Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.18 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG MẬU THÀNH

BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dƣơng

HÀ NỘI – 2013


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA
LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..................................................................1
1.1. Khái quát chung về bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự ...................1
1.1.1. Khái niệm Luật sƣ và hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự Việt Nam .1
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố
tụng dân sự ..................................................................................................................8
1.1.3. Cơ sở của việc bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự ...............15
1.2. Sơ lƣợc sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật Tố tụng dân sự
Việt Nam về bảo đảm hoạt động của Luật sự trong tố tụng dân sự ..........................18
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 ............................................................................18


1.2.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 2001 ............................................................20
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2001 đến 2007. ...................................................................23
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay ......................................................................24
1.3. Một số quy định của pháp luật nƣớc ngoài về bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong
tố tụng dân sự. ...........................................................................................................25
1.3.1. Bảo đảm hoạt động của luật sƣ trong pháp luật quốc tế. ................................25
1.3.2. Bảo đảm hoạt động của Luật sƣ ở Mỹ ............................................................26
1.3.3. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ ở Cộng hòa Pháp. ...............................................27
1.3.4. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. ......................29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................30
CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM VỀ BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...32
2.1. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong giai đoạn sơ thẩm dân sự .............................32
2.1.1. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong thủ tục khởi kiện, yêu cầu và thụ lý vụ việc
dân sự ........................................................................................................................32
2.1.2. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong giai đoạn thu thập chứng cứ. ....................34
2.1.3. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong việc tham gia hòa giải vụ việc dân sự.........37
2.1.4. Bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong phiên tòa, phiên họp sơ thẩm. ............39
2.2. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong giai đoạn phúc thẩm vụ việc dân sự. ...........45


2.3. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ..................47
2.4. Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong quá trình thi hành án dân sự ........................48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................50
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA
LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ............................................51
3.1. Thực tiễn bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự. .............................51
3.1.1. Hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm hoạt động Luật
sƣ trong tố tụng dân sự ..............................................................................................51
3.1.2. Những hạn chế trong việc bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự từ

phía cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt
động tố tụng. ..............................................................................................................54
3.1.3. Hạn chế từ phía luật sƣ đa dẫn đến hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự có
hiệu quả chƣa cao ......................................................................................................57
3.2. Một số giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động của luật sƣ trong tố tụng dân sự ....60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................63
KẾT LUẬN ...............................................................................................................64


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
PLTCLS: Pháp lệnh tổ chức Luật sƣ
PLLS:

Pháp lệnh Luật sƣ

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

PLTTGQVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong c ng cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đã và đang từng
bƣớc thực hiện chủ trƣơng về cải cách Tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt động tố tụng
tại Tòa án. Muốn vậy, nhất thiết cần tăng cƣ ng vai trò của Luật sƣ trong tố tụng.
Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về “ Một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới 1 đã xác định đúng vai trò của

luật sƣ. Bên cạnh đó, Nghị quyết 49-NQ TW của Bộ Chính trị về

Chiến lƣợc cải

cách tƣ pháp đến năm 2020 c ng nêu r : “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ
về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện
cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ chế
độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế
độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình . 2
Mặc d đã đƣợc quan tâm và quy định tƣơng đối cụ thể trong BLTTDS và
Luật Luật sƣ 2006 c ng nhƣ các văn bản pháp luật hƣớng dẫn thi hành các luật này.
Tuy nhiên, do nhận thức chƣa thật đầy đủ và sự hƣớng dẫn cụ thể, đ ng bộ, thống
nhất dẫn đến việc Luật sƣ tham gia vào hoạt động tố tụng chƣa hiệu quả. Vị trí, vai
trò của Luật sƣ chƣa đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng coi trọng. Một số quy định
của BLTTDS về hoạt động của Luật sƣ còn mang tính hình thức, khó thực hiện
hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến chƣa bảo đảm hoạt động của Luật sƣ
trong tố tụng dân sự.
Một nguyên nhân khác dẫn đến hoạt động của Luật sƣ chƣa đƣợc đạt đƣợc
hiệu quả trong hoạt động tố tụng dân sự xuất phát từ chính đội ng Luật sƣ Việt
Nam. Có thể thấy Luật sƣ Việt Nam còn non tr , thiếu về số lƣợng, chất lƣợng dịch
vụ còn thấp nên chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đặc biệt là
trong lĩnh vực đầu tƣ, kinh doanh, thƣơng mại. Kinh nghiệm tranh tụng, c ng nhƣ
các kỹ năng cần thiết của một Luật sƣ còn hạn chế dẫn đến hoạt động của Luật sƣ
còn nhiều yếu k m.
Bên cạnh đó, trong thực tiễn đào tạo Luật sƣ vẫn còn những hạn chế, bất cập
đã dẫn đến sự tham gia của Luật sƣ trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự


còn hạn chế. Luật sƣ, nhất là những Luật sƣ tr đang trong quá trình “thực tập hành
nghề” còn ít kinh nghiệm nên khi tham gia tố tụng còn nhiều vấp vấp. Những Luật

sƣ già thì do lý do về sức kh e nên kh ng tham gia tố tụng đƣợc nhiều. Điều này
ảnh hƣởng rất lớn đến hoạt động của Luật sƣ c ng nhƣ hoạt động của những ngƣ i
tiến hành tố tụng và khách hàng.
Từ những lý do trên, yêu cầu đặt ra là cần có những nghiên cứu nghiêm túc
và toàn diện về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ khi tham gia tố tụng. Luật sƣ phải
có một trình độ chuyên m n cao, có đạo đức nghề nghiệp c ng nhƣ các kỹ năng
nghiệp vụ chuyên sâu khi tham gia tố tụng dân sự nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng
đội ng Luật sƣ phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến 2020 là: “ Xây
dựng đội ngũ luật sư giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu luật pháp, thông thạo
tiếng Anh, thành thạo về kỹ năng hành nghề luật sư quốc tế ... 3 . Với mục đích
tìm hiểu và nghiên cứu để làm r một số vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm bảo đảm
hoạt động của luật sƣ trong tố tụng dân sự, em quyết định chọn đề tài “ Bảo đảm
hoạt động

u t s trong

t ng D n s

làm đề tài luận văn tốt nghiệp của

mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
Có thể thấy việc nghiên cứu sự bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự là rất quan trọng. Kh ng ch có ý nghĩa trong chiến lƣợc cải cách Tƣ pháp
mà còn có ý nghĩa rất lớn với chính đội ng Luật sƣ. Tuy nhiên, mới ch có một số
ít c ng trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này. Các c ng trình
nghiên cứu có thể kể đến nhƣ: “Đạo đức & kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, PGS.TS Lê H ng Hạnh, NXB Đại học sƣ
phạm, năm 2002; “Chuyên đề về Pháp lệnh luật sư năm 2001”, Bộ Tƣ pháp, Tạp
chí Dân chủ & pháp luật, tháng 12 2001; “Chuyên đề về Luật sư”, Bộ Tƣ pháp, Tạp

chí Dân chủ & pháp luật, Hà nội năm 2006, tháng 12 2001; “Bút ký luật sư” tập 1,
TS.LS Phan Trung Hoài, NXB Tƣ pháp, Hà Nội 2005; “Vị trí và vai trò của luật sư
trong tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ, Trần Phƣơng Thảo, Đại học Luật Hà Nội,
năm 2004; “Vị trí và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự”, Khóa luận tốt
nghiệp, Trần Hà Dƣơng, Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Mối quan hệ giữa luật
sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng”, Nguyễn Tiến
Đạm, Tạp chí dân chủ & pháp luật, số 11 năm 2002. “Luật sư – một nghề khó


