Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.17 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ HỒNG TUYẾN

HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Hải Yến

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu, công trình nghiên cứu khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2013
Tác giả



Đặng Thị Hồng Tuyến


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTKLM

cạnh tranh không lành mạnh

SHTT

sở hữu trí tuệ

SHCN

sở hữu công nghiệp

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


MỤC LỤC
1

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ

HỮU CÔNG NGHIỆP ………………………………………………………5
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI CTKLM TRONG LĨNH VỰC SHCN .................. 5
1.1.1. Hành vi CTKLM

……………………………………………………………………………………………………5

1.1.1.1. Khái niệm hành vi CTKLM .................................................................. 5
1.1.1.2. Đặc điểm hành vi CTKLM ................................................................... 7
1.1.2. Hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN

………………………………………………………….9

1.1.2.1. Bản chất hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN .................................. 9
1.1.2.2. Phân biệt hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN và hành vi xâm phạm
quyền SHCN................................................................................................... 11
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CTKLM TRONG LĨNH VỰC
SHCN ................................................................................................................... 13
1.2.1. Khái quát pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………13

1.2.1.1. Khái quát pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
giai đoạn trước khi Luật Cạnh tranh 2004 ..................................................... 13
1.2.1.2. Khái quát pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
từ khi Luật Cạnh tranh 2004 được ban hành .................................................. 15
1.2.2. Khái quát pháp luật quốc tế về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN 16
1.2.2.1. Quy định của Công ước Paris về CTKLM .......................................... 16
1.2.2.2. Quy định của Hiệp định TRIPS về CTKLM ........................................ 18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM…………………………………………………………………. 20

2.1. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÀNH VI CTKLM TRONG
LĨNH VỰC SHCN ………………………………………………………..

20

2.1.1. Xác định hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN ……………………………………………………… 20

2.1.1.1. Hành vi chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn ........................................ 20
2.1.1.2. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh ................................................ 23


2.1.1.3. Hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của
điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu
nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó ..................................................................... 26
2.1.1.4. Hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền bất hợp pháp ............. 27
2.1.2. Các biện pháp xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN……………………..28
2.1.2.1. Biện pháp do chủ thể bị thiệt hại tự áp dụng (biện pháp tự bảo vệ).... 29
2.1.2.2. Biện pháp dân sự ............................................................................... 30
2.1.2.3. Biện pháp hành chính ........................................................................ 31
2.2. ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HÀNH VI
CTKLM TRONG LĨNH VỰC SHCN ....................................................................... 35

2.2.1. Một số thành tựu của pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHCN

…………………………………………………………………………………………………………………………….35

2.2.1.1. Các quy định pháp luật về xác định hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN ngày càng rõ ràng, đạt độ tương thích với pháp luật quốc tế và pháp
luật các nước.................................................................................................. 35

2.2.1.2. Pháp luật về xử lý hành vi CTKLM cũng dần được hoàn thiện, góp
phần hạn chế việc thực hiện các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN trên
thực tế ............................................................................................................ 38
2.2.2. Một số hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM
trong lĩnh vực SHCN

……………………………………………………………………………………………………………….40

2.2.2.1. Pháp luật cạnh tranh và pháp luật SHTT không thống nhất trong quy
định về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN................................................ 40
2.2.2.2. Pháp luật CTKLM trong lĩnh vực SHCN chưa bao quát hết các hành vi
CTKLM có thể xảy ra trên thực tế .................................................................. 43
2.2.2.3. Quy định của pháp luật về áp dụng biện pháp tự bảo vệ chưa rõ ràng
gây lúng túng cho các chủ thể quyền bước đầu ngăn chặn, xử lý các hành vi
CTKLM trong lĩnh vực SHCN ........................................................................ 44
2.2.2.4. Một số quy định của pháp luật về xử lý hành chính đối với hành vi
CTKLM chưa rõ ràng, thiếu hợp lý gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm
quyền thực thi pháp luật ................................................................................. 45
2.2.2.5. Pháp luật hình thức về xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
bằng biện pháp dân sự chưa đảm bảo yêu cầu linh hoạt, mềm dẻo, nhanh
chóng, dứt điểm, khiến phương thức xử lý này chưa đem lại hiệu quả cao...... 47
2.2.2.6. Pháp luật hiện hành thiếu các quy định cụ thể về tội danh CTKLM
trong lĩnh vực SHCN ...................................................................................... 48


CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC SHCN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP …………………………………………………51

3.1. THỰC TIỄN XỬ LÝ HÀNH VI CTKLM TRONG LĨNH VỰC SHCN .......... 51
3.1.1. Tình hình xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN

……………………………51

3.1.2. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong quá trình xử lý hành vi
CTKLM trong lĩnh vực SHCN

……………………………………………………………………………………54

3.1.2.1. Các quy định của pháp luật còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, ảnh hưởng
đến hoạt động xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN trên thực tế ......... 54
3.1.2.2. Năng lực của các cơ quan có thẩm quyền chưa đáp ứng đủ nhu cầu
thực tế trong hoạt động điều tra, xử lý vi phạm đối với hành vi CTKLM trong
lĩnh vực SHCN ............................................................................................... 55
3.1.2.3. Ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp chưa cao ............. 57
3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CTKLM TRONG LĨNH VỰC
SHCN ................................................................................................................... 58
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực SHCN………………………………………………….

58

3.2.1.1. Cần thống nhất những quy định về hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN của pháp luật SHTT và pháp luật cạnh tranh ...................................... 58
3.2.1.2. Pháp luật cần bổ sung thêm dạng hành vi CTKLM liên quan đến kiểu
dáng công nghiệp ........................................................................................... 60
3.2.1.3. Bổ sung quy định pháp luật trong trường hợp chủ thể bị vi phạm tự áp
dụng biện pháp ngăn chặn, xử lý hành vi CTKLM .......................................... 61

3.2.1.4. Pháp luật cần quy định thống nhất và hợp lý về mức tiền xử phạt hành
chính đối với các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN ................................ 63
3.2.1.5. Bổ sung các quy định trong luật hình thức về xử lý hành vi CTKLM
bằng biện pháp hình sự .................................................................................. 64
3.2.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN

………………………………………….65

3.2.2.1. Nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi ..................................... 65
3.2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng doanh
nghiệp và người tiêu dùng .............................................................................. 66


3.2.2.3. Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong việc
giải quyết vụ việc về CTKLM. ........................................................................ 67
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………………………………………………69


