Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án trong thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH HỒNG HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI ĐƯỢC THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: LÊ THU HÀ

HÀ NỘI - 2013






-1-

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài


Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân; Nhà nước

quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động đang đặt ra cho lý
luận về nhà nước và pháp luật hàng loạt vấn đề cần làm rõ theo yêu cầu của giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền là pháp luật phải được tuân thủ nghiêm minh, thống nhất, tự giác. Có nghĩa là
pháp luật đó phải được thực hiện và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn, bảo đảm
cho mọi phán quyết của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được chấp
hành nghiêm chỉnh. Để khẳng định yêu cầu này, Điều 136, Hiến pháp 1992 ghi
nhận: “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành”.
Trong thực tiễn khoa học pháp lý, vấn đề lý luận về chấp hành pháp luật, bảo
đảm quyền lợi của các tổ chức và công dân được đề cập trong nhiều công trình khoa
học của các tác giả khác nhau nghiên cứu trên cơ sở nội dung của giáo trình lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật, hầu hết được thừa nhận và sử dụng khá ổn định.
Song trong những lĩnh vực cụ thể của hoạt động hành pháp và hoạt động tư pháp
ngày càng đòi hỏi sự tham gia nghiên cứu của các nhà lý luận và cán bộ hoạt động
thực tiễn. Hơn thế nữa, việc bảo đảm thực thi bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng trong thi hành
án dân sự lại là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Quyền lực nhà nước và quyền lợi hợp
pháp của người dân có được bảo đảm hay không, không chỉ phụ thuộc vào các phán
quyết của toà án mà còn phụ thuộc nhiều vào việc cán bộ, cơ quan thi hành án có áp
dụng đúng đắn và chính xác pháp luật về thi hành án dân sự hay không. Hơn nữa,


-2-


nhận thức đúng các vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật thi hành án dân sự sẽ là cơ
sở cho việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự được chính xác và phù hợp với
thực tiễn, bảo đảm quyền lợi chính đáng không chỉ của người được thi hành án mà
còn cho các cá nhân tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Mặt khác, thực tiễn áp dụng thi hành án dân sự trong những năm vừa qua còn
thể hiện nhiều tồn tại, bất cập: Đôi khi chấp hành viên còn thiếu năng lực và kỹ
năng trong việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, sự phối hợp giữa các cơ quan
quản lý nhà nước về thi hành án và cơ quan thi hành án thiếu chặt chẽ. Đặc biệt,
thiếu các quy định pháp luật cần thiết cho việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự
đối với các bản án kinh tế, lao động, hành chính và phá sản. Điều này làm cho việc
áp dụng pháp luật thi hành án gặp nhiều trở ngại, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào công lý, vào các cơ quan bảo vệ pháp luật và đặc biệt là hệ thống cơ quan thi
hành án.
Để hạn chế phần nào những tồn tại nêu trên, nhiều nhà nhà khoa học đã có
những công trình nghiên cứu, đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất
lượng của việc áp dụng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vấn
đề hoàn thiện pháp luật thi hành án mặc dù được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý
nghiên cứu trong phạm vi của luận văn, luận án chuyên ngành luật học, song vấn đề
áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi cho
người được thi hành án lại chưa được bàn đến một cách cụ thể và đầy đủ.
Lịch sử và hiện tại về thi hành án dân sự đặc biệt qua nhiều năm đổi mới đã
cho thấy nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu tổng kết để có những bài học
kinh nghiệm cả về mặt tích cực để kế thừa và cả về mặt yếu kém để khắc phục. Vấn
đề này lại phải đặt trong bối cảnh mới, yêu cầu mới của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Xét một cách toàn diện mới thấy
tính thời sự của vấn đề không chỉ ở phương diện lý luận mà còn nằm ở phương diện
thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn thi hành án dân sự, nhằm bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật và bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người được thi hành án, Đảng và