khăn”, Phan Trung Hoài, Tạp chí dân chủ & pháp luật, số 01 năm 1999; “Vai trò
của luật sư trong tố tụng dân sự”, Đinh Văn Thanh;
Tuy nhiên, các c ng trình nghiên cứu trên mới ch chủ yếu đề cập đến những
vấn đề khác nhau về Luật sƣ nhƣ: khái niệm luật sƣ, quá trình phát triển của luật sƣ,
c ng nhƣ vị trí, vai trò của Luật sƣ trong tố tụng dân sự mà chƣa đi vào nghiên cứu
một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự.
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm r một số vấn đề lý luận cơ
bản về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự. Phân tích và đánh giá
thực trạng pháp luật và thực tiễn về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự để làm r cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của các giải pháp nhằm bảo đảm
hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự.
3.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là bảo đảm hoạt động của Luật sƣ khi
tham gia hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành và thực tiễn bảo đảm hoạt động luật sƣ trong tố tụng dân sự. Đề tài Bảo đảm
hoạt động Luật sư trong tố tụng dân sự” có nhiều nội dung, tuy nhiên trong khuôn
khổ luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu tập trung giới hạn ở những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo đảm hoạt động của Luật sự trong

tố tụng dân sự;
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm hoạt động
của Luật sƣ tham gia tố tụng dân sự;
+ Thực tiễn bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự;
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao qui định của pháp luật
về bảo đảm hoạt động của luật sƣ khi tham gia tố tụng dân sự.
4. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Luận văn đƣợc hoàn thành dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng H Chí Minh về xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhƣ: phƣơng pháp lịch sử, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp, diễn giải…
5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN.
Luận văn là c ng trình nghiên cứu khoa học có những điểm mới so với
những c ng trình trƣớc đây nghiên cứu một số vấn đề liên quan. Cụ thể:
- Đƣa ra một số khái niệm khoa học về Luật sƣ và bảo đảm hoạt động của
Luật sƣ trong tố tụng dân sự; ch ra và phân tích đƣợc các cơ sở
- Phân tích tƣơng đối cụ thể các qui định pháp luật về bảo đảm hoạt động của
Luật sƣ trong tố tụng dân sự.
- Liên hệ và so sánh các qui định của pháp luật của quốc tế, pháp luật của
một số nƣớc về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự
- Làm r thực trạng hoạt động của Luật sƣ nƣớc ta hiện nay, phân tích những
nguyên nhân t n tại, đề xuất các ý kiến nhằm nâng cao hơn nữa vị trí của Luật sƣ để
đảm bảo hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự.
6. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn có kết cấu g m: Phần mở đầu, nội dung, kết luận và phụ lục. Trong
đó, nội dung của luận văn g m 03 chƣơng sau đây:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố
tụng dân sự
Chương 2 : Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về bảo đảm
hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự
Chương 3 : Thực tiễn và giải pháp bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố
tụng dân sự.


1

CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm

u t s

và hoạt động

u t s

trong t t ng d n s

Việt N m
Luật sƣ là một khái niệm đã đƣợc biết đến từ rất lâu trong lịch sử phát triển
của nhân loại. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chung quan niệm
Luật sƣ là một nghề trong xã hội, mà nghề này ch có những ngƣ i đủ điều kiện
theo luật định mới có khả năng hành nghề. C ng chƣa có tài liệu nào chứng minh
nghề Luật sƣ có từ bao gi mà ch biết nghề này đƣợc hình thành từ rất sớm, đầu

tiên xuất hiện La Mã cổ đại 4.tr.9 .
Việc ra đ i và t n tại nghề Luật sƣ là một hiện tƣợng tất yếu trong xã hội bởi
nó gắn liền với nhu cầu và mong muốn cần đƣợc bảo vệ của con ngƣ i. Theo nhận
x t của các nhà cổ học thì cơ sở để hình thành ra nghề Luật sƣ đƣợc bắt ngu n từ
quyền biện hộ . Quyền biện hộ có sớm nhất ở Châu Âu c ng với sự xuất hiện của
Tòa án và ngƣ i biện hộ c ng với Thẩm phán 5, tr.11 . Tại La Mã th i đó có một
chế định xã hội đƣợc áp dụng trong cuộc sống gọi là Patronat , theo đó một ngƣ i
quí phái có thể bảo vệ cho một ngƣ i thân của mình là một ngƣ i bình dân trƣớc
Tòa án. Việc bảo vệ này kh ng vì th lao, vụ lợi mà chủ yếu là thể hiện tài năng
h ng biện, nâng cao uy tín trong cộng đ ng dân cƣ. Chính thực tế cuộc sống khi mà
sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng k o theo các hiện tƣợng tiêu cực
nhƣ trộm cắp, giết ngƣ i, tranh giành của cải…đã đặc ra một đòi h i: nên cạnh các
cơ quan tƣ pháp hoạt động mang tính c ng quyền nhƣ Tòa án, Viện kiểm sát…còn
rất cần những ngƣ i am hiểu pháp luật, bảo vệ những quyền và lợi ích của ngƣ i
dân trong xã hội.
Vào cuối c ng của nền cộng hòa thứ IV trƣớc c ng nguyên khoảng từ năm
500 TCN đến năm 44 TCN chế độ biện hộ đã có nh những bƣớc phát triển r rệt.
Nhiều ngƣ i dân đến kiện trƣớc Tòa đã nh những ngƣ i thân thích của mình hoặc
là những ngƣ i có uy tín trong v ng để bảo vệ cho mình thắng kiện 6, tr.9 . Dần


2

dần trong xã hội đã xuất hiện ra một loại ngƣ i gọi là advocatus (ngƣ i biện hộ),
chuyên đi giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi cho ngƣ i khác khi đƣợc yêu cầu, c ng có mặt
tại phiên tòa để kịp th i đƣa ra những l i khuyên có lợi cho ngƣ i cần đƣợc bảo vệ.
Ban đầu những advocatus là những ngƣ i luật gia am hiểu pháp luật, giàu có và
có thế lực lớn trong xã hội. 7 . Những ngƣ i hành nghề này sau đó đƣợc gọi là
Luật sƣ, là những ngƣ i rất am hiểu pháp luật và có tài h ng biện.
Chế độ La Mã tan ra, các Luật sƣ th i đó đã tham gia vào Luật sƣ đoàn c ng

