Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật hiện hành về các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.96 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HƢƠNG

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CÁC HỢP ĐỒNG CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ YẾN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên của luận văn, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các
thầy cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội, những người đã ân cần dạy dỗ và
truyền đạt kiến thức cho em trong suốt những năm học tập dưới mái trường này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Nguyễn Thị Yến –
giảng viên khoa Luật Kinh tế, trường Đại học Luật Hà Nội. Cô đã hướng dẫn chỉ
bảo tận tình cho em trong suốt quá trình làm luận văn.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, luận
văn khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự góp ý, chỉ bảo của các thầy


cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Hƣơng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO
DỊCH HÀNG HÓA VÀ CÁC HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT
ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA ......... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ...... 5
1.1.1. Khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ................... 5
1.1.2. Đặc điểm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa .................. 10
1.2. Khái niệm và đặc điểm các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ................................................................ 13
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng kỳ hạn ............................................ 13
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng quyền chọn .................................... 17
1.2.3.Khái niệm và đặc điểm hợp đồng môi giới mua bán hàng hóa, hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa ................................................................... 22
1.3. Ý nghĩa của quy định pháp luật về các hợp đồng có liên quan đến hoạt
động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ........................................ 24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HỢP
ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA ............................................................... 27
2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh các hợp đồng có liên quan đến hoạt động
mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa trong nước ............................... 27
2.1.1. Hợp đồng kỳ hạn ................................................................................. 27

2.1.2. Hợp đồng quyền chọn ......................................................................... 40
2.1.3. Hợp đồng môi giới và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa ........................................................................................ 45
2.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh các hợp đồng có liên quan đến mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa nước ngoài ............................................. 50


2.2.1.Nội dung giao dịch mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa nước
ngoài .............................................................................................................. 51
2.2.2. .Nội dung hợp đồng môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa nước ngoài.............................................................................................. 54
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CÁC HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG
HÓA .................................................................................................................... 59
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về các hợp
đồng có liên quan đến mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. ............ 59
3.2. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về các
hợp đồng có liên quan đến mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ...... 62
3.2.1.Cần sửa đổi khái niệm hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn ......... 62
3.2.2. Hạn chế quyền hạn của thành viên kinh doanh trong hợp đồng mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ..................................................... 65
3.2.3. Xây dựng văn bản pháp luật quy định riêng về hoạt động mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ............................................................ 67
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 71


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cho đến nay,sở giao dịch hàng hóa (Commodity exchange) đã không còn
xa lạ với nhiều quốc gia trên thế giới. Kể từ lần đầu tiên xuất hiện ở Chicago
(Mỹ) năm 1848, sở giao dịch hàng hóa đã không ngừng phát triển và đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại hàng hóa, góp phần
phát triển nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trước khi Luật Thương
mại năm 2005 được ban hành, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là quan hệ
thương mại còn khá mới mẻ và lạ lẫm với nhiều người, do người kinh doanh chủ
yếu giao dịch thông qua phương thức giao ngay, còn về mặt luật pháp thì trước
đó, chưa từng có quy định dưới luật đề cập đến vấn đề này. Với thị trường tiềm
năng hơn 80 triệu dân, trong đó phần lớn là sản xuất nông nghiệp, cộng với nền
kinh tế ngày càng phát triển với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục
và sự hội nhập thương mại quốc tế ngày càng sâu rộng, nhu cầu về sự hình thành
sở giao dịch hàng hóa và pháp luật điều chỉnh các hoạt động liên quan đến mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch là rất lớn.
Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thông qua Luật Thương mại và hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Luật
Thương mại năm 2005 đã dành 11 điều tại mục 3 Chương 2 để quy định về mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Việc Luật Thương mại năm 2005 ghi
nhận chính thức hình thức mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là cơ sở
pháp lý quan trọng để các giao dịch mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa hình thành và phát triển ở nước ta, tạo điều kiện cho các thương nhân Việt
Nam tiếp cận và sử dụng hình thức kinh doanh mới này.
Tuy nhiên, với 11 điều luật, Luật Thương mại năm 2005 mới chỉ quy định
các khái niệm cơ bản, thành lập và chức năng của sở giao dịch, chủ thể, quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể …. tham gia vào hoạt động mua bán thông qua sở
giao dịch. Theo đó, việc điều chỉnh các nội dung liên quan đến các hợp đồng