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong một nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp cũng như nhà sản xuất rất
quan tâm đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), trong đó đặc biệt là vấn đề
thương hiệu. Tuy vẫn còn rất bỡ ngỡ về những vấn đề liên quan đến quyền SHCN
nhưng chắc chắn bất cứ doanh nghiệp Việt Nam nào cũng đều ý thức được tầm quan
trọng và tính quyết định của lĩnh vực này đối với sự tồn tại và phát triển của mình. Từ
tầm quan trọng đó nên các quyền SHCN thường xuyên trở thành đối tượng để các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) xâm hại. Thực tế cho thấy, kể từ khi

chuyển sang kinh tế thị trường, nhất là khi áp lực cạnh tranh trên thị trường ngày một
lớn, nền kinh tế Việt Nam cũng chứng kiến sự tồn tại của nhiều loại hành vi cạnh
tranh được coi là không lành mạnh. Có thể kể đến các dạng hành vi như: “gây nhầm
lẫn cho khách hàng” nhằm chiếm đoạt lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác
(bằng cách nhái nhãn mác, ăn theo các thương hiệu nổi tiếng: chẳng hạn Lavie và La
Ville, Lavier, Lavige v.v.; xe máy WAVE và WAKE UP, WASE, WAYTHAI ;
DREAM và DEALIM, DLEAM; thuốc cảm cúm Decolgen, Decoagen v.v.); “quảng
cáo, khuyến mại nhằm CTKLM” (vụ dây cáp điện CADIVI và CADISUN); “Hành vi
gièm pha, gây rối hoạt động kinh doanh đối thủ cạnh tranh” (chẳng hạn tin đồn rằng
ăn bột ngọt (mì chính) của hãng bột ngọt Ajinomoto là “gây ung thư”. Ăn nước mắm
Chinsu “gây ung thư”, trong bia BIGI (Tiền Giang) có ruồi, trong chai bia Tiger có
gián, băng vệ sinh P&G có chất amiăng gây hại cho người sử dụng...); “Bán hàng đa
cấp bất chính” (công ty TGM)1. Đặc biệt, trong đó, các dạng hành vi CTKLM liên
quan đến các đối tượng SHCN được thực hiện một cách phổ biến, biểu hiện qua các
dạng hành vi: chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh…
Trước tình hình đó, các nhà làm luật của Việt Nam không ngừng quan tâm xây
dựng những quy định pháp luật liên quan nhằm xử lý răn đe, hạn chế việc thực hiện
hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN trên thực tế, qua đó bảo vệ quyền lợi của các
doanh nghiệp chân chính, của người tiêu dùng và bảo vệ nền kinh tế. Bằng chứng là
trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi quan trọng trong pháp luật
bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và pháp luật về cạnh tranh. Tuy nhiên,
dường như những quy định hiện nay của pháp luật Việt Nam chưa đáp ứng được nhu
cầu thực tế trong việc chống lại hành vi CTKLM nói chung và hành vi CTKLM trong
1
Phạm Văn Lợi và Nguyễn Văn Cương (2006), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi CTKLM”, Tạp
chí Nghề Luật, số 2/2006.


2


lĩnh vực SHCN nói riêng. Số lượng các vụ việc về CTKLM trong lĩnh vực SHCN
được các cơ quan có thẩm quyền xử lý còn quá hạn chế so với số lượng các dạng vụ
việc này xảy ra trên thực tế.
Hơn nữa, việc bổ sung các quy định của pháp luật về SHTT và pháp luật về
cạnh tranh và tăng cường hệ thống thực thi là điều kiện để Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Trên thực tế, các chế định không thích hợp trước
đây của Việt Nam về bảo hộ quyền SHTT, sự thiếu vắng các quy định để bảo vệ cạnh
tranh lành mạnh là một trong những rào cản lớn nhất của Việt Nam trong quá trình
gia nhập WTO và hiện tại vẫn là đối tượng chịu nhiều sức ép từ phía các tổ chức quốc
tế, theo đó yêu cầu phía Việt Nam phải hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hệ thống quy
định pháp luật và cơ chế thực thi của mình.
Xuất phát từ thực tế nói trên, việc nghiên cứu, phát hiện và khắc phục những
hạn chế, bất cập của pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, đồng thời
đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHCN là cần thiết, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ môi
trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến pháp luật về CTKLM đã nhận được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Ngay từ những năm đầu tiên của thế kỷ 21, trong
bối cảnh nền kinh tế nước ta có những biến chuyển đáng kể, đã xuất hiện một số công
trình nghiên cứu của các học giả liên quan đến pháp luật về hành vi CTKLM. Có thể
kể đến như công trình nghiên cứu của hai tác giả TS. Nguyễn Như Phát và ThS. Bùi
Nguyên Khánh “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”2 năm 2001 và bài viết của của ThS. Nguyễn
Thanh Tâm “Về pháp luật chống CTKLM và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền
SHCN ở nước ta” tại Tạp chí Thương mại số 42 năm 2003. Các công trình này đã đặt
nền tảng lý luận, nghiên cứu những quy định của pháp luật thực định và đưa ra những
định hướng cho pháp luật về chống CTKLM, trong đó có CTKLM trong lĩnh vực
SHCN. Tuy nhiên, cho đến nay, các quy định pháp luật được nghiên cứu trong các đề
tài này đã không còn hiệu lực. Sau khi Luật Cạnh tranh 2004 và Luật SHTT 2005 ra

đời, đã xuất hiện một số bài viết nghiên cứu về hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN. Tuy nhiên, những bài viết này hầu như chỉ tập trung phân tích một dạng hành
vi cụ thể nào đó hoặc một khía cạnh nhỏ của pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh
2
Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.