tan rã theo. Châu Âu chuyển sang giai đoạn các triều đại phong kiến của t i kỳ
trung cổ Phƣơng Tây. Tổ chức Tòa án và các hoạt động liên quan đến Tòa án đã
đƣợc xây dựng lại rất phức tạp dƣới nhiều hình thức khác nhau, song chủ yếu vẫn
nhằm phục vụ t n giáo và phong kiến đƣơng đại. Chế định Luật sƣ theo kiểu Luật
sƣ đoàn La Mã vẫn t n tại mặc d có sự thay đổi nhất định. Nhìn chung trong th i
kỳ phong kiến Luật sƣ kh ng đƣợc phát triển mạnh, vì vậy nghề này đã kh ng phát
huy đƣợc tác dụng thật sự của nó.
Khi sang chế độ tƣ bản, sự cạnh tranh ngày càng mạnh trong hoạt động kinh
doanh của nền kinh tế thị trƣ ng đòi h i các nhà kinh doanh phải tìm đến tƣ vấn
pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Hoạt động tƣ vấn pháp luật của các
Luật sƣ dần dần trở thành một nghề (khác với nghề Luật sƣ lúc ban đầu là chuyên
tranh tụng để bảo vệ quyền lợi cho ngƣ i khác trƣớc Tòa). Tại nhiều nƣớc trên thế
giới đã hình thành một đỗi ng chuyên đảm nhiệm các hoạt động tƣ vấn pháp luật,
kh ng liên quan đến Tòa án , đó là Luật sƣ tƣ vấn (nhƣ Anh, Pháp, Úc, H ng
K ng…). Th i kỳ này nghề Luật sự nói chung đƣợc củng cố với quy định về điều
kiện hành nghề và cách thức hành nghề khắt kheo hơn, nhƣng chủ yếu phục vụ
quyền lợi cho một số ngƣ i ít xuất thân từ giai cấp bóc lột. Khác với tính chất tự
nguyện, bất vụ lợi ban đầu, nghề Luật sƣ trong xã hội tƣ bản trở thành một nghề
kiếm đƣợc nhiều tiền nh việc phục vụ khách hàng th ng qua các hình thức tƣ vấn,
tranh tụng…dựa vào vốn hiểu biết về pháp luật và kỹ năng, kinh nghiệm khi hành
nghề của Luật sƣ. Đây c ng là th i kỳ có sự phân loại hoạt động của Luật sƣ thành
hai nhóm r rệt: Luật sƣ hoạt động tƣ vấn và các luật sƣ hoạt động tranh tụng.
Ở Việt Nam Luật sƣ là một nghề tƣơng đối mới m . Lúc đầu ngƣ i dân Việt
Nam đƣợc biết đến các trạng sư biện hộ mà từ năm 1930 đƣợc đổi tên thành


3

Luật sư tòa thượng thẩm . Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành c ng, Chủ
tịch H Chí Minh đã quyết định việc duy trì đoàn thể Luật sƣ của chế độ c bằng

sắc lệnh ngày 10 10 1945, tất nhiên là có sự lƣợc b những điểm kh ng ph hợp với
chế độ mới. Đoàn thể Luật sƣ của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa chƣa kịp
tiến hành các c ng tác về tổ chức và hoạt động thì cả nƣớc lại bắt đầu c ng cuộc
kháng chiến chống Pháp trƣ ng kỳ và gian khổ. Th i kỳ này đoàn thể Luật sƣ tạm
ngừng hoạt động và kh ng ít Luật sƣ trực tiếp tham gia kháng chiến. Sự hoạt động
trở lại của các Luật sƣ Việt Nam đƣợc bắt đầu lại sau ngày tiếp quản thủ đ mà dấu
ấn r n t nhất là việc thành lập Hội đ ng Luật sƣ tại Hà Nội.
Năm 1987, Việt Nam ban hành Pháp lệnh tổ chức Luật sƣ đầu tiên, tạo cơ sở
pháp lý cần thiết cho các Luật sƣ hoạt động. Năm 2001 Pháp lệnh Luật sƣ ra đ i
thay thế cho Pháp lệnh tổ chức Luật sƣ 1987, Luật sƣ đƣợc ph p tiến hành các dịch
vụ pháp lý khác. Nhƣ vậy, với những quy định đƣợc sửa đổi có thể nói nghề Luật sƣ
ở nƣớc ta đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc rất quan tâm, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để
có thể phát triển. Nhận thấy vai trò, vị trí của Luật sƣ trong th i hội nhập kinh tế
quốc tế, Nhà nƣớc ta đã ban hành Luật Luật sƣ 2006 có hiệu lực vào 01 tháng 01
năm 2007 và sửa đổi bổ sung Luật Luật sƣ 2006 có hiệu lực vào ngày 01/7/2013.
Việc ban hành Luật Luật sƣ một lần nữa khẳng định đội ng Luật sƣ là một phần
kh ng thể thiếu trong quá trình đƣa đất nƣớc phát triển. Cho đến nay đội ng Luật
sƣ kh ng ngừng đƣợc đào tạo và củng cố về số lƣợng, chất lƣợng.
Có thể thấy, Luật sƣ là một khái niệm đa nghĩa. Hiện nay, khái niệm Luật sƣ
đƣợc các nhà nghiên cứu hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau.
Theo quan điểm của các tác giả của Trung tâm Ng n ngữ và Văn học Việt
Nam thuộc Bộ giáo dục và đào tạo thì: Luật sư là người chuyên dựa vào pháp luật
để bào chữa cho đương sự trước Tòa án”.Quan điểm này đã nói lên đƣợc đặc điểm
đặc th của ngƣ i Luật sƣ và nghề Luật sƣ đó là dựa vào pháp luật, coi pháp luật là
phƣơng tiện, là chuẩn mực khi ban hành nghề. Muốn nhƣ vậy Luật sƣ phải là ngƣ i
am hiểu pháp luật và dựa trên qui định của pháp luật bằng các kỹ năng, kinh nghiệm
hành nghề, Luật sƣ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể nhất định.
Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chƣa đầy đủ về mặt thuật ngữ pháp lý. Thứ
nhất, thuật ngữ bào chữa đƣợc d ng trong khái niệm trên là chƣa chính xác bởi



4

bào chữa” là hoạt động của Luật sƣ khi tham gia tố tụng hình sự. Trong vụ án hình
sự Luật sƣ tham gia bào chữa cho các bị can, bị cáo khi những ngƣ i này đang bị
cơ quan tiến hành tố tụng xem x t có hành vi nguy hiểm cho xã hội hay kh ng. Hơn
nữa, hoạt động bào chữa của Luật sƣ trong tố tụng hình sự kh ng ch nhằm mục
đích bào chữa” để bảo vệ bị can, bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đƣơng sự mà còn bảo vệ pháp chế, bảo vệ sự thật và c ng bằng xã hội. Một điểm
chƣa hợp lý thứ hai ở quan điểm trên là khái niệm đương sự” đƣợc các tác giả này
sử dụng ch t n tại trong tố tụng dân sự. Chức năng của ngƣ i Luật sƣ nói chung
kh ng ch bảo vệ cho các đương sự trong tố tụng dân sự mà còn bảo vệ cho nhiều
chủ thể khác nhƣ bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, hoặc đặc biệt là bảo vệ quyền
lợi của Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, khái niệm trên chƣa nêu đƣợc hết vai trò của Luật sƣ
trong việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể theo luật định.
Theo quan điểm của GS.TS Lê H ng Hạnh thì: Luật sư là chuyên gia pháp
luật; là cố vấn pháp lý mà ở họ có kỹ năng nghề nghiệp thực thụ”[8, tr14]. Khái
niệm này đã bao hàm hai đặc điểm cơ bản cần có của ngƣ i Luật sƣ nói chung, đó
là sự am hiểu pháp luật và kỹ năng hành nghề. Vì hiện nay, các quốc gia trên thế
giới đều quan niệm Luật sƣ là một nghề, vì đã là một nghề thì yêu cầu về tiêu chuẩn
hành nghề và đào tạo nghề là rất cần thiết. Theo qui định chung của các nƣớc trên
thế giới sự am hiểu pháp luật của Luật sƣ đƣợc đánh giá đầu tiên th ng qua tiêu
chuẩn họ có trong tay tấm bằng cử nhân luật. Một trong những yêu cầu để một
ngƣ i đƣợc c ng nhận là Luật sƣ chính là bằng cấp. Chính vì vậy trong thực tế,
ngƣ i nào muốn trở thành Luật sƣ thì ngƣ i đó phải theo học ở các trƣ ng đào tạo
luật. Mỗi nƣớc có những qui định khác nhau về th i gian, nội dung, phƣơng pháp
nhƣng nhìn chung mục đích giống nhau là đều trang bị cho những ngƣ i sau này là
Luật sƣ những kiến thức cơ bản về pháp luật. Tuy nhiên, sẽ kh ng đúng nếu ch dựa
vào việc Luật sƣ có bằng cử nhân luật để khẳng định họ am hiểu pháp luật. Quan
trọng nhất là Luật sƣ cần phải tự bổ sung hoàn thiện kiến thức pháp luật của mình