2

liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được đề
cập đến rất hạn chế.
Với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề lý
luận và thực tiễn về các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa, góp phần bổ sung và hoàn thiện các quy định của
pháp luật điều chỉnh các hợp đồng này, tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật hiện
hành về các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là vấn đề đã được đề cập đến
trong nhiều công trình nghiên cứu. Có thể kể đến một số bài viết, công trình
nghiên cứu như:
- “Giáo trình Luật Thương mại” (2006), tập 2, Chương IX của trường Đại
học Luật Hà Nội; bài viết: “Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa (hợp đồng giao sau) nhìn từ góc độ của Luật dân sự” của TS. Phạm Văn
Tuyết, Tạp chí Luật học số 5/2006; bài viết: “Đặc trưng cơ bản của quan hệ
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa theo pháp luật Việt Nam” của
thạc sĩ Nguyễn Thị Yến, Tạp chí Luật học số 6/2007; bài viết: “Quan niệm về
thị trường hàng hóa giao sau và mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa”
của PGS.TS Nguyễn Viết Tý, Tạp chí Luật học số 1/2010;bài viết: “Một số bình
luận về thực thi pháp luật mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Thị Dung, Tạp chí Luật học số 1/2011và một số bài viết
liên quan đến vấn đề này được đăng tải trên các trang web...
- Luận án tiến sĩ luật học: “Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Yến.
- Khóa luận tốt nghiệp: “Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền
chọn trên thị trường hàng hóa giao sau” của tác giả Bùi Thị Hương Xuân
(2008); “Mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch theo pháp luật Việt Nam hiện

hành” của tác giả Phạm Chí Dũng (2008); “Tìm hiểu các quy định của pháp


3

luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quaSở giao dịch hàng hóa” của tác giả
Hoàng Thị Thu Hằng (2012)
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập đến những
vấn đề chung, khái quát về sở giao dịch hàng hóa và mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa mà chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về các
hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là triết
học Mác – Lênin, các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến đề tài của luận văn.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu có sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học khác nhau như: phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, diễn giải để
thực hiện đề tài.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích làm sáng tỏ bản chất pháp
lý và thực tiễn quy định của pháp luật về các hợp đồng có liên quan đến hoạt
động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa theo quy định của Luật
Thương mại năm 2005, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định
của pháp luật điều chỉnh các loại hợp đồng này.
Để thực hiện mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa và các hợp đồng có liên quan đến mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa, từ đó làm rõ được những đặc trưng cơ bản của các
hợp đồng này so với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường và hợp đồng

mua bán hàng hóa ngoài sở giao dịch;
- Hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các hợp đồng có liên quan
đến mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa;


4

- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật điều chỉnh các
hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa;
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
điều chỉnh các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa;
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Các hợp đồng liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Luận
văn không tập trung nghiên cứu hoạt động mua này dưới góc độ khoa học kinh
tế mà chỉ nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý theo quy định của Luật
Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp lý có liên quan hiện hành.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Khái quát về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và
các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa.
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh các hợp đồng có liên quan đến
hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các
hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa.



5

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HÓA VÀ CÁC HỢP ĐỒNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm và đặc điểm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
1.1.1. Khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Vào những năm 1840, khi mà việc sản xuất ngày càng phát triển nhờ sự cải
tiến về công nghệ thì những người nông dân nước Mỹ thường đến Chicago để
bán ngũ cốc cho các thương gia. Những người này sẽ đưa lượng hàng hóa này đi
khắp cả nước. Dần dần, hoạt động này trở nên sôi nổi đến mức hầu như không
đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Khối lượng sản xuất ngày càng lớn trong
khi hệ thống vận tải chưa phát triển phù hợp không thể đáp ứng được nhu cầu
vận chuyển hàng hóa. Khi những người nông dân đến Chicago họ không hề biết
trước giá cả thị trường, hơn nữa, vào thời điểm đó ở Chicago có rất ít các cộng
cụ để cất trữ hàng hóa và cũng không có một quy trình chuẩn nào để cân và
đánh giá chất lượng ngũ cốc, khiến cho nông dân rơi vào thụ động và phụ thuộc
vào thương nhân. Thị trường tiêu thụ hỗn loạn, các nhà đầu cơ lợi dụng tình
trạng này để ép giá làm giá ngũ cốc giảm mạnh sau vụ thu hoạch rồi sau đó lại
tăng lên khi nguồn cung đã được giải tỏa. Những hiện tượng mang tính chu kỳ
như vậy đã gây nên những thiệt hại nghiêm trọng cho người sản xuất lương
thực, do đó, những người nông dân đã tìm cách tránh rủi ro bằng cách bán ngũ
cốc trước khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ, kể cả với mức giá thấp hơn một ít so
với giá dự kiến khi ngũ cốc được đưa đến thị trường. Người mua và người bán
lúc này phải thỏa thuận với nhau về số lượng ngũ cốc, chất lượng, giá cả, thời
gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền. Ban đầu, những hoạt động này diễn ra tự
phát, riêng lẻ nhưng dần dần do tính ưu việt của nó trong việc tiêu thụ cũng như
lưu thông hàng hóa, hoạt động này lại trở nên ngày càng phổ biến. Do vậy, một