-3-

Nhà nước ta qua các thời kỳ phát triển đã có nhiều chủ trương đường lối nhằm tăng
cường hiệu quả, hiệu lực và chất lượng của hoạt động thi hành án dân sự. Ngay từ
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX (ngày 3
tháng 2 năm 2004) Đảng ta đã khẳng định: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi
hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài”.
Đặc biệt, gần đây, trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 một lần nữa Đảng lại khẳng định
quan điểm: “Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành
án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án” (Nghị quyết số 48-NQ/TW về
việc chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 do Bộ Chính trị ban hành).
Nếu việc thi hành án được thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, người được
thi hành án sẽ có cơ hội bảo vệ được một cách chính đáng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Chính từ những lý do trên, việc nghiên cứu, phân tích về pháp luật
thi hành án và thực tiễn áp dụng nhằm “bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người được thi hành án trong thi hành án dân sự" là một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tiễn, vấn đề hoạt động thi hành án dân sự và việc bảo đảm quyền

lợi cho các đương sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Chủ yếu và tập trung vẫn là việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thi
hành án dân sự nhằm bảo đảm nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là:
* Các đề tài nghiên cứu khoa học:
-


Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2005 do Viện Khoa học pháp lý chủ trì phối hợp
với Cục Thi hành án Dân sự, Bộ tư pháp: “Bình luận Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 2004”;

-

Đề tài khoa học cấp Nhà nước 2000-58-198 do Bộ Tư pháp chủ trì: “Luận cứ
khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt
Nam trong giai đoạn mới”;


-4-

-

Đề tài khoa học cấp Bộ số 96 – 98-027/ĐT năm 1996: “Về Mô hình quản lý
thống nhất công tác thi hành án” do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp
chủ trì;

-

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: "Những điểm mới của Luật Thi hành
án dân sự 2008", Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010;
* Các luận án, luận văn:

-

Luận án tiến sĩ luật học của NCS Nguyễn Thanh Thuỷ: “Hoàn thiện pháp
luật về thi hành án dân sự” (2001);


-

Nguyễn Quang Thái với Luận án tiến sĩ luật học (2003): “Tăng cường pháp
chế trong thi hành án dân sự”;

-

Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Thế Anh: “Giám sát hoạt động thi hành
án dân sự”;

-

Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn (2004): “Đổi mới thủ tục
thi hành án dân sự ở Việt Nam”;
* Các bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành:

-

"Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự", của
Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 05/2010;

-

"Bản chất pháp lí của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành
án dân sự", Trần Anh Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16/2009;

-

"Vài suy nghĩ về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án", của Hồ

Quân Chính, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về thi hành án dân
sự 7/2011;

-

"Biện pháp bảo đảm thi hành án - Bước ngoặt của pháp luật về thi hành án
dân sự", của Lê Thị Kim Dung, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề
Thi hành án dân sự và vấn đề xã hội hóa, năm 2009;

-

Bài viết: “Thử bàn về lý luận thi hành án” của GS.TS. Lê Minh Tâm đăng
trên Tạp chí Luật học số 2 năm 2001;


-5-

-

Bài viết: “Một số ý kiến về thi hành án dân sự” của Th.S Nguyễn Công Bình
báo cáo tại Hội thảo Tư pháp dân sự do Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức
tại Hà nội ngày 15,16/10/2000;

-

Bài viết: “Một số vấn đề về tính chất của hoạt động thi hành án” của Trần
Thế Vượng báo cáo tại Hội thảo “Một số vấn đề về dự án Bộ luật Thi hành
án” tại thành phố Hồ Chí Minh do Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội Việt Nam
và Dự án hỗ trợ thực hiện chính sách của Canađa tổ chức.
Bên cạnh đó, có nhiều đề tài nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong nhiều


lĩnh vực như điển hình là tác giả Lê Xuân Thân: Luận văn thạc sĩ; “Áp dụng pháp
luật của Tòa án nhân dân ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật năm 2004.
Nhìn chung những vấn đề lý luận về thực tiễn pháp luật thi hành án và hoạt
động áp dụng pháp luật đã được được các tác giả đề cập đến, những kết quả nghiên
cứu đó đã đóng góp cho lý luận chung về nhà nước và pháp luật những nội dung với
giá trị khoa học nhất định. Song cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cụ
thể, toàn diện trên lĩnh vực mà đề tài luận văn này đặt ra.
Chính vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền và lợi ích của
người được thi hành án trong thi hành án dân sự” để đi sâu nghiên cứu, trên cơ
sở lý luận, thực tiễn và có sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học đã được
công bố trên đây làm tài liệu tham khảo có giá trị.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1.