3

vực SHCN. Có thể kể đến như: bài viết “Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn: điều chỉnh
theo pháp luật cạnh tranh hiện hành” của ThS. Lê Anh Tuấn đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 8/2007, bài viết của ThS. Nguyễn Như Quỳnh đăng trên tạp
chí Luật học số 5/2009 “Xác định hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh liên
quan đến quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Gần đây (08/2012),
Khoa Pháp luật kinh tế, trường Đại học Luật hà Nội đã tổ chức hội thảo khoa học
“Thực thi pháp luật CTKLM ở Việt Nam”. Phạm vi nghiên cứu của công trình này rất
rộng: không chỉ liên quan đến các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN mà còn bao
gồm cả việc nghiên cứu về các nhóm hành vi CTKLM khác được pháp luật cạnh
tranh quy định. Có lẽ vì phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng như vậy nên mảng pháp
luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN chưa được đề cập sâu trong công trình
nghiên cứu này. Có thể nói, việc hệ thống hóa một cách toàn diện pháp luật về hành
vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN cũng như đưa ra các phân tích chi tiết thực trạng
pháp luật hiện hành, phân tích thực tiễn xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
ở Việt Nam chưa được giải quyết triệt để trong các công trình nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài trong luận văn này hướng tới một số mục đích đó là:
- Tìm hiểu khái quát về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, chỉ ra những
đặc thù của hành vi này so với các hành vi CTKLM khác.
- Hệ thống hóa các văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi CTKLM trong lĩnh

vực SHCN, đánh giá mức độ đáp ứng của các quy định pháp luật hiện hành trong việc
xử lý, hạn chế hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN xảy ra trên thực tế.
- Làm sáng tỏ những hạn chế, bất cập của pháp luật gây bất lợi khi các chủ thể
có thẩm quyền áp dụng để xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, đánh giá
thực tiễn xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, trên cơ sở đó đề ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý hành vi
CTKLM trong lĩnh vực SHCN.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản là:
- Nghiên cứu bản chất của hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, phân biệt
hành vi này với hành vi CTKLM nói chung, với hành vi xâm phạm quyền SHCN.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHCn để làm sáng tỏ những hạn chế, bất cập của những quy định này. Đồng thời


4

phân tích thực tiễn xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, tìm hiểu những
nguyên nhân tác động đến thực tiễn đó.
- Đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của
pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được nghiên cứu trong
luận văn này bao gồm các quy định trong cả văn bản luật nội dung và luật hình thức.
Tuy nhiên, do giới hạn dung lượng của một luận văn thạc sĩ nên khi nghiên cứu các
quy định của luật hình thức, luận văn chỉ đề cập đến một số quy định của luật hình
thức ảnh hưởng, gây khó khăn cho hoạt động xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN. Luận văn không nghiên cứu tất cả những quy định cụ thể của thủ tục tố tụng

xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu trên, luận văn sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như: phương pháp tổng hợp, phân tích, thống
kê, so sánh, khái quát hóa... Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực
hiện trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin, trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kêt luận, luận văn được cơ cấu thành 03 chương với các
nội dung cụ thể như sau:
- Chương 1. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp và pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
- Chương 3. Thực tiễn xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp và một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp.


5

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái quát về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
1.1.1. Hành vi CTKLM

1.1.1.1. Khái niệm hành vi CTKLM
Cho đến nay, không thể phủ nhận vai trò của cạnh tranh trong việc cân bằng
cung cầu trên thị trường, tạo động lực đổi mới và phát triển cũng như bảo vệ quyền
lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, để đem lại những lợi ích như vậy, hoạt động cạnh
tranh cần được duy trì trong một khuôn khổ lành mạnh và tuân theo những nguyên
tắc nhất định. Khái niệm cạnh tranh gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, là động lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường. “Cạnh tranh có thể được hiểu là
sự ganh đua giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc
khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu
kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần”3. Như vậy, trong cơ
chế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo Karl Marx (Các Mác): “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”, có nghĩa, sự tồn tại
của các đối thủ cạnh tranh luôn là mối đe dọa tới nguồn lợi nhuận của các nhà kinh
doanh. Điều này dẫn tới việc hình thành các hành vi cạnh tranh không lành mạnh với
mục đích triệt hạ các đối thủ cạnh tranh giành lấy thị trường, khách hàng… và lợi
nhuận. Theo cách phân loại phổ biến hiện nay, dựa vào tính chất của phương thức
cạnh tranh, cạnh tranh cũng được chia thành hai loại: cạnh tranh lành mạnh và cạnh
tranh không lành mạnh.
Có thể hiểu cạnh tranh lành mạnh là loại cạnh tranh theo đúng quy định
của pháp luật, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh. Cạnh tranh có tính chất thi đua,
thông qua đó mỗi chủ thể nâng cao năng lực của chính mình mà không dùng thủ đoạn
triệt hạ đối thủ. Phương châm của cạnh tranh lành mạnh là “không cần phải thổi tắt
ngọn nến của người khác để mình tỏa sáng”.4
3

UNDP-CIEM (2002), Dự án hoàn thiện môi trường kinh doanh – Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, Nxb. Giao thông vận tải.
4

/>

6

Có ý kiến cho rằng trên thực tế trong thị trường tự do cạnh tranh có rất ít cạnh
tranh lành mạnh5. Điều đó cho thấy mức độ phổ biến của những hành vi CTKLM và
có thể nói thuật ngữ “CTKLM” là thuật ngữ tương đối quen thuộc. Tuy nhiên để đưa
ra được định nghĩa hoàn chỉnh, rõ ràng về hành vi CTKLM lại không dễ. Đây vẫn là
vấn đề bàn luận của rất nhiều học giả và cho tới nay đã có rất nhiều quan điểm khác
nhau được đưa ra. Có quan điểm cho rằng hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể
hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường vi phạm những
chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc
tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng6. Quan điểm khác lại
cho rằng, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại các
nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến lợi ích của
chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội7.
Hay cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích
cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ
không chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ
cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh8.
Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ hành vi CTKLM được quy định tại khoản 4
Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004: “Hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Nhìn chung, cách
tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam
về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế9. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành
mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ
cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các

nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không lành mạnh giống
như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh

5

Tổ chức SHTT thế giới - WIPO, Cẩm nang SHTT: Chính sách, pháp luật và áp dụng.
Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.132.
7
Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30,31.
8 Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), tr. 241.
9
Xem phần 1.2.1 Luận văn
6


7

không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không
lành mạnh và thiệt hại10.
Như vậy, khi đề cập đến hành vi CTKLM người ta thường nhấn mạnh đến tính
“không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không
đẹp, không phù hợp với đạo đức kinh doanh mà hệ quả của những hành vi này có thể
sẽ dẫn đến gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng làm thay đổi tương
quan cạnh tranh trên thị trường.
1.1.1.2. Đặc điểm hành vi CTKLM
Qua phân tích về khái niệm hành vi CTKLM ở trên, có thể xác định một số
đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM như sau:

Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi CTKLM là các doanh nghiệp tham gia
hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận
một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, hay sử dụng khái niệm của pháp luật
thương mại là có tư cách thương nhân trên thị trường. Theo đó, chủ thể thực hiện
hành vi cạnh tranh bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác
xã, hộ kinh doanh cá thể, các hiệp hội ngành nghề, cá nhân có đăng ký kinh doanh11.
Trên một phạm vi rộng hơn, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể
áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội)
và các cá nhân hành nghề tự do (bác sỹ, luật sư, kiến trúc sư…)12.
Thứ hai, hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh. Đây là đặc điểm thể hiện bản chất không lành mạnh
của hành vi cạnh tranh. Tuy nhiên, thuật ngữ “chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh” là thuật ngữ trừu tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Cho đến nay, chưa có
một định nghĩa pháp lý nào quy định về chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh, do đó,
cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng khái niệm hành vi không lành mạnh để
quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là không lành mạnh. Vì vậy, đòi hỏi cơ
quan xử lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải có những hiểu biết và đánh
giá sâu sắc về thực tiễn thị trường để phán định một hành vi có đi ngược lại những
10

TS. Nguyễn Hữu Huyên, Phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ,
11
Luật Cạnh tranh ngày 03/12/2004, Điều 2, khoản 1
12
Đoàn Tử Tích Phước (2009), “Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh”, Tọa đàm
về Cạnh tranh không lành mạnh, Cục Quản lý cạnh tranh, 27/08/2009.



8

quy tắc xử sự chung trong kinh doanh tại một thời điểm nhất định hay không. Có thể
hiểu, hành vi cạnh tranh bị coi là không lành mạnh nếu hành vi đó đi ngược lại các
thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, có thể hiểu là những quy tắc xử sự
chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị
trường. Một hoạt động kinh doanh nhất định bị đa số trong cộng đồng doanh nghiệp
phản đối thì hiếm khi được coi là là cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra, một số thông lệ
kinh doanh được công nhận trong một số ngành, lĩnh vực nhất định, song lại bị coi là
sai trái ở những ngành, lĩnh vực khác. Trong những trường hợp như vậy, việc đánh
giá hành vi phải dựa trên các chuẩn mực chung hơn về đạo đức kinh doanh, trong đó
xem xét khả năng quyền lợi của người tiêu dùng bị phương hại.
Thứ ba, hành vi CTKLM gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho các chủ
thể khác. Theo đó, hành vi CTKLM trực tiếp đã gây ra hậu quả thiệt hại (vật chất và
tinh thần) cho các đối tượng được pháp luật bảo vệ hoặc có căn cứ cho thấy có thể
gây ra thiệt hại cho các chủ thể trên, có nghĩa là một thiệt hại sẽ xảy ra trong tương lai
do hành vi CTKLM. Về chủ thể bị thiệt hại hoặc có thể bị thiệt hại do hành vi
CTKLM gây ra, dễ thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể tác động đến
nhiều đối tượng khác nhau tham gia thị trường khác nhau, trong đó hai nhóm cơ bản
là các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Điều 3 của Luật Chống cạnh tranh
không lành mạnh Đức cấm “các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây ảnh
hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn hại đến các đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng
và các chủ thể tham gia thị trường khác”. Luật Cạnh tranh Việt Nam có đưa thêm
một đối tượng có thể bị xâm hại là Nhà nước. Lợi ích của Nhà nước bị hành vi
CTKLM xâm hại có thể hiểu theo hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là lợi ích trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của Nhà nước, tức là xem xét Nhà nước với tư cách là một
chủ thể sản xuất kinh doanh; Thứ hai, đó là lợi ích công cộng, gắn với nền kinh tế
quốc gia, lúc này Nhà nước được xem xét với tư cách chủ thể quản lý nền kinh tế,
điều tiết thị trường. Theo khía cạnh đầu tiên, đối tượng này không mang tính tiêu
biểu, không phổ biến trong quy định về CTKLM của nhiều quốc gia, do chỉ có thể đặt

vấn đề bảo vệ lợi ích của Nhà nước trước hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại
những nền kinh tế mà ở đó Nhà nước tham gia sâu vào hoạt động kinh doanh, và cạnh
tranh trực tiếp với các thành phần kinh tế khác trên thị trường. Trong đa số trường
hợp khác, lợi ích của Nhà nước đã được thể hiện thông qua lợi ích của các nhóm chủ
thể tham gia thị trường là doanh nghiệp và người tiêu dùng. Như vậy, trong những


9

trường hợp này, nên hiểu chủ thể Nhà nước bị thiệt hại bởi hành vi CTKLM với ý
nghĩa Nhà nước đại diện cho lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
1.1.2. Hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
1.1.2.1. Bản chất hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
Đối tượng SHCN là một yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại,
nên đã có không ít đối thủ cạnh tranh thực hiện các hành vi CTKLM xâm hại đến các
đối tượng SHCN, để thu lợi bất chính trong kinh doanh. Mối quan hệ giữa hành vi
CTKLM và các đối tượng SHCN đã được biết đến và xuất hiện trong các học thuyết
pháp lý cũng như pháp luật của các nước từ khá lâu. Lý luận về cạnh tranh ký sinh
(coccurence parasitaire) xuất phát từ các phán quyết của tòa án tại Pháp hướng đến
việc ngăn cấm các hành vi lợi dụng những thành quả kinh doanh, đầu tư riêng biệt
của người khác. Học thuyết về sự mạo nhận (Passing off) của Anh đưa ra nguyên tắc
thương nhân không được đưa sản phẩm ra thị trường bằng cách mạo nhận sản phẩm
của người khác, từ đó gây thiệt hại đến thiện chí và uy tín của thương nhân kinh
doanh trung thực và lừa dối người tiêu dùng. Pháp luật Mỹ kế thừa học thuyết
Passing off của Anh và bổ sung, phát triển thêm những khía cạnh đánh giá tính chất
không lành mạnh của hành vi vi phạm, trong đó có thể kể đến tác động làm mờ nhạt
giá trị của nhãn hiệu. Theo cách đánh giá này, những hành vi mạo nhận không chỉ
gây thiệt hại cho chủ nhãn hiệu vì bị mất khách hàng, mà về lâu dài, nó còn khiến cho
đặc tính độc đáo, đặc thù của nhãn hiệu - giúp cho khách hàng từ nhãn hiệu nhận diện
được nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ - sẽ bị mờ nhạt13. Hay về phương diện pháp luật

quốc tế, ngay từ năm 1900 tại Hội nghị ngoại giao Brusels về sửa đổi Công ước Paris
về Bảo hộ quyền SHCN, quyền chống CTKLM đã được ghi nhận là một bộ phận cấu
thành của quyền SHCN bằng việc bổ sung Điều 10 bis “bất kỳ hành vi cạnh tranh nào
đi ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương
mại đều là hành vi CTKLM”.
Về bản chất, hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN trước hết là hành vi
CTKLM, mang những đặc điểm của hành vi CTKLM, bên cạnh đó còn có đặc điểm
riêng biệt gắn liền với quyền SHCN. Đó là, đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN, hành vi cạnh tranh phải liên quan đến sử dụng và chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp. Một hành vi bị coi là hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN sẽ vừa vi
phạm pháp luật cạnh tranh và vừa vi phạm pháp luật SHTT. Như vậy, có thể đưa ra
13