bằng việc tự tìm hiểu, cập nhật và nghiên cứu các văn bản pháp luật mới, quan tâm
đến các hoạt động pháp luật thực tế. Nhƣ vậy, có thể rút ra đƣợc đặc điểm cần thiết
của ngƣ i Luật sƣ là am hiểu pháp luật và kỹ năng hành nghề. Kỹ năng hành nghề
Luật sƣ hiện nay đƣợc các nƣớc quan tâm và đƣa vào thành một qui định bắt buộc


5

trong các văn bản pháp luật qui định về tiêu chuẩn phải có của ngƣ i Luật sƣ.
Th ng thƣ ng, để có đƣợc kỹ năng hành nghề, những ngƣ i có bằng cử nhân luật,
muốn theo nghề Luật sƣ phải trải qua các kỳ thi của khóa đào tạo nghề trong th i
gian nhất định hoặc phải trải qua các kỳ thi quốc gia nghiêm túc.
Tuy nhiên, với hai điểm đặc trƣng của ngƣ i Luật sƣ, khái niệm thứ hai về
Luật sƣ mà chúng ta vừa nêu chƣa đƣa ra đƣợc đặc điểm đặc biệt quan trọng của
ngƣ i Luật sƣ mà những nƣớc có nghề Luật sƣ lâu đ i đều qui định là phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp của Luật sƣ. Nhƣ Platon, một nhà triết học nổi tiếng Hy Lạp
đã viết: Những kiến thức chuyên môn của bác sỹ giúp họ cứu chữa cho người bệnh
nhưng cũng có thể đầu độc người bệnh . Chủ tịch H Chí Minh c ng khẳng định:
Có tài mà không có đức là vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó . Có thể khẳng định nghề Luật sƣ c ng nhƣ các nghề khác nhƣ nghề y, nghề
dạy học lu n đƣợc xã hội t n trọng, cần thiết kh ng k m gì tiêu chuẩn về trình độ
hiểu biết pháp luật và kỹ năng hành nghề Luật sƣ. Nếu hiểu phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp này một cách chính xác đầy đủ và toàn diện nhất thì tiêu chuẩn phẩm
chất nghề nghiệp này đƣợc xác định dựa trên các qui tắc đạo đức nghề Luật sƣ.
Trƣớc hết Luật sƣ phải đảm bảo tốt sứ mệnh mà mình gánh vác. Sứ mệnh Luật sƣ
rất quan trọng, đó là sự kết hợp giữa các chức năng tố tụng nhƣ tƣ vấn pháp luật và
tiến hành các dịch vụ pháp lý nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con ngƣ i và bảo
vệ c ng lý, c ng bằng trong xã hội, phát huy quyền dân chủ…Muốn thực hiện đƣợc
sứ mệnh cao cả này Luật sƣ phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật, bảo vệ lợi ích của cá
nhân kết hợp với bảo vệ lợi ích chung của Nhà nƣớc.

Trong thực tế có rất nhiều Luật sƣ cho rằng đối với Nhà nƣớc là thứ yếu hoặc
kh ng cần thiết phải quan tâm nhiều mà quyền lợi của khách hàng mình mới là tối
cao. Trong xã hội tƣ bản, bản chất của chế độ đó là bóc lột nên mọi thiết chế đƣợc
tạo lập ch là nhằm phục vụ cho lợi ích của thiểu số tƣ bản, giúp họ duy trì sự thống
trị. Nói cách khác, trong xã hội tƣ bản rất khó có thể đảm bảo có sự kết hợp hài hòa
giữa hai nhiệm vụ: bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự nhƣng đ ng th i c ng là bảo vệ
quyền lợi của nhà nƣớc bằng cách tuân thủ pháp luật. Trái lại, dƣới chế đội XHCN,
một chế độ dân chủ, quyền lợi của cá nhân gắn liền với quyền lợi của Nhà nƣớc thì


6

điều này có thể làm đƣợc. Mỗi Luật sƣ th ng qua việc bảo vệ quyền lợi của khách
hàng, đ ng th i phải có trách nhiệm góp phần bảo vệ pháp chế XHCN.
Theo quan điểm của tác giả Trần Phƣơng Thảo thì Luật sƣ đƣợc hiểu: là
khái niệm pháp lý để chỉ một chức danh tư pháp độc lập; theo đó những người có
đủ tiêu chuẩn hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam được Bộ Tư
pháp Việt Nam công nhận quyền tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật và thực hiện
các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa [9, tr.22]. Trong khái niệm trên, tác giả Trần
Phƣơng Thảo đã nêu một khái niệm về Luật sƣ. Khái niệm này đã thống nhất với
những khái niệm về luật sƣ theo quy định của các văn bản pháp luật về Luật sƣ.
Ngoài các quan điểm trên có nhiều cách giải thích khác về Luật sƣ. Có quan
niệm cho rằng Luật sƣ là người trợ giúp pháp luật cho khách hàng là người đồng
hành pháp lý với Tòa án, là người trợ thủ pháp luật của xã hội” hoặc Luật sư là
“phụ tá của công lý, tham gia vào sự điều hành của công lý 10.tr44 …Các quan
niệm này có lẽ đƣợc xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của ngƣ i Luật sƣ khi hành nghề
với những hình thức khác nhau: tƣ vấn, tranh tụng… dựa vào cơ sở tuyệt đối tuân
thủ pháp luật. Những quan điểm này quá trừu tƣợng, kh ng giúp chúng ta phân biệt
đƣợc đặc điểm của ngƣ i Luật sƣ và kh ng phân biệt đƣợc Luật sƣ với những ngƣ i

khác trong xã hội. Nếu quá đề cao vị trí, vai trò của Luật sƣ đến mức coi Luật sƣ là
ngƣ i phụ tá , người điều hành nền công lý … giống nhƣ ngƣ i điều hành bộ
máy tƣ pháp, theo chúng t i là kh ng chính xác. Theo qui định của pháp luật thì
Luật sƣ trong tố tụng dân sự ch có thể đƣợc gọi là ngƣ i bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đƣơng sự hoặc là ngƣ i đại diện theo ủy quyền. Còn trong tố tụng
hình sự, Luật sƣ ch đƣợc gọi là ngƣ i bào chữa… D có thể gọi Luật sƣ với nhiều
tên khác nhau nhƣng suy cho c ng Luật sƣ vẫn ch là ở vị trí của ngƣ i tham gia tố
tụng, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho đƣơng sự, bị cáo. Luật sƣ kh ng có vị trí
ngang hàng ngƣ i tiến hành tố tụng, vì vậy quá đề cao họ đến mức là ngƣ i điều
hành nền công lý giống nhƣ Thẩm phán c ng kh ng đúng.
Qua việc phân tích các quan điểm trên, chúng ta có thể thấy các khái niệm
này đều xoay quanh các đặc điểm của ngƣ i Luật sƣ mà pháp luật có qui định:


7

- Thứ nhất, về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề Luật sƣ, Việt Nam c ng nhƣ
các quốc gia khác nhau trên thế giới rất chú trọng qui định tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề của Luật sƣ. Những tiêu chuẩn, điều kiện này đều đƣợc cụ thể hóa bằng
các qui định cụ thể trong văn bản pháp luật. Tiêu chuẩn phố biến đƣợc các nƣớc qui
định khi cấp chứng ch hành nghề Luật sƣ là: c ng dân nƣớc sở tại; có bằng cử nhân
luật hoặc tƣơng đƣơng; đỗ kỳ thi sát hạch hành nghề Luật sƣ theo Luật định; có th i
gian tập sự hành nghề Luật sự; có phẩm chất đạo đức tốt 6, tr.14
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, cụ thể theo Luật Luật sƣ 2006, tiêu
chuẩn để trở thành Luật sƣ là: là c ng dân Việt Nam; có phẩm chất tốt; có bằng cử
nhân Luật, đã đƣợc đào tạo nghề Luật sƣ; đã qua th i gian tập sự và hành nghề Luật
sƣ; có sức kh e bảo đảm hành nghề Luật sƣ và gia nhập một Đoàn Luật sƣ
Nhƣ vậy, theo qui định của pháp luật Việt Nam về tiêu chuẩn và điều kiện
hành nghề đối với Luật sƣ c ng giống nhƣ qui định các nƣớc đang có nghề Luật sƣ
phát triển.

- Thứ hai, về phạm vi hành nghề Luật sƣ c ng giống nhƣ các nƣớc, pháp luật
Việt Nam qui định phạm vi hành nghề của Luật sƣ tại Điều 22 của Luật Luật sƣ
2006, theo đó Luật sƣ đƣợc thực hiện các hoạt động tƣ vấn pháp luật, tham gia tố
tụng tại Tòa án, đại diện và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
- Thứ ba, về mục đích nghề Luật sƣ, d ở các nƣớc khác nhau nhƣng Luật sƣ
khi hành nghề phải lu n kết hợp việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân, tổ chức với việc
bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc và của xã hội.
Nhƣ vậy, từ các vấn đề nêu trên, khái niệm Luật sƣ cần đƣợc hiểu nhƣ sau:
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, theo đó những người có đủ điều
kiện hành nghề Luật sư theo qui định của pháp luật Việt Nam được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền Việt Nam công nhận quyền tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật
và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của
cá nhân,, tổ chức bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
* Hoạt động

u t s trong t t ng d n s

Lĩnh vực hoạt động là phạm vi hành nghề của luật sƣ và đƣợc quy định cụ
thể tại Điều 22 Luật Luật sƣ 2006: Thứ nhất là tham gia hoạt động tố tụng với tƣ
cách là ngƣ i bào chữa trong vụ án hình sự; ngƣ i đại diện hoặc là ngƣ i bảo vệ


8

quyền, lợi ích hợp pháp trong các vụ án; việc dân sự trong các tranh chấp, yêu cầu
về dân sự, h n nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động. Thứ hai là thực
hiện tƣ vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các c ng
việc có liên quan đến pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý khác. Pháp luật Việt
Nam kh ng có sự phân chia Luật sƣ thành hai Loại luật sƣ tranh tụng và Luật sƣ tƣ
vấn nhƣ các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật án lệ. Ở Anh, Luật sƣ phân chia

thành hai nhóm: Luật sƣ tƣ vấn và Luật sƣ bào chữa. Luật sƣ tƣ vấn ở Anh thực
hiện các nhiệm vụ mà một Luật sƣ ở hầu hết các nƣớc khác trên thế giới thực hiện,
trừ việc tham gia phiên tòa. Ngƣợc lại, Luật sƣ bào chữa là ngƣ i xuất hiện ở phiên
tòa với trang phục tóc giả, áo chùng . Khách hàng kh ng liên hệ trực tiếp với các
Luật sƣ bào chữa mà phải th ng qua Luật sƣ tƣ vấn. Ở Anh, Luật sƣ đƣợc coi là
nghề phục vụ c ng lý. Theo đó Luật sƣ bào chữa kh ng có quyền đòi phí dịch vụ
với khách hàng mà phải th ng qua một thƣ ký 11;Tr.123 .
Phạm vi hoạt động nghề nghiệp của Luật sƣ là rất rộng, tuy nhiên trong lĩnh
vực tố tụng dân sự, Luật sƣ ch tham gia vào hoạt động tố tụng với tƣ cách là ngƣ i
đại diện hoặc là ngƣ i bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn,
ngƣ i có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án dân sự giải quyết về tranh
chấp dân sự, h n nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động hoặc việc dân
sự giải quyết các yêu cầu về dân sự, h n nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại,
lao động và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm hoạt động của Luật sƣ
trong tố tụng dân sự
* Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự

 Khái niệm đảm bảo hoạt động Luật sư trong tố tụng dân sự
Hoạt động của Luật sƣ có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm
cho c ng lý đƣợc t n trọng. Tuy nhiên, vai trò đó ch đƣợc thể hiện khi hoạt động
của Luật sự đƣợc t n trọng và bảo đảm thực hiện. Vậy bảo đảm hoạt động của Luật
sự đƣợc hiểu là gì?
Về mặt ngữ nghĩa, theo Từ điển tiếng Việt thì bảo đảm là: làm cho chắc
chắn thực hiện đƣợc, giữ gìn đƣợc, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết 29, tr.36 .


9


Theo Hán – Việt, bảo đảm là hứa chịu trách nhiệm về điều gì , cam đoan giữ
đƣợc, làm đƣợc đầy đủ , sự giữ đầy đủ, trọn vẹn

30, tr40 . Ngoài ra, thuật ngữ

bảo đảm c ng đƣợc sử dụng nhƣ thuật ngữ đảm bảo

29, tr.292 . Vì vậy, bảo

đảm là điều kiện cần phải có để thực hiện đƣợc một điều gì, c ng việc gì hay quyền,
nghĩa vụ gì. Bảo đảm c ng có ý nghĩa nhƣ một cơ chế cần thiết phải có để thực hiện
quyền, nghĩa vụ hay c ng việc nhất định. Trong những trƣ ng hợp cụ thể, nếu
kh ng có sự bảo đảm thì các quyền, nghĩa vụ hay c ng việc sẽ kh ng thực hiện
đƣợc. Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ bảo đảm đƣợc sử dụng khá rộng rãi. Bảo
đảm thƣ ng đƣợc đặt ra đối với việc xác lập hay thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể nhƣ quan hệ pháp luật dân sự,
quan hệ pháp luật kinh doanh, thƣơng mại… Hiện nay, trong nhiều văn bản pháp
luật đƣợc Nhà nƣớc ta ban hành có nhiều quy định về bảo đảm nhƣ các Điều từ 318
đến Điều 173 Bộ luật Dân sự… Theo các quy định này thì bảo đảm có thể do các
bên th a thuận hoặc do pháp luật quy định. Bảo đảm có tác dụng tạo ra sự tin tƣởng
lẫn nhau giữa các bên, đặt trách nhiệm cho các bên trong việc xác lập và thực hiện
các quan hệ pháp luật. Trong một số quan hệ pháp luật cụ thể các chủ thể coi bảo
đảm là điều kiện buộc phải có để xác lập và thực hiện các quan hệ pháp luật giữa
họ. Nhƣ vậy, dƣới góc độ một thuật ngữ pháp lý thì bảo đảm là trách nhiệm của
một chủ thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia
chắc chắn đƣợc thực hiện, giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại phải b i thƣ ng [32, tr.27].
Để các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thực hiện đúng, pháp luật tố tụng
dân sự c ng quy đinh về vấn đề bảo đảm. Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là
quan hệ đƣợc xác lập giữa Tòa án và những ngƣ i tham gia tố tụng do pháp luật dân
sự điều ch nh. Trong các quan hệ này, Tòa án là chủ thể đại diện cho Nhà nƣớc bảo