thị trường mới được hình thành, một thị trường mà ở đó người mua và người
bán gặp nhau để thỏa thuận, cam kết với nhau về việc mua bán, giao hàng và


6

nhận tiền trong tương lai. Tuy nhiên, ở một thị trường mới như vậy, việc tìm
được đúng người mua và người bán đúng với số lượng và chất lượng hàng hóa
nông sản mình cần không phải là một việc dễ dàng. Chính vì vậy, trên thị trường
lúc này xuất hiện một người thứ ba – người trung gian với vai trò chắp nối
những người cần mua và cần bán lại với nhau. Nhưng việc chắp nối của người
trung gian thực không đơn giản, để hành nghề họ cũng phải bỏ thời gian và sức
lao động và để thu được lợi nhuận họ cũng phải gánh chịu những rủi ro khi
không gặp được đúng người mua và người bán. Các hiện tượng như vậy đã đặt
ra cho các nhà kinh tế một nhiệm vụ cần phải giải quyết, một mặt để giải tỏa
được những ách tắc trong lưu thông, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế, mặt khác đây cũng là một thị trường kinh doanh hết sức hấp dẫn. Chính
vì vậy, vào năm 1848, Chicago Boad of Trade (CBOT) đã được mở ra bởi 82
thương nhân buôn ngũ cốc ở một thị trấn nhỏ là Midwesterm như là một trung
tâm mua bán nơi mà những người nông dân và các thương nhân có thể gặp gỡ
để đổi tiền lấy việc giao ngay những loại hàng hóa nông sản như lúa mì, trên cơ
sở những quy định nhất định đã được CBOT thiết lập sẵn về việc đánh giá và
cân đo lúa mì, việc cất trữ phần lúa mì còn lại chưa được giao dịch, cũng như
việc đấu thầu giá cả và giải quyết các tranh chấp diễn ra. Đây chính là sở giao
dịch hàng hóa đầu tiên trên thế giới.
Như vậy, sở giao dịch hàng hóa đầu tiên trên thế giới ra đời trên cơ sở sự
phát triển của hoạt động mua bán nông sản, nhằm bảo hiểm rủi ro cho những
người sản xuất cũng như kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp. Cùng với sự
hội nhập kinh tế và làn sóng tự do hóa thương mại trên toàn cầu, sự hình thành
các sở giao dịch hàng hóa ngày càng nhiều với khối lượng giao dịch ngày càng

lớn, có thể kể đến những sở giao dịch lớn trên thế giới như Sở giao dịch thương
nghiệp Chicago, Sở giao dịch kỳ hóa Chicago, Sở giao dịch bông New York, Sở
giao dịch thương nghiệp New York, Sở giao dịch hàng hóa Nhật Bản, Sở giao
dịch kim loại London ….