Mục đích

-

Làm rõ những cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự
nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án;

-

Đánh giá thực trạng hoạt động thi hành án và đề ra các giải pháp hiệu quả
nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của người được thi hành án trong thi hành án
dân sự.


3.2.

Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của đề tài là:

-

Làm rõ khái niệm và một số đặc điểm cơ bản về quyền của người được thi
hành án;


-6-

-

Phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến quyền và bảo vệ quyền
của người được thi hành án trong thi hành án dân sự;

-

Đánh giá thực trạng của việc bảo vệ quyền của người được thi hành án trong
thi hành án hiện nay;

-

Xác định phương hướng và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao việc bảo đảm
quyền của người được thi hành án trong thi hành án dân sự.

4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng:
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về những quy định nhằm bảo đảm quyền của

người được thi hành án trong Luật thi hành án dân sự nói riêng và trong pháp
luật thi hành án dân sự nói chung.
Về mặt khoa học: Đối tượng nghiên cứu tập trung vào quy định liên quan đến
việc bảo vệ quyền của người được thi hành án, đồng thời luận chứng giải pháp bảo
đảm quyền của người được thi hành án trong thi hành án dân sự.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng nghiên cứu trên phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định

như sau:
Về không gian: Pháp luật trong thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá quy định của pháp
luật thi hành án dân sự trong giai đoạn từ khi có Luật Thi hành án dân sự từ năm
2008 đến nay. Trên cơ sở đó, các giải pháp luận văn đưa ra nhằm hoàn thiện pháp
luật về thi hành án làm cơ sở để tăng cường việc bảo đảm quyền của người được thi
hành án. Do đó, có giải pháp đưa ra là giải pháp trước mắt, cần áp dụng ngay. Song
cũng có những giải pháp mang tính định hướng, lâu dài được áp dụng song song với
việc hoàn thiện các quy định pháp luật thi hành án trong tương lai, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


5.1.

Cơ sở lý luận: Thực hiện đề tài này tác giả dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm lịch sử đã đúc kết thành


-7-

lý luận trong thi hành án dân sự. Đồng thời tác giả sử dụng những vấn đề lý
luận của Đảng về quản lý Nhà nước nói chung và quản lý thi hành án nói
riêng. Những vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật xã hội chủ nghĩa
cũng là cơ sở quan trọng của luận văn.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến và
các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như thống kê, phân
tích, khảo sát, tổng hợp…

6.

Những đóng góp mới của luận văn

-

Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của người
được thi hành án trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.

-


Chỉ ra một số những vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật thi hành án
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền và lợi ích của người được thi
hành án. Từ đó đánh giá việc thực hiện pháp luật của các cơ quan thi hành án
dân sự, góp phần tổng kết đánh giá thực tiễn về việc bảo đảm quyền của
người được thi hành án trong pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện
nay.

-

Đưa ra các giải pháp kiến nghị về việc bảo đảm quyền lợi của người được thi
hành án. Đặc biệt, luận văn đưa ra những đóng góp tích cực cho việc hoàn
thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

7.

Ý nghĩa của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở lý luận và thực

tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự ở
nước ta nói riêng. Đồng thời đây cũng là ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế, bộ máy
quản lý hoạt động thi hành án và việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành án.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu giảng dạy pháp luật,
học viên cao học, sinh viên luật và các cán bộ hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, đặc biệt là góp một tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
người được thi hành án nói riêng và những cá nhân tổ chức có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan nói chung.


-8-


Về mặt thực tiễn: Luận văn chỉ ra những điểm còn bất cập trong việc bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án trong thi hành án dân sự
hiện nay và đề xuất những giải pháp trước mắt và lâu dài đi đến hoàn thiện pháp
luật thi hành án, trong đó có Luật Thi hành án dân sự.
8.

Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phần mục lục,

luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của người được thi
hành án và bảo đảm quyền của người được thi hành án trong
thi hành án dân sự.

Chương 2:

Một số quy định của pháp luật về bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người được thi hành án.

Chương 3:

Thực tiễn việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
được thi hành án và hoàn thiện pháp luật thi hành án về việc
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành
án.


-9-


Chương 1
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ
1.1.

Khái niệm thi hành án dân sự, một số đặc điểm cơ bản của việc bảo đảm
quyền của người được thi hành án

1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung
và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự
có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối
cùng, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án
được chấp hành, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
Nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp 1992 đã quy định: “Các bản án và quyết định
của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Việc cho thi hành, chấp hành các bản án, quyết định của Tòa án là cách thiết
thực nhất bảo đảm cho quyền và lợi ích của người được thi hành án và cũng là để
thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 3, Khoản 2 Luật Thi hành án 2008 ghi
rõ: “Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi
ích trong bản án, quyết định được thi hành”.
Người được thi hành án xuất hiện với tư cách là người đã tham gia giai đoạn
tố tụng từ khi xét xử vụ án và được ghi nhận trong bản án, quyết định là một người
được hưởng các quyền và lợi ích sau một quá trình xét xử. Họ là người có quyền và
lợi ích được pháp luật bảo vệ và tiếp theo là phải được hưởng lợi ích từ việc cho thi

hành bản án, quyết định này.
Như vậy, có thể hiểu rằng, người được thi hành án là người có quyền và lợi
ích hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, họ cần được bảo đảm để thực


-10-

hiện quyền và lợi ích hợp pháp đó. Thông qua hoạt động thi hành án, các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận trong bản án, quyết định được bảo
đảm thực hiện.
Điều 50, Hiến pháp năm 1992 quy định: “ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật.”
Quyền của người được thi hành án trước hết thuộc một trong các quyền của
công dân, được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và được cụ thể hóa bởi các văn bản
luật và văn bản dưới luật. Ngay tại Điều 1, Luật Thi hành án 2008 nêu rõ: “Luật này
quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt
tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản,
án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong
bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có
liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết
định); hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên; quyền, nghĩa vụ của
người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành
án dân sự.”
Từ đây, chúng ta nhận thấy rằng, việc bảo vệ quyền của người được thi hành
án được ghi nhận rõ nhất thông qua việc cho thi hành bản án, quyết định có hiệu lực
của Tòa án, Trọng tài, gọi chung là hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân

sự là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế. Thi hành án dân sự là
bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.


-11-

Hiện nay đang tồn tại nhiều luồng quan điểm về hoạt động thi hành án dân
sự.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, hoạt động thi hành án dân sự là một hoạt động
tư pháp vì nó gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ luật Tố
tụng Dân sự 2004. Do đó thi hành án dân sự chính là một hoạt động của tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một vấn đề thực tiễn pháp lý
đang thừa nhận đó là cơ quan thi hành án dân sự không phải là cơ quan tiến hành tố
tụng, chấp hành viên thi hành án dân sự không phải là người tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, hoạt động thi hành án dân sự là một loại hoạt
động hành chính vì bản chất, mục đích của thi hành án khác hoàn toàn với tố tụng,
không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự. Bởi lẽ, bản chất và mục đích của tố
tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự, vụ việc dân sự để
đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để có được các phán quyết
đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân tiến hành tố tụng tham gia theo một
quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và minh bạch. Còn hoạt động thi hành án dân
sự lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình thủ tục, tố tụng. Xuất phát từ một
bản án, quyết định của toà án, cơ quan thi hành án dân sự đưa ra một quyết định
mang tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để
điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể
được thi hành án. Hơn thế nữa, những người theo quan điểm này còn cho rằng, hoạt

động thi hành án dân sự là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này mang
tính chất chấp hành và điều hành mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét.
Quan điểm này dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành không quy định cơ quan thi hành
án là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự. Song sự bất hợp lý là ở chỗ nếu coi thi hành
án dân sự là một hoạt động hành chính thì với những trường hợp người được thi
hành án dân sự không làm đơn yêu cầu thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án
dân sự không thể có cơ sở và các phương pháp hành chính như: Mệnh lệnh, quyền
uy để đưa ra các biện pháp thi hành án dân sự được. Do đó, yếu tố hành chính
không đảm bảo.