vệ quyền lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự nói chung, và Luật sƣ là chủ thể tham gia
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đƣơng sự có quyền, lợi ích đang có
tranh chấp hoặc các quyền, lợi ích bị xâm hại. Nhƣ vậy, Tòa án có trách nhiệm tạo
điều kiện tốt nhất để cho Luật sƣ thực hiện đƣợc quyền bảo vệ cho đƣơng sự trong
tố tụng dân sự. Bởi vậy, bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự phản
ánh mối quan hệ tƣơng quan giữa các chủ thể của tố tụng dân sự. Trong đó Tòa án


10

là chủ thể có trách nhiệm chính trong bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự.
Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự với mục đích làm cho Luật
sƣ phát huy tối đa quyền tố tụng dân sự của họ nên đối tƣợng của bảo đảm hoạt
động Luật sƣ trong tố tụng dân sự là các quyền tố tụng dân sự của Luật sƣ. Để bảo
đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự thì phải tạo điều kiện, thực hiện các
biện pháp cần thiết làm cho Luật sƣ có thể thực hiện đƣợc tốt và có hiệu quả nhất
các quyền của mình nhƣ: lấy đƣợc giấy chứng nhận tƣ cách ngƣ i bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự, quyền xem x t, thu thập chứng cứ quyền đƣợc h i,
quyền tranh luận tại phiên tòa…
Bảo đảm và bảo vệ là những vấn đề khác nhau nhƣng có nội dung tiếp giáp
và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo các nhà luật học thì việc vi phạm các
quyền và lợi ích dẫn đến trạng thái động của các quy phạm bảo vệ pháp luật, do đó
ngƣ i có quyền và lợi ích bị vi phạm thực hiện quyền bảo vệ của mình

32, tr.196 .

Bảo vệ ch đặt ra khi các quyền và lợi ích của Luật sƣ bị xâm phạm. Ngƣợc lại,
bảo đảm từ quan điểm pháp lý có nghĩa là từ trạng thái tĩnh của các quy phạm pháp
luật hƣớng đến việc che chở, bảo hộ cho các lợi ích hợp pháp của c ng dân kh i cản

trở có thể có trong việc thực hiện các lợi ích đó kh i bị vi phạm

32, tr.196 .

Vì vậy, trong nhiều trƣ ng hợp tuy kh ng có sự xâm phạm nhƣng nếu kh ng
đáp ứng đƣợc những điều kiện cần thiết thì c ng kh ng thể thực hiện các quyền, lợi
ích của chủ thể. Từ đó, vấn đề bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự
kh ng ch đặt ra khi có sự xâm phạm mà còn trong trƣ ng hợp chƣa có sự xâm
phạm đến quyền đó.
Từ những vấn đề đƣợc trình bày trên đây có thể rút ra kết luận: Bảo đảm
hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự là làm cho Luật sư có đủ điều kiện cần
thiết chắc chắn thực hiện được các quyền tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự trước Tòa án.

 Đặc điểm của bảo đảm hoạt động Luật sư trong tố tụng dân sự
Bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự là cho Luật sƣ có đầy
đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
mình khi Luật sự tham gia vào hoạt động tố tụng dân sự với tƣ cách là ngƣ i bảo vệ


11

quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự hay với tƣ cách ngƣ i đại diện do đƣơng sự
ủy quyền. Do đó, bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự có những đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất: Bảo đảm hoạt động của luật sự trong tố tụng dân sự đƣợc áp dụng
đối với các hoạt động của luật sƣ khi tham gia tố tụng dân sự với các vị trí tố tụng
khác nhau.
Khi Luật sƣ tham gia với tƣ cách là ngƣ i bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các đƣơng sự hay khi Luật sƣ tham gia với tƣ cách là ngƣ i đại diện do đƣơng

sự ủy quyền thì Luật sƣ đều đƣợc pháp luật bảo đảm những hoạt động khi tham gia
tố tụng dân sự. Điểm khác biệt ở mỗi một vị trí, tƣ cách khác nhau, Luật sƣ đƣợc
pháp luật trao cho những quyền khác nhau tƣơng ứng với vị trí, tƣ cách đó. Khi
tham gia với tƣ cách là ngƣ i bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự Luật
sƣ có tất cả những quyền của ngƣ i bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự
quy định tại Điều 64 của BLTTDS 2004 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011 hoặc
khi tham gia với tƣ cách là ngƣ i đại diện do đƣơng sự ủy quyền thì Luật sƣ có hầu
hết các quyền của đƣơng sự trong phạm vi ủy quyền tại Điều 58 BLTTDS 2004 đã
đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Thứ hai: Đối tƣợng, phạm vi và các biện pháp bảo đảm hoạt động của Luật
sƣ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định.
Trong các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, Luật sƣ là một trong những
ngƣ i tham gia tố tụng. Để tạo điều kiện cho sự hoạt động của Luật sƣ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự tại Tòa án, t y vào vị trí, tƣ cách Luật sƣ mà pháp
luật tố tụng dân sự quy định cho họ những quyền tố tụng dân sự nhất định. Việc giải
quyết các vụ việc dân sự là do Tòa án thực hiện nên việc thực hiện các quyền tố
tụng dân sự của Luật sƣ phải th ng qua Tòa án. Xuất phát từ các yêu cầu giải quyết
vụ việc dân sự và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà Tòa án có trách
nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết do pháp luật tố tụng dân sự quy định để tạo
điều kiện cho Luật sƣ thực hiện tất cả quyền tố tụng của họ, Vì vậy, đối tƣợng,
phạm vi và các biện pháp bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự là do
pháp luật tố tụng dân sự quy định.