ThS. Đoàn Tử Tích Phước (2009).


10

khái niệm về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN: “Hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHCN là những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất
kinh doanh liên quan đến việc sử dụng hoặc chuyển giao các đối tượng SHCN, trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc người tiêu dùng”. Theo đó, hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN so với
các hành vi CTKLM trong các lĩnh vực khác có một số điểm đặc thù sau:
Thứ nhất, đối tượng hướng tới của các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
là các đối tượng SHCN. Điều đó có nghĩa hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
thường phải liên quan đến việc sử dụng hoặc chuyển giao quyền SHCN. Cụ thể, trong
quá trình sản xuất, kinh doanh, một số chủ thể đã có hành vi sử dụng những đối tượng
SHCN trùng hoặc tương tự với đối tượng SHCN đang được các doanh nghiệp khác

sử dụng một cách hợp pháp. Có thể nói, hành vi CTKLM xuất hiện ở những đối
tượng SHCN gắn với hoạt động thương mại, các đối tượng SHCN được hướng tới có
thể là: nhãn hiệu, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh
doanh…
Các đối tượng mà doanh nghiệp vi phạm sử dụng không thể được coi là đối
tượng SHCN của doanh nghiệp vi phạm, vì không đáp ứng yêu cầu sử dụng lâu dài
và hợp pháp. Các dấu hiệu này thường được các chủ thể hành vi CTKLM tạo ra sau
khi đã tồn tại đối tượng SHCN hợp pháp trên thị trường với hình thức, đặc điểm
tượng tự để lợi dụng ưu thế cạnh tranh của đối tượng SHCN đó.
Thứ hai, thông thường những hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được thực
hiện với mục đích gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Mục tiêu cạnh tranh trong kinh
doanh là thu hút người tiêu dùng, do vậy, các hành vi CTKLM diễn ra chủ yếu nhằm
lôi kéo khách hàng về phía mình, đạt được thị phần lớn trên thị trường. Để đạt được
mục tiêu đó, các chủ thể thực hiện hành vi CTKLM đã dùng những thủ đoạn để lừa
dối khách hàng, khiến người tiêu dùng mua và sử dụng những sản phẩm mà mình
không thực sự biết rõ và có thể có chất lượng thua kém. Chính vì vậy, pháp luật cạnh
tranh hiện nay ghi nhận về một loại hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN với thuật
ngữ “hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn”14. Những nhầm lẫn có thể thể hiện dưới một số
góc độ khác nhau: i) Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm giống nhau do cùng từ một nhà
cung cấp; ii) Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm giống nhau thể hiện hai nhà cung cấp có

14

Điều 39, Điều 40 Luật Cạnh tranh 2004.


11

quan hệ, liên kết với nhau; iii) Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm giống nhau sẽ có công
dụng, tính năng, chất lượng như nhau.

1.1.2.2. Phân biệt hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN và hành vi xâm phạm quyền
SHCN
Quyền SHTT, trong đó có quyền SHCN từ lâu đã được coi là một dạng quyền
tư hữu. Đối với một tài sản hữu hình, việc bảo vệ được thực hiện không chỉ thông qua
các quy định của pháp luật mà còn thông qua sự kiểm soát trực tiếp của chủ sở hữu
đối với tài sản, còn đối với một tài sản trí tuệ, sự bảo hộ nhất thiết phải cầu viện đến
sự trợ giúp của pháp luật, bởi đặc trưng của quyền SHTT là tính vô hình, chính vì vậy
quyền này dễ bị xâm phạm nhưng khó kiểm soát được. Như vậy, bản chất của hành vi
xâm phạm quyền SHCN là một dạng của hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Quyền sở
hữu nào cũng đem lại cho người nắm giữ nó những độc quyền nhất định, đối với một
tài sản hữu hình thì đó là 03 quyền năng được thừa nhận từ thời luật La Mã, còn đối
với các độc quyền của chủ sở hữu tài sản trí tuệ thì bản chất cũng là các độc quyền
như đối với tài sản hữu hình, sự khác biệt chỉ là phương thức thực hiện các độc quyền
cũng như sự giới hạn về thời gian và không gian mà pháp luật dành cho chủ sở hữu.
Trong khi đó, như đã trình bày ở trên, bản chất của hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHCN là hành vi CTKLM, mang những đặc điểm của hành vi CTKLM, bên cạnh
đó còn có đặc điểm riêng biệt gắn liền với quyền SHCN. Đó là, đối với hành vi
CTKLM trong lĩnh vực SHCN, hành vi cạnh tranh phải liên quan đến sử dụng và
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp. Một chủ thể bị coi là có hành vi CTKLM
trong lĩnh vực SHCN nếu có bằng chứng cho thấy trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, chủ thể đó đã có hành vi sử dụng, chuyển giao những đối tượng SHCN trùng
hoặc tương tự với đối tượng SHCN đang được các doanh nghiệp khác sử dụng một
cách hợp pháp.
Như vậy, hành vi xâm phạm quyền SHCN và hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN nhìn bề ngoài có thể có rất nhiều điểm giống nhau: đều liên quan đến việc sử
dụng, chuyển giao đối tượng SHCN không thuộc quyền sở hữu của chủ thể thực hiện
hành vi; đều được thực hiện với mục đích kiếm lợi từ tài sản của người khác…Tuy
nhiên, xuất phát từ chính bản chất pháp lý của mỗi loại hành vi có thể thấy được một
số điểm khác nhau giữa hai loại hành vi này. Đó chính là sự khác nhau về phạm vi
đối tượng hướng tới của hành vi, về chủ thể thực hiện hành vi và về yếu tố lỗi15.