7

Ở Việt Nam, mua bán hàng hóa tương lai xuất hiện từ rất sớm với việc
người nông dân bán những ruộng lúa của mình cho tư thương trước khi thu
hoạch với giá cả được thỏa thuận vào thời điểm giao kết hợp đồng và giao hàng
khi đến vụ thu hoạch. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ bé và xuất hiện đơn lẻ, tự phát
nên quan hệ này chỉ dừng lại ở các quan hệ dân sự giữa người nông dân và tư
thương. Từ năm 2002 trở lại đây, ở Việt Nam xuất hiện một số sàn giao dịch
hàng hóa như Sàn giao dịch hạt điều do Hiệp hội cây điều Việt Nam phối hợp
với Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở giao
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh) và một đối tác của Mỹ mở ra, Sàn
giao dịch thủy sản Cần Giờ (viết tắt tiếng Anh là Can Gio ATC), Trung tâm giao
dịch cà phê Buôn Ma Thuột (Buon Ma Thuot Coffee Exchange Center - BCEC),
Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX), trước đây là Sở giao dịch hàng hóa
Triệu Phong vàmới đây nhất, ngày 24/4/2013, Sở giao dịch hàng hóa INFO
chính thức được thành lập theo Quyết định số 2556/GP-BCT của Bộ trưởng Bộ
Công thương. Các sở giao dịch hàng hóa trên chủ yếu tập trung vào mua bán các
mặt hàng nông sản, có chuẩn hóa chất lượng, phương thức giao dịch và căn cứ
vào tình hình biến động của thị trường.
Về mặt pháp lý, hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa lần
đầu tiên được ghi nhận tại Luật Thương mại năm 2005 và được hướng dẫn cụ
thể trong Nghị định số 158/2006/NĐ - CP ngày 28 tháng 12 năm 2006 của
Chính phủ. Đây là hình thức mua bán có thể đáp ứng tốt hơn mong muốn của
các nhà sản xuất nhằm giảm thiểu rủi ro cho hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông

sản. Theo TS. Phạm Duy Liên thì: “thị trường sở giao dịch hàng hóa là thị
trường ở đó người ta buôn bán, trao đổi với nhau không phải là hàng hóa, sản
phẩm trực tiếp giao ngay mà thông qua các hợp đồng cam kết mua bán, còn việc
giao hàng, nhận tiền sẽ được thực hiện trong tương lai” [19].
Khác với các nước có một luật riêng điều chỉnh hoạt động mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa nhưng lại không đưa ra khái niệm mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa, ở Việt Nam, hoạt động mua bán hàng hóa qua sở


8

giao dịch hàng hóa được quy định chung trong Luật Thương mại năm 2005 (từ
Điều 63 đến Điều 73), trong đó, Khoản 1 Điều 63 quy định: “mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận
thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định
qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hóa
với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng
được xác định tại một thời điểm trong tương lai”.
Có thể thấy, việc đưa ra khái niệm “mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa” là một cố gắng đáng ghi nhận của các nhà lập pháp Việt Nam, giúp
các thương nhận có thể hiểu về hoạt động mua bán hàng hóa còn khá mới mẻ
này và giúp định hình quan niệm của luật pháp Việt Nam về hoạt động mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Tham khảo Luật mua bán hàng hóa tương lai hay Luật về Sở giao dịch
hàng hóa nông sản của một số nước như Singapore, Thái Lan, Canada, Hàn
Quốc, khó có thể tìm thấy khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa được ghi nhận trong luật như ở Việt Nam. Luật của các quốc gia này chủ
yếu đưa ra những khái niệm về các vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa như khái niệm hàng hóa giao dịch qua
sở giao dịch hàng hóa, các chủ thể tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua sở

giao dịch hàng hóa, các giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa. Cụ thể, khi đưa ra
khái niệm về hàng hóa giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa, Luật mua bán hàng
hóa tương lai của Singapore quy định: “hàng hóa có nghĩa là bất kỳ một vật
phẩm, sản phẩm, hoặc đồ vật, là đối tượng của: a. Hợp đồng mua bán hàng hóa
tương lai; b. Hợp đồng giao hàng kỳ hạn; c. Dàn xếp việc mua bán hàng hóa; d.
Những hợp đồng mua bán hàng hóa khác; hoặc mua bán hàng rời; và bao gồm
những chỉ dẫn, quyền và những lợi ích của hàng hóa đó và các chỉ dẫn, quyền và
lợi ích bản chất khác mà Bộ trưởng có thể quy định đó là một hàng hóa bằng
cách thông báo trên tờ Gazette” [1, tr 36].