12

Thứ ba: Bảo đảm hoạt động của Luật sự nhằm tạo điều kiện tốt nhất để Luật
sự trợ giúp đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong tố tụng dân sự, việc thực hiện các quyền tố tụng dân sự của Luật sƣ
nhìn chung mang tính độc lập, do Luật sƣ quyết định kh ng phụ thuộc vào chủ thể

khác. Việc bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự có tính chất hỗ trợ
cho việc thực hiện quyền trong tố tụng dân sự của Luật sƣ. Vì vậy, các Luật sƣ phải
phát huy tối đa những quyền tố tụng dân sự mà mình có. Luật sƣ bằng kiến thức
pháp luật, bằng kinh nghiệm về thực tiễn kết hợp với những bảo đảm về quyền của
Luật sƣ trong tố tụng dân sự sẽ tạo điều kiện cho Luật sƣ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự một cách tốt nhất.
Thứ tư: Chủ thể có trách nhiệm chính trong việc bảo đảm hoạt động của Luật
sự trong tố tụng dân sự là Tòa án
Tham gia vào giải quyết vụ việc dân sự có nhiều chủ thể. Mỗi chủ thể tham
gia tố tụng có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định do pháp luật tố tụng dân sự quy
định. Trong đó, Tòa án là chủ thể tham gia hầu hết vào các quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự, có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Khác với các chủ thể của quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án đƣợc thực hiện quyền lực của Nhà nƣớc để giải
quyết các vụ việc dân sự. Các quyết định của Tòa án có giá trị bắt buộc các chủ thể
khác phải thực hiện. Việc Tòa án áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện các
quyền tố tụng dân sự của Luật sƣ sẽ tạo đƣợc điều kiện cần thiết cho các quyền tố
tụng dân sự của Luật sƣ đƣợc thực hiện. Vì vậy, trong các chủ thể của quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự thì Tòa án là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc bảo đảm
hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự. Là chủ thể có trách nhiệm chính trong
việc bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự, Tòa án phải thực hiện các
biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để bảo đảm quyền
Luật sƣ trong tố tụng dân sự.
Ngoài ra, để bảo đảm hoạt động của Luật sƣ còn phụ thuộc vào hoạt động
của các chủ thể khác nhƣ sự hợp tác của đƣơng sự, sự trợ giúp của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang lƣu giữ các tài liệu, giấy t có chứa đựng chứng cứ của vụ việc
dân sƣ.


13


* Ý nghĩa của bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự
Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự là một trong những nội
dung quan trọng để mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự. Thực hiện đƣợc việc
bảo đảm hoạt động của Luật sự trên thực tế là điều rất cần thiết và có ý nghĩa thiết
thực. Qua nghiên cứu cho thấy, việc bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự vừa có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội vừa có ý nghĩa về mặt pháp lý.
 Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội.
Một trong những mục tiêu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là xây dựng Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tƣ tƣởng này đã
thấm sâu vào quá trình cách mạng. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự
nghiệp đổi mới ngày nay đƣ ng lối nhất quán của Đảng ta và Nhà nƣớc tất cả đều vì
nhân dân. Trong chủ trƣơng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta đều thể hiện
sự chăm lo cho con ngƣ i, bảo vệ lợi ích hợp pháp của con ngƣ i

33, tr.49. Điều

này c ng đã thể chế hóa trong các Hiến pháp và các văn bản pháp luật do Nhà nƣớc
ta ban hành. Theo quy định Điều 12 Hiến pháp năm 1992, mọi hành động xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền lợi ích hợp pháp của tập thể và c ng dân đều
bị xử lý theo pháp luật. Theo Điều 9 Bộ luật dân sự tất cả các quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân và các chủ thể khác đƣợc t n trọng và đƣợc pháp luật bảo vệ.
Để bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án phải
tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sƣ từ giai đoạn tƣ vấn và trợ giúp đƣơng sự khởi
kiện: cấp giấy chứng nhận ngƣ i bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự,
sao ch p tài liệu, chứng cứ do đƣơng sự cung cấp, t n trọng ý kiến của Luật sƣ, cho
ph p Luật sƣ h i, tham gia tranh tụng tại Tòa án…. Th ng qua sự bảo đảm hoạt
động của Luật sƣ nhƣ đã nêu trên, Tòa án sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo
thuận lợi cho Luật sƣ phát huy hết đƣợc vai trò và trách nhiệm của mình trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.

Nhƣ vậy, về chính trị - xã hội thì bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng
dân sự có ý nghĩa lớn đối với việc thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta và góp phần nâng cao ý thức pháp
luật trong nhân dân.


14

 Ý nghĩa về mặt pháp lý
Bảo đảm hoạt động Luật sƣ trong tố tụng dân sự sẽ tạo đƣợc sự t n trọng cần
thiết đối với việc thực hiện các quyền tố tụng dân sự của Luật sƣ, chống đƣợc sự vi
phạm pháp luật cản trở việc tham gia bảo vệ của họ. Sự vi phạm này trên thực tế
diễn ra rất đa dạng, có thể từ phía các đƣơng sự, từ phía luật sƣ đ ng nghiệp và đặc
biệt là từ chính những ngƣ i tiến hành tố tụng dân sự. Từ đó, cho thấy bảo đảm hoạt
động Luật sƣ trong tố tụng dân sự có ý nghĩa cho Luật sƣ phát huy đƣợc hết vai trò
bảo vệ đƣơng sự của họ.
Bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự tạo điều kiện cho Luật
sƣ thực hiện đƣợc quyền tố tụng dân sự của họ và qua đó Tòa án c ng có điều kiện
nhận biết đƣợc sự thật vụ việc dân sự mà giải quyết vụ việc dân sự c ng minh và có
căn cứ. Thực tế cho thấy, Luật sƣ có đóng góp rất lớn trong việc làm sáng t vụ án,
cung cấp, làm r thêm rất nhiều chứng cứ quan trọng mà kh ng có những chứng cứ
đó kh ng thể giải quyết đƣợc vụ án một cách thấu đáo. Ngoài ra, sự tham gia tố
tụng của Luật sƣ c ng có tác dụng giúp cho Tòa án tránh đƣợc khuynh hƣớng coi
thƣ ng đƣơng sự và khắc phục đƣợc tình trạng chủ quan, t y tiện trong giải quyết
vụ việc dân sự. Vì vậy, việc bảo đảm hoạt động Luật sƣ có ý nghĩa làm cho việc
giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, đúng đắn.
Việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn các vụ việc dân sự giúp cho Tòa xử
lý kịp th i và đúng đắn các hành vi trái pháp luật, buộc những ngƣ i có hành vi trái
pháp luật phải chịu trách nhiệm về những hành vi của họ. Th ng qua đó, kh ng
những ngƣ i có hành vi trái pháp luật mà những ngƣ i khác c ng hiểu đƣợc các

quy định của pháp luật đƣợc áp dụng xử lý các hành vi trái pháp luật làm cho việc
thi hành pháp luật đƣợc tốt hơn. Vì vậy, bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố
tụng dân sự còn có ý nghĩa bảo đảm cho pháp luật đƣợc t n trọng và thi hành
nghiêm ch nh.
Nhƣ vậy, về mặt pháp lý thì bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự có ý nghĩa bảo đảm cho các đƣơng sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ
trƣớc Tòa án, bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, đúng
đắn và góp phần tăng cƣ ng pháp chế xã hội chủ nghĩa.