15

Nguyễn Hữu Huyên,


12

Thứ nhất, phạm vi đối tượng hướng tới của hai loại hành vi không hoàn toàn
trùng nhau. Có thể dễ dàng nhận thấy, cả hành vi xâm phạm quyền SHCN và hành vi
CTKLM trong lĩnh vực SHCN đều liên quan tới các đối tượng SHCN. Nhìn nhận
theo đúng lý thuyết về quyền sở hữu, chỉ có thể cấu thành hành vi xâm phạm quyền
SHCN khi có một quyền SHCN hợp pháp đang được bảo hộ bị xâm phạm. Nói một
cách khác, sẽ không có khái niệm về vi phạm quyền SHCN khi mà quyền đó không
hề tồn tại, ví dụ như trường hợp một nhãn hiệu thông thường (không phải nhãn hiệu
nổi tiếng) không đăng ký thì không thể nói quyền sở hữu nhãn hiệu đó bị xâm phạm
và cũng không thể căn cứ vào pháp luật về SHTT để bảo vệ. Tuy nhiên, cũng trong
trường hợp này lại hoàn toàn có thể áp dụng pháp luật cạnh tranh để điều chỉnh, theo
đó hành vi sử dụng chỉ dẫn làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch
vụ nhằm mục đích cạnh tranh là một dạng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
không phụ thuộc vào việc dấu hiệu chỉ dẫn đó đã được đăng ký hay chưa. Như trên đã
trình bày, hành vi sử dụng hoặc chuyển giao đối tượng SHCN trùng hoặc tương tự
với đối tượng SHCN đang được các doanh nghiệp khác sử dụng một cách hợp pháp
đã có thể bị kết luận là hành vi CTKLM mà không cần phải xét đến đối tượng SHCN
đó đã được đăng ký bảo hộ (xác định quyền sở hữu) hay chưa. Từ sự phân tích này có
thể thấy những “đối tượng SHCN” của hành vi CTKLM rộng hơn so với “đối tượng
SHCN” của hành vi xâm phạm quyền SHCN. Các đối tượng như khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng, bao bì… nếu không được bảo hộ bằng các quy định riêng về
SHTT thì không thể là đối tượng của hành vi xâm phạm quyền SHCN nhưng hoàn
toàn có thể trở thành đối tượng hướng tới của hành vi CTKLM.

Thứ hai, chủ thể thực hiện hai loại hành vi này cũng có yếu tố khác nhau.
Không thể nói đến hành vi CTKLM khi mà trên thực tế các chủ thể không ở trong vị
thế “cạnh tranh” với nhau. Cụ thể, chỉ có thể kết luận về hành vi CTKLM nếu các chủ
thể có hành vi bị cấm đối với đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan, bao gồm thị
trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan16. Trong khi đó, có thể kết
luận hành vi xâm phạm quyền SHCN với bất kỳ chủ thể nào vi phạm độc quyền của
chủ sở hữu đã được pháp luật quy định. Có thể lấy một ví dụ hình tượng như một
doanh nghiệp tại Cà Mau sử dụng một nhãn hiệu đã đăng ký cho cùng nhóm sản
phẩm của doanh nghiệp khác có trụ sở và phạm vi hoạt động tại Cao Bằng. Giả sử
rằng hai doanh nghiệp này không có quan hệ cạnh tranh với nhau trên thị trường địa

16

Xem khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004


13

lý liên quan (do ở quá xa nhau), thì chủ nhãn hiệu vẫn hoàn toàn có thể kiện về hành
vi xâm phạm quyền SHCN nhưng sẽ không thể kiện về hành vi CTKLM.
Thứ ba, yếu tố lỗi đặt ra với hai loại hành vi cũng khác nhau. Hành vi
CTKLM là hành vi có lỗi cố ý theo pháp luật hiện hành cũng như được ghi nhận từ
lâu trong pháp luật các nước17. Điều 40 Luật Cạnh tranh 2004 chỉ rõ hành vi chỉ dẫn
gây nhầm lẫn phải “nhằm mục đích cạnh tranh”, do đó không thể nói tới cạnh tranh
không lành mạnh khi mà người chủ thể không biết mình đang thực hành vi bị cấm.
Đối với lĩnh vực SHCN, lỗi không phải là yếu tố bắt buộc cấu thành hành vi vi phạm.
Một khi các đối tượng của quyền SHCN đã được đăng ký bảo hộ theo đúng trình tự
pháp luật quy định thì các chủ thể khác được suy đoán là đã biết tới quyền của chủ
hữu. Do đó, sẽ cấu thành hành vi xâm phạm quyền SHCN với mọi hành vi thuộc độc
quyền của chủ sở hữu quyền SHCN mà không được chủ sở hữu cho phép.

1.2. Khái quát pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
1.2.1. Khái quát pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
1.2.1.1. Khái quát pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN giai
đoạn trước khi Luật Cạnh tranh 2004
Ở Việt Nam, trước năm 1986, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, toàn bộ hoạt động của nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp đều
tuân thủ theo một kế hoạch đă định trước, các chỉ tiêu pháp lệnh được phân bổ để
thực hiện kế hoạch đều bắt buộc phải thực hiện. Nền kinh tế chỉ bao gồm hai thành
phần cơ bản là thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) và
thành phần kinh tế thuộc sở hữu tập thể (hợp tác xã). Thành phần kinh tế tư nhân luôn
bị cải tạo, thu hẹp và bị xóa bỏ. Thời kỳ này không có môi trường cho cạnh tranh tồn
tại và phát triển.
Sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế theo hướng phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản
lý của Nhà nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khởi xướng, các
cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại bình
đẳng. Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận tại Hiến pháp 1992 với sự đa dạng về
các thành phần kinh tế được thừa nhận và được tạo điều kiện để phát triển đã tạo ra
và thúc đẩy môi trường cạnh tranh phát triển. Cạnh tranh không còn là hiện tượng
17
Ví dụ như tại Pháp, cho tới nay, căn cứ pháp lý được sử dụng để xử lý hành vi CTKLM là quy định về Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Điều 1382 BLDS Pháp.