-12-

Quan điểm thứ ba cho rằng, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động hành
chính - tư pháp. Có nghĩa là hoạt động này vừa mang tính hành chính, vừa mang
yếu tố của tính tư pháp chứ không thể chỉ có riêng tính hành chính, hoặc riêng tính
tư pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa
án chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác
định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác,
không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì
"thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự
thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải
quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến
hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật" (Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”,
Tạp chí Luật học, số 2/2001).
Theo chúng tôi, đây là một quan điểm hết sức hợp lý. Bởi lẽ, thi hành án dân
sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, do cơ quan thi hành án dân sự
và chấp hành viên thực hiện nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về dân
sự của Toà án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án dân sự trên thực tế

luôn gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng,
đồng thời gắn với quyền lực hành pháp, để thông qua việc tổ chức, điều hành bằng
bộ máy đặc biệt của cơ quan hành pháp, những cá nhân, tổ chức được thi hành án
dân sự được Nhà nước bảo vệ. Đồng thời, cũng qua hoạt động thi hành án dân sự,
các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ phải thi hành án dân sự phải thực hiện đầy đủ các
trách nhiệm của mình. Trong trường hợp không thi hành quyết định thi hành án thì
cá nhân, tổ chức đó phải chịu sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua các cơ quan có
chức năng, nhiệm vụ liên quan - cơ quan thi hành án dân sự được xác định theo
thẩm quyền do pháp luật quy định. Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành
chính - tư pháp, với những đặc điểm như sau:
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính


-13-

- Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án. Các
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các
hoạt động thi hành án. Do đó, không có kết quả của hoạt động xét xử thì không có
hoạt động thi hành án. Là một dạng hoạt động hành chính nhà nước, thi hành án thể
hiện tính chấp hành, quản lý rất rõ "bởi toàn bộ quá trình thi thành án với những
hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã
được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể
của pháp luật" (Lê Minh Tâm (2001), Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án,
Tạp chí Luật học, số 2/2001).
- Trong quá trình thi hành án, cơ quan thi hành án tác động tới đối tượng
phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc cơ quan thi hành án áp dụng các biện
pháp buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định
của Tòa án, quyết định khác theo quy định của pháp luật. Qua đó, giáo dục họ và
những người xung quanh về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của tập thể
và cá nhân, kỷ cương của Nhà nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của hoạt

động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là những
tính chất của hoạt động quản lý.
- Đối với thi hành án, phương pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết nhưng
phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc trưng (đặc biệt
là trong thi hành án hình sự).
Tuy nhiên, thi hành án không chỉ mang tính hành chính đơn thuần mà nó
còn thể hiện tính hành pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động tư pháp
- Thi hành án chủ yếu do cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) tiến hành.
Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ
chức thi hành án các bản án và quyết định phức tạp. Nhưng thực tế đã chứng minh


-14-

vai trò của các cơ quan tư pháp là hết sức quan trọng. Trong hoạt động thi hành án
dân sự, cơ quan thi hành án là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành
án thuộc phòng Tư pháp..... Ngoài ra còn có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức
khác như Công an, tài chính...
- Hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò của các cá
nhân như Chấp hành viên, Giám thị viên... những người được Nhà nước giao trách
nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi hành nhiệm vụ họ chỉ
tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Điều đó thể hiện tính độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ thi hành án.
- Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án: Bao gồm các quy định của
pháp luật (được thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật) và các bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật (văn bản áp
dụng pháp luật).
- Mục đích của hoạt động thi hành án là bảo đảm cho nội dung của các bản
án, quyết định nói trên được thực thi trên thực tế.

Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu thi hành
án là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, nhằm bảo đảm thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài ra, thi hành án dân sự còn được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Hiểu theo nghĩa hẹp, “thi hành án dân sự là hoạt động của các cơ quan thi
hành án dân sự dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành
trên thực tế” (Nguyễn Quang Thái (2003), Luận văn thạc sĩ “Tăng cường pháp chế
trong thi hành án dân sự”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).


-15-

Hiểu theo nghĩa rộng, thi hành án dân sự được xem là các hoạt động chỉ đạo,
điều hành hoạt động tác nghiệp và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật
để nhằm mục đích đảm bảo các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định
khác theo quy định của pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế”
(Nguyễn Quang Thái (2003), Luận văn thạc sĩ “Tăng cường pháp chế trong thi hành
án dân sự”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Nếu hiểu thi hành án dân sự
theo nghĩa này thì hoạt động thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động của cơ
quan thi hành án do các chấp hành viên thực hiện mà là tổng hợp nhiều hoạt động
tác nghiệp khác nhau của các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ. Bao gồm cả cơ quan
quản lý, cơ quan theo dõi, hỗ trợ hoạt động thi hành án, giám sát và giải quyết khiếu
nại về hoạt động thi hành án dân sự, các cơ quan, ban ngành có liên quan nhằm đảm
bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành án được diễn ra đúng quy trình, thủ tục
được pháp luật quy định, đồng thời có chất lượng và hiệu quả trên thực tế.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song hoạt động thi hành án dân sự
được hiểu là tổng hợp các hoạt động tác nghiệp của cơ quan thi hành án, chấp hành

viên nhằm mục đích bảo đảm việc thi hành trên thực tiễn các bản án, quyết định của
Toà án về dân sự và các quyết định khác theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ được
pháp luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm của việc bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án
Người được thi hành án là những người đã từng tham gia tố tụng (thường là
người khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình hoặc cho
những người khác có liên quan), do đó, việc bảo vệ quyền lợi của người được thi
hành án chính là giúp cho công lý được thực thi, giúp bảo đảm nền pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Việc bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án trong thi hành án
dân sự mang một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà Nước. Việc bảo đảm quyền
của người được thi hành án hay nói cách khác là cho thi hành bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật chính là hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án. Trong đó


-16-

bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau, nên đòi hỏi sự huy động lực
lượng không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp và bổ
trợ tư pháp. Do đó, việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở hoạt động này là sự phối
hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Thông qua hoạt động thi hành án,
những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước
được trở thành hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá trình giải quyết một
vụ án chỉ kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành kịp thời và đầy
đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự không được quan tâm và không có hiệu quả thì
sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố,
xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại.
Thứ hai, là hoạt động có mục đích. Đó là việc hiện thực hoá ý chí của Nhà

nước thông qua bản án, quyết định của Toà án về một vụ việc dân sự cụ thể vào
thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án dân sự không chỉ nhằm mục đích giữ
vững kỷ cương, phép nước, giá trị của pháp luật mà còn bảo vệ quyền và lợi ích của
cá nhân, tổ chức là đối tượng trực tiếp được thi hành án. Đồng thời thi hành án dân
sự còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến đối tượng
là tài sản trong quyết định thi hành án dân sự đó.
1.2.

Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội và quá

trình Toà án giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh thì bản án, quyết định dân sự
- kết quả giải quyết của Toà án nhân danh Nhà nước - là sự xác nhận quyền và
nghĩa vụ dân sự của các đương sự có liên quan. Vì vậy, Điều 136 Hiến pháp năm
1992 qui định: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành”, Điều 4 Luật Thi hành án 2008 qui định: “Bản án, quyết
định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân


-17-

tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của
mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc thi hành án”. Theo đó, bản án, quyết định dân sự có hiệu lực của
Toà án phải được bảo đảm thi hành theo những trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Điều này không chỉ đơn thuần là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
được thi hành án mà còn thể hiện tính quyền lực của nhà nước và tính nghiêm minh

của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung
và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự
có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối
cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Ngoài ra, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành
án trong thi hành án dân sự còn mang lại những ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội.
Quá trình giải quyết một vụ án sẽ chỉ được coi là kết thúc khi bản án, quyết
định của Tòa án được thực thi đầy đủ và kịp thời. Các đương sự khi tham gia tố
tụng kinh tế, dân sự không chỉ quan tâm đến kết quả xét xử là bản án hoặc quyết
định của Tòa án, ý nguyện và lợi ích của họ còn là ở chỗ: Quyền và lợi ích hợp
pháp của họ được công nhận và bảo đảm thi hành trên thực tế bằng sự cưỡng chế
của Nhà nước trong trường hợp cần thiết (Trần Đình Hảo (2003), “về cải cách tư
pháp và vấn đề thi hành án xét từ góc độ của luật kinh tế dân sự”, Nhà nước và Pháp
luật).
Nếu bản án, quyết định nằm trên giấy, không được thực thi trên thực tế thì
không những thể hiện pháp luật không nghiêm mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân, dẫn đến việc khiếu


-18-

nại, tố cáo, gây bức xúc kéo dài của đương sự, trong đó có người được thi hành án người có quyền, lợi ích hợp pháp trực tiếp bị ảnh hưởng.
Thứ hai, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, trách nhiệm của
các cơ quan tổ chức trong thi hành án dân sự.

Thi hành án nói chung, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người
được thi hành án nói riêng trong thi hành án là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ
động, phát huy trách nhiệm của chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo
sát sao cụ thể của chính quyền địa phương, sự phối hợp với các cơ quan tổ chức có
liên quan, sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp chung. Thi hành
án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ đơn thuần riêng của cơ quan thi hành án và
chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua đó, ý thức
pháp luật của người dân, vai trò trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng
lên, tạo niềm tin cho mọi tầng lớp nhân dân và tính nghiêm minh của pháp luật,
giúp cho sức mạnh của Nhà nước ngày càng được củng cố, tăng cường.
Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa
án.
Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án là những giai đoạn đầu của quá trình bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nói chung, người được thi hành án nói
riêng. Thông qua giai đoạn thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án mới được
thực thi trên thực tế. Mặt khác, việc quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án (người yêu cầu pháp luật bảo vệ) có được bảo đảm hay không là một cách
thức hữu hiệu nhất kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản
ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử, với mục tiêu cơ bản là
bảo đảm quyền lợi của đương sự, trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của người
được thi hành án.
Việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án trong
hoạt động thi hành án xác định tính hiệu quả của hoạt động tố tụng, thể hiện cụ thể
ở các nội dung sau:


-19-




Việc cho thi hành án dân sự để bảo đảm quyền lợi cho người được thi
hành án là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật
thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: Việc thi hành
các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành
án, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu
cầu cơ quan thi hành án hoãn việc thi hành án, quyết định tạm đình
chỉ thi hành án để xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm...). Tuy nhiên, nó lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ
hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan
thi hành thi hành án dân sự. Những quyết định này mang tính bắt buộc
chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên
quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong
phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp
thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành
án phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt động
tố tụng thuần tuý. Bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện kiểm sát,
chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn thi hành án
đông đảo và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ
ủy ban nhân dân địa phương nơi người phải thi hành án cư trú; cơ
quan, tổ chức nơi người phải thi hành án làm việc...



Việc cho thi hành án dân sự để bảo đảm quyền lợi cho người được thi
hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra,
các cơ quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp
thời các biện pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản...
thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó

khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tồn
đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định được
Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể,


-20-

được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh
chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được
tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ
gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với các cơ quan Nhà nước. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng,
kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng
cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử.


Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Viện Kiểm sát
nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm
sát chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm
sát đối với hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư
pháp. Tuy nhiên, trong Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân hiện
hành vẫn có một chương với nhiều điều quy định về kiểm sát thi hành
án. Trong thực tiễn, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành
nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi hành án. Tuy nhiên,
tính chất của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có nhiều điểm
không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này cho
thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng với cơ quan thi hành án, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp
luật về thi hành án, giữa quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp
luật về thi hành án.




Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án
cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố
tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân.
Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự,
thủ tục thi hành án, kể cả Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
cũng không thấp hơn những người tiến hành tố tụng trước đó là phải
độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án,


×