15

1.1.3. Cơ sở của việc bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự
Mỗi quy định của pháp luật đều dựa trên những cơ sở nhất định. Các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng
dân sự đƣợc ban hành c ng kh ng nằm ngoài nguyên lý đó. Qua việc nghiên cứu
cho thấy cơ sở để pháp luật tố tụng dân sự quy định bảo đảm hoạt động Luật sƣ
trong tố tụng dân sự bao g m các cơ sở sau:
* Cơ sở lý luận
Con ngƣ i là chủ thể của mọi quan hệ xã hội. Quyền, lợi ích là cơ sở để con
ngƣ i t n tại trong xã hội nên khi tham gia vào các quan hệ xã hội mỗi ngƣ i đều
quan tâm đến quyền, lợi ích nhất định. Vì vậy, để tạo động lực cho phát triển xã hội,
Nhà nƣớc phải bảo hộ quyền, lợi ích của mọi ngƣ i. Tổng kết 20 năm thực hiện
c ng cuộc đổi mới Đảng ta c ng đã khẳng định: “Làm cho mỗi người quan tâm tới
lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động của
họ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng xã hội mới”[34,tr.139].
Việc Nhà nƣớc thừa nhận các quyền, lợi ích của các chủ thể là cần thiết, bảo
đảm đƣợc sự t n trọng cần thiết đối với các quyền, lợi ích của các chủ thể, góp phần
ổn định các quan hệ xã hội và tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Tuy nhiên, nếu
Nhà nƣớc ch c ng nhận các quyền, lợi ích của các chủ thể bằng việc quy định trong

pháp luật th i thì c ng chƣa đủ và chƣa thực sự bảo đảm thực hiện đƣợc trong đ i
sống xã hội. Do vậy, bên cạnh c ng nhận quyền, lợi ích chủ thể trong các văn bản
pháp luật thì Nhà nƣớc còn phải tạo đƣợc các điều kiện thuận lợi bảo đảm cho nó
thực hiện trên thực tế. Trong trƣ ng hợp quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm
phạm do lỗi cố ý hoặc v ý và nếu chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
có yêu cầu thì Nhà nƣớc phải xử lý các hành vi trái pháp luật để bảo vệ và kh i
phục quyền, lợi ích đó. Nếu quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể và lợi ích của
Nhà nƣớc bị xâm phạm mà Nhà nƣớc kh ng bảo vệ thì nhân dân sẽ thiếu tin cậy
vào Nhà nƣớc. Nhƣ vậy trong mối quan hệ giữa c ng nhận và bảo đảm thực hiện
các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể c ng rất quan trọng và kh ng thể thiếu
đƣợc. Đối với việc bảo đảm hoạt động của các chủ thể c ng vậy, ngoài việc c ng
nhận Nhà nƣớc phải bảo đảm các hoạt động của các chủ thể đƣợc thực hiện trên
thực tế. Vì vậy, x t về mặt lý luận thì bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng


16

dân sự đƣợc pháp luật quy định trƣớc hết xuất phát từ mối quan hệ giữa việc pháp
luật c ng nhận và bảo đảm thực hiện quyền, lợi ích của các chủ thể.
Ngoài ra, một trong những đặc điểm cơ bản của tố tụng dân sự là tìm ra sự
thật của vụ việc dân sự thì cần phải tiến hành tranh tụng. Tranh tụng lu n đƣợc coi
là cái gốc để tìm ra sự thật của vụ việc dân sự, có tác dụng bảo đảm nền c ng lý
đƣợc thực hiện một cách c ng khai, c ng bằng. Việc tranh tụng c ng khai giữa các
Luật sƣ sẽ làm tái hiện toàn cảnh bức tranh của vụ việc dân sự làm cho Hội đ ng
x t xử có thể nhận thức đúng đƣợc diễn biến của vụ việc dân sự. Tranh tụng thƣ ng
đƣợc ghi nhận trong pháp luật của các nƣớc mà ở đó dân chủ đƣợc thực hiện. Trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, tranh tụng chƣa đƣợc coi là một nguyên tắc cơ
bản của Luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, theo quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta
về hoạt động x t xử của Tòa án thì tranh tụng phải đƣợc coi trọng, cần phải đẩy
mạnh việc tranh tụng trong việc giải quyết các vụ án. Theo đó “phán quyết của Tòa

án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” 35, tr.3 . Tuy vậy, để
thực hiện tranh tụng trong giải quyết các vụ việc dân sự thì hoạt động của Luật sƣ
khi tranh tụng phải đƣợc đảm bảo, phải thực hiện các quyền tố tụng dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự.
Nhƣ vậy, cơ sở lý luận của bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân
sự là xuất phát từ mối quan hệ giữa ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền, lợi
ích từ chủ thể, từ những ƣu điểm và yêu cầu của phƣơng thức yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và yêu cầu tranh tụng trong giải quyết các
vụ việc dân sự.
* Cơ sở thực tiễn
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Về nguyên tắc, khi tham
gia vào các quan hệ, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình
theo quy định của pháp luật kh ng đƣợc xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của
ngƣ i khác. Tuy nhiên, do nhận thức và ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã
hội lu n khác nhau cho nên xử sự của các chủ thể c ng khác nhau. Trong việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể vẫn có những trƣ ng hợp dẫn đến những
mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể. Để ổn định các quan hệ xã hội, làm cho xã


17

hội phát triển vấn đề đặt ra là phải sớm giải quyết đƣợc mâu thuẫn, tranh chấp nảy
sinh trong xã hôi.
Mâu thuẫn, tranh chấp là một hiện tƣợng xã hội phổ biến, khách quan trong
cuộc sống hàng ngày. Vấn đề ở đây kh ng phải là phủ nhận, n tránh tranh chấp mà
tím giải pháp tích cực và hữu hiệu để giải quyết nó. 36,tr.34 . Hiện nay, Đảng và
Nhà nƣớc ta đang từng bƣớc thực hiện cải cách Tƣ pháp. Bên cạnh những thành tựu
đạt đƣợc hệ thống Tƣ pháp của nƣớc ta có rất nhiều những mặt trái tác động tiêu
cực đến đ i sống xã hội.
Do các mối quan hệ phức tạp, khi tiến hành giải quyết các vụ việc dân sự

các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thƣ ký Tòa án thƣ ng bị chi phối, tác động từ
nhiều phía. Trong nhiều trƣ ng hợp có cả sự chi phối, tác động từ ngƣ i quản lý cấp
trên, những ngƣ i thân thích và những ngƣ i quen biết buộc họ phải cân nhắc, xử
lý. Những ngƣ i tiến hành tố tụng là những ngƣ i bình thƣ ng nhƣ những ngƣ i
khác. Những tác động tiêu cực từ nhiều phía đã làm cho một số ngƣ i kh ng vững
vàng, thoái hóa, biến chất dẫn dến việc tiến hành tố tụng thiếu trung thực, kh ng
khách quan. Th i gian qua đã có kh ng ít ngƣ i mắc sai phạm trong thực hiện
nhiệm vụ, nhất là đối với những ngƣ i có trình độ, chuyên m n, nghiệp vụ nhƣng
yếu kém về đạo đức và có lập trƣ ng kh ng kiên định. Vì vậy, việc pháp luật tố
tụng dân sự quy định bảo đảm hoạt động của Luật sƣ trong tố tụng dân sự trƣớc hết
sẽ đặt trách nhiệm cụ thể cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thƣ ký Tòa án
cần phải t n trọng và bảo đảm hoạt động của Luật sự trong tham gia vào quá trình
giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Nhƣ vậy, cơ sở thực tiễn để pháp luật quy định bảo đảm hoạt động Luật sƣ
trong tố tụng dân sự là có hàng loạt những tiêu cực, hạn chế trong tố tụng giữa Luật
sƣ và những ngƣ i tiến hành tố tụng trong việc thực hiện hoạt động của Luật sƣ
trong tố tụng tại Tòa án. Ngoài ra, do trình độ dân chí và trình độ hiểu biết pháp luật
của đƣơng sự còn thấp, lại cộng với thiếu những điều kiện vật chất và cơ chế trợ
giúp của cá nhân, cơ quan, tổ chức … đã là những đòi h i phải bảo đảm hoạt động
của Luật sƣ trong tố tụng nhằm phát huy vai trò trợ giúp và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự.


×