14

mới mẻ trong nền kinh tế. Thực tiễn đó buộc Nhà nước ta phải ban hành các văn bản
pháp luật để điều tiết nó.
Bên cạnh những nguyên tắc chung về cạnh tranh được quy định tại Hiến pháp
1992 và Bộ luật Dân sự 1995, cạnh tranh trong kinh doanh còn phải tuân thủ các

nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, tôn trọng lợi ích công cộng, tôn trọng
quyền và lợi ích của người khác, tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, tôn trọng
quyền nhân thân. Vi phạm quyền nhân thân, lợi dụng uy tín, gièm pha, ép buộc trong
kinh doanh,.. gây thiệt hại cho người khác là những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, vi phạm các nguyên tắc cơ bản tại Điều 2, Điều 4 và Điều 5 Bộ luật Dân sự
1995.
Luật Thương mại 1997 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định trực
tiếp về quyền cạnh tranh của thương nhân trong hoạt động thương mại (được quy
định tại khoản 2 Điều 8). Tuy nhiên, hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được luật
này quy định vẫn còn sơ sài, chưa có sự phân biệt với hành vi xâm phạm quyền
SHCN. Cụ thể, hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN được ghi nhận tại điểm đ
khoản 2 Điều 8 Luật Thương mại 1997: “Xâm phạm quyền về nhãn hiệu hàng hóa,
các quyền khác về sở hữu công nghiệp của thương nhân khác”.
Tiếp sau Luật Thương mại 1997, các quy định liên quan đến cạnh tranh được
quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Hình sự năm 1999, Pháp
lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001...
Tuy nhiên, những quy định về CTKLM ở những văn bản này chủ yếu liệt kê các hành
vi CTKLM trong hoạt động kinh doanh nói chung như: sản xuất, kinh doanh hàng
giả, hàng nhái; xâm phạm quyền SHCN; quảng cáo gian dối18… mà không đề cập
đến các hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN.
Trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Công ước Paris, pháp luật các
nước đã quan tâm đến quy định về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, yêu cầu
nước ta cũng cần có những quy định cụ thể về hành vi CTKLM trong lĩnh vực
SHCN. Chính vì vậy, trên cơ sở quy định tại Điều 10bis Công ước Paris và kinh
nghiệm của các nước, ngày 03/01/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ
dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên
quan tới sở hữu công nghiệp. Có thể nói, các chủ thể của quyền SHCN đã biết đến
18


Xem Điều 156, Điều 157, Điều 158, Điều 162, Điều 171 Bộ luật Hình sự 1999;
Điều 7 Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999
Điều 5 Pháp lệnh Quảng cáo 2001;


15

một “vũ khí” tự vệ mới, đó là các quy định về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh liên quan tới SHCN được quy định tại Chương IV của Nghị định này.
Điều 24 Nghị định 54/2000/NĐ-CP đã liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh:
“1. Sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về
chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ nhằm
mục đích: a, Lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất, kinh doanh khác trong
sản xuất, kinh doanh của mình; b, Làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của người sản
xuất, kinh doanh khác trong sản xuất, kinh doanh khác của mình; c, Gây nhầm lẫn về
xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng
hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ… cho người tiêu dùng trong
quá trình nhận biết, lựa chọn hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh.
2. Chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được
người đó cho phép’’.
Có thể nói, những quy định của pháp luật về hành vi CTKLM trong giai đoạn
này chưa phát huy được nhiều hiệu quả trong đời sống kinh tế - xă hội ở nước ta, vì
còn thiếu các quy định cụ thể về bộ máy thực thi, cơ chế áp dụng cũng như chế tài xử
lý đối với các thương nhân vi phạm.
1.2.1.2. Khái quát pháp luật Việt Nam về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN từ khi
Luật Cạnh tranh 2004 được ban hành
Đứng trước đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội trong nước, tình
hình cạnh tranh ngày càng phức tạp và đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, sau nhiều năm khởi xướng xây dựng cơ chế kinh tế thị trường và thực thi

chính sách cạnh tranh, ngày 03/12/2004, tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khóa XI đã
thông qua Luật Cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh 2004 là văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Sau khi Luật cạnh tranh được ban hành, Chính phủ đã
ban hành một số văn bản liên quan đến điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Các văn bản này quy định những vấn đề sau về hành vi CTKLM: i) Quy định
về các dạng hành vi CTKLM, cụ thể, bao gồm 9 dạng hành vi quy định tại Điều 39
Luật Cạnh tranh 2004, trong đó có hai dạng hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN:
Hành vi chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn và Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh;
ii) Quy định chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh, cơ quan quản lý nhà


16

nước chuyên ngành về lĩnh vực CTKLM tại Nghị định 06/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 9/1/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh; iii) Quy định về quy trình xử lý các vụ
việc CTKLM tại Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh; iv) Quy định về các hình thức
xử lý đối với các hành vi CTKLM tại Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Đặc biệt, ngay sau khi Luật Cạnh tranh 2004 được ra đời, năm 2005 Nhà nước
ta đã ban hành ra Luật SHTT với những quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn về hành
vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN. Đồng thời, Luật SHTT 2005 cũng đã quy định về
các biện pháp để bảo vệ quyền chống CTKLM, xử lý các hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHCN. Cùng với sự ra đời của Luật SHTT 2005, đã có một số văn bản pháp luật
khác được ban hành nhằm cụ thể hóa một số quy định của Luật SHTT, trong đó có
những quy định về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN: Nghị định 106/2006/NĐCP (nay đã được thay thế bằng Nghị định 97/2010/NĐ-CP), Thông tư số 09/2008/TTBTTTT ngày 24/12/2008 của Bộ Thông tin và truyền thông hướng dẫn về quản lý và
sử dụng tài nguyên internet, gần đây là Thông tư 37/2011/TT-BKHCN ngày
27/12/2011 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số điều của Nghị định

97/2010/NĐ-CP. Các văn bản này ra đời đã cụ thể hóa thêm một bước các quy định
về các dạng hành vi CTKLM, đồng thời cũng quy định rõ hơn về các hình thức xử lý
hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN, xác định thẩm quyền xử lý cho các cơ quan
chức năng: Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Thanh tra Thông tin và Truyền thông,
Trung tâm Internet Việt Nam, Cục Quản lý cạnh tranh.
Có thể nói, hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam điều chỉnh
hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN dù vẫn còn những điểm chưa hợp lý, chưa đầy
đủ, nhưng không thể phủ nhận, ở một mức độ nào đó, hệ thống các quy định này đã
góp phần hạn chế các hành vi CTKLM xảy ra trên thực tế, lành mạnh hóa môi trường
cạnh tranh của Việt Nam.
1.2.2. Khái quát pháp luật quốc tế về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN
1.2.2.1. Quy định của Công ước Paris về CTKLM
Quyền chống CTKLM lần đầu tiên đã được thừa nhận là một bộ phận cấu
thành của bảo hộ SHCN vào năm 1990 tại Hội nghị ngoại giao Brusels về Sửa đổi
Công ước Paris vể Bảo hộ quyền SHCN bằng việc bổ sung Điều 10bis vào Công ước.