9

Cũng đưa ra khái niệm về hàng hóa giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa,
Luật mua bán hàng hóa tương lai của bang Otario, Canada năm 1997 quy định:
“hàng hóa được hiểu là hàng hóa nông sản, lâm sản, hải sản, khoáng sản, kim
loại, nhiên liệu hydrocacbon, tiền tệ hoặc đá quý, và bất kỳ một loại hàng hóa,
vật phẩm, dịch vụ quyền hoặc lợi ích, dù ở dạng gốc hay đã qua chế biến được
lựa chọn là hàng hóa theo các quy định trong Luật này.” [1, tr 141]; Luật về Sở
giao dịch hàng hóa nông sản của Thái Lan năm 2001 quy đinh: “hàng nông sản
là các loại nông sản và hàng hóa chế biến từ nong sản được Ban giám đốc Sở
giao dịch quy định cho Giao dịch kỳ hạn” [1, tr 93].
Về các giao dịch mua bán hàng hóa qua sở giao dịch mua bán hàng hóa,
Luật mua bán hàng hóa tương lai của bang Otario, Canada năm 1997 quy định:
“hợp đồng được hiểu là hợp đồng hàng hóa tương lai hoặc quyền chọn hàng hóa
tương lai”; “quyền chọn hàng hóa tương lai được hiểu là một quyền, được mua
nhằm xem xét quyền mua hoặc quyền bán liên quan đến hợp đồng hàng hóa
tương lai với một mức giá cụ thể và trong một khoảng thời gian cụ thể hoặc bất
kỳ sự lựa chọn nào khác có đối tượng của quyền là một hợp đồng hàng hóa
tương lai” [1, tr 141]. Luật về Sở giao dịch hàng hóa nông sản của Thái Lan năm

2001 quy định: “giao dịch kỳ hạn là việc mua và bán một loại hàng nông sản
dưới hình thức bán đấu giá tại sở giao dịch trong đó hàng hóa sẽ được giao và
nhận tại một thời điểm trong tương lai với số lượng và giá cả đã được thỏa thuận
trước, tuân theo những nguyên tắc, thủ tục và điều kiện do Ban giám đốc Sở
giao dịch quy định” [1, tr 93]. Luật mua bán hàng hóa tương lai của Singapore
quy định: “hợp đồng mua bán hàng hóa là: hợp đồng giao hàng kỳ hạn; hợp
đồng được lập theo những hình thức mua bán khác nhau đối với một loại hàng
hóa; hoặc hợp đồng được lập theo một giao dịch dàn xếp việc mua bán hàng
hóa” [1, tr 37].
Có thể thấy, dù không đưa ra một khái niệm chính thống, song cũng giống
như pháp luật Việt Nam, pháp luật các nước đều ghi nhận mua bán hàng hóa qua
sở giao dịch hàng hóa là hoạt động mua bán hàng hóa tương lai qua trung gian,


10

theo đó, các bên mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa xác định
hoặc mua bán quyền chọn mua, quyền chọn bán của một loại hàng hóa xác định
theo quy định của sở giao dịch hàng hóa, giá cả được thỏa thuận vào thời điểm
giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong
tương lai.
1.1.2. Đặc điểm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa bao gồm các đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại. Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm sinh lợi
khác. Như vậy, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, hay nói các khác, là hoạt động kinh doanh nhằm tìm
kiếm lợi nhuận của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa qua

sở giao dịch hàng hóa.
Thứ hai, chủ thể tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa bao gồm khách hàng, thành viên kinh doanh, thành viên môi giới của
sở giao dịch hàng hóa.Ngoài ra, còn có trung tâm thanh toán và trung tâm giao
nhận hàng hóa của sở giao dịch hàng hóa.
Thứ ba, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là phương thức mua
bán hàng hóa thông qua trung gian – sở giao dịch hàng hóa. Nội dung các hợp
đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được sở giao dịch hàng hóa
tiêu chuẩn hóa về số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian giao hàng, địa
điểm giao hàng. Chỉ có giá được các bên trong hợp đồng thỏa thuận. Ngoài ra,
khi mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, quan hệ mua bán phải tuân thủ
các điều kiện do từng sở giao dịch quy định. Do đó, các bên tham gia mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa không nhất thiết phải xem xét khả năng thực
tế của bên kia, người mua không phải lo lắng về hàng hóa có được đảm bảo chất


11

lượng, số lượng và người bán cũng không cần phải lo lắng về khả năng thanh
toán của bên mua. Bởi những điều này đã được sở giao dịch hàng hóa bảo đảm.
Thứ tư,mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa song song tồn tại hai
nhóm quan hệ: quan hệ mua bán hàng hóa tương lai được thiết lập giữa người
mua và người bán thông qua chủ thể trung gian (sở giao dịch hàng hóa); và quan
hệ dịch vụ được thiết lập giữa khách hàng với thành viên môi giới, thành viên
kinh doanh của sở giao dