phù hợp với tiến trình hội nhập Quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước, ngày 29/11/2005, Quốc hội đã ban hành luật Đấu thầu đã tăng
cường tính pháp lý cao nhất của các quy định về đấu thầu, phù hợp với xu
hướng phát triển của thế giới. Tiếp sau luật đấu thầu là hàng loạt văn bản pháp
luật về Đấu thầu khác ra đời cho thấy hoạt động đấu thầu ngày càng đa dạng và
phổ biến như: Nghị định số 85 của Chính phủ ngày 15/10/2009 hướng dẫn thi
hành luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo luật xây dựng, Nghị
định số 68/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 09 năm 2012 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng

theo Luật Xây dựng…..
Quá trình thi hành luật đấu thầu (2005) nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Vì
vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển, ngày 26/11/2013, Chính phủ ban hành Luật
Đấu thầu 2013. Luật Đấu thầu năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày
26/11/2013 đã sửa đổi, bổ sung, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật cũ
ban hành năm 2005, đáp ứng kịp thời yêu cầu phải có một môi trường minh
bạch, cạnh tranh cho hoạt động đấu thầu, đồng thời góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về mua sắm sử dụng vốn nhà nước [58]. Đến ngày 1/7/2014,
luật mới bắt đầu có hiệu lực.
1.2.2. Hệ thống các văn bản pháp luật về đấu thầu
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu khá phong phú và đa
dạng với mục đích bổ sung và hoàn thiện pháp luật. Dưới đây là các văn bản
pháp luật về đấu thầu phổ biến [59]:
- Luật số 43/2013/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội khóa
XIII về Luật Đấu thầu;


21

- Quyết định số 50/2012/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về việc áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu
thuộc trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định;
- Nghị định số 68/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 09 năm 2012 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày
15/10/2009 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà
thầu xây dựng theo Luật Xây dựng;
- Thông tư số 09/2011/TT-BKHĐT ngày 07 tháng 09 năm 2011 của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu
tư vấn;
- Chỉ thị số 1315/CT-TTg ngày 03 tháng 8 năm 2011 của Thủ tướng

Chính phủ về chấn chỉnh việc thực hiện hoạt động đấu thầu sử dụng vốn nhà
nước, nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu;
- Chỉ thị số 734/CT-TTg ngày 17 tháng 05 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý đối với các gói thầu EPC;
- Thông tư số 01/2011/TT-BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư quy định chi tiết kiểm tra về công tác đấu thầu;
- Thông tư số 21/2010/TT-BKH ngày 28 tháng 10 năm 2010 của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết về thẩm định hồ sơ mời thầu,
hồ sơ yêu cầu;
- Thông tư liên tịch số 20/2010/TTLT-BKH-BTC ngày 21 tháng 9 năm
2010 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi
tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu để đăng tải trên Báo Đấu thầu;
- Thông tư số 17/2010/TT-BKH ngày 22 tháng 07 năm 2010 của Bộ trưởng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư về quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng;


×