17

Điều này quy định “Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung
thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi CTKLM”.
Tại định nghĩa này, có thể thấy tiêu trí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh,
không lành mạnh của một hành vi cạnh tranh là “các thông lệ trung thực, thiện chí”.
Điều 10bis đã cố ý bỏ ngỏ khái niệm này cho pháp luật của các nước thành viên Công
ước tự định hoạt.
Hơn thế nữa, cũng tại Điều 10bis, Công ước đã quy định nghĩa vụ các quốc gia
thành viên phải tiến hành bảo hộ hiệu quả chống lại các hành vi CTKLM “Các nước
thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm cho công dân của các nước thành
viên đó sự bảo hộ có hiệu quả chống lại các hành vi CTKLM”. Ngoài ra, Công ước
Paris cũng ghi nhận nguyên tắc xác định hành vi CTKLM và cụ thể hóa một số hành

vi CTKLM19. Cụ thể : “Những hành động sau đây phải bị ngăn cấm: (1) Tất cả
những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở,
hàng hóa, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh tranh; (2) Những
khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tính đối với
cơ sở, hàng hóa, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh tranh; (3)
Những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại
có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính
thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hóa”. Những trường hợp này chưa hẳn
đã toàn diện nhưng là sự bảo hộ tối thiểu mà tất cả các nước thành viên phải đưa ra.
Đối với hai trường hợp đầu tiên (gây ra sự nhầm lẫn và làm mất uy tín), có thể được
coi là thuộc lĩnh vực “truyền thống” của luật cạnh tranh, đó là bảo hộ đối thủ cạnh
tranh. Trường hợp thứ ba (lừa dối) được bổ sung tại Hội nghị sửa đổi ở Lisbon năm
1958, đã tính đến lợi ích của cả người cạnh tranh và người tiêu dùng20.
Điều 10ter (1) của Công ước đã quy định cụ thể hơn về nghĩa vụ đảm bảo “các
công cụ pháp lý thích hợp” để ngăn chặn có hiệu quả tất cả các hành động được nêu
tại Điều 10bis: “Các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm cho
công dân của các nước thành viên khác của Liên minh các công cụ pháp lý thích hợp
để ngăn chặn có hiệu quả tất cả các hành động được nêu tại các Điều 9, 10, và
10bis”. Công ước Paris không quy định cụ thể các phương thức bảo hộ mà cho phép
các quốc gia thành viên tự lựa chọn phương thức chống CTKLM trên cơ sở pháp luật
quốc nội.
19

Lê Mai Thanh (2009), “Cạnh tranh trong lĩnh vực SHCN: Tiếp cận từ điều ước quốc tế”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 12 năm 2009, tr.59.
20
Tổ chức SHTT thế giới - WIPO, tr.133.


18


Ngoài điều 10bis và 10ter, Công ước Paris còn có nhiều quy định liên quan tới
việc bảo hộ chống lại các hành vi CTKLM theo nghĩa rộng hơn, đặc biệt với những
hành vi liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa và tên thương mại. Ví dụ, điều 6sexies và
Điều 8 quy định về bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ và tên thương mại; Điều 6septies quy
định bảo hộ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu trong trường hợp người đại diện hoặc
đại lý đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu mà không được chủ sở hữu nhãn hiệu cho
phép.
1.2.2.2. Quy định của Hiệp định TRIPS về CTKLM
Hiệp định TRIPS ký ngày 15/04/1994 có nhiều quy định liên quan đến vấn đề
CTKLM trong lĩnh vực SHCN. Ngay từ Điều 8 quy định về nguyên tắc, vấn đề này
đã được quan tâm: “Có thể cần đến những biện pháp phù hợp, miễn là không trái với
các quy định của Hiệp định này, để ngăn ngừa sự lạm dụng các quyền SHTT bởi
những người nắm quyền hoặc ngăn chặn các hành vi gây cản trở hoạt động thương
mại một cách bất hợp lý hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chuyển giao công nghệ
quốc tế”21. Hiệp định TRIPS cho phép các thành viên của WTO ban hành trong pháp
luật của thành viên đó các biện pháp phù hợp, miễn là không trái với các quy định
của Hiệp định này, để ngăn ngừa, kiểm soát các hanh vi CTKLM “ngăn chặn các
hành vi gây cản trở hoạt động thương mại một cách bất hợp lý”.
Liên quan đến bảo hộ quyền chống CTKLM, Hiệp định TRIPS cũng quy định
về việc bảo hộ thông tin bí mật tại Điều 39. Theo đó, để bảo đảm chống CTKLM một
cách hữu hiệu theo quy định tại Điều 10bis Công ước Paris, các Thành viên phải bảo
hộ thông tin bí mật và bảo hộ các dữ liệu được trình nộp cho các Chính phủ hoặc các
cơ quan Chính phủ theo quy định sau: (1) Các thể nhân và pháp nhân sẽ có khả năng
ngăn chặn thông tin thuộc quyền kiểm soát hợp pháp của họ không bị bộc lộ, thu thập
hoặc sử dụng bởi những tổ chức hoặc cá nhân khác mà không được sự đồng ý của họ
theo một cách thức trái với các thông lệ thương mại trung thực (Điều 39.2); (2) Các
cuộc kiểm tra chưa bộc lộ hoặc các dữ liệu khác được nộp như một điều kiện để được
phê chuẩn việc kinh doanh dược phẩm hoặc các sản phẩm hóa nông mà sử dụng
những chất hóa học mới, sẽ được bảo hộ chống lại việc sử dụng thương mại không

lành mạnh và, trong những trường hợp cụ thể, chống lại việc bộc lộ (Điều 39.3).
Ngoài ra, Hiệp định TRIPS cũng quy định về kiểm soát hoạt động chống cạnh
tranh trong các hợp đồng li-xăng tại Điều 40. Điều này quy định các nước thành viên
21

Xem khoản 2 Điều 8 Hiệp định TRIPS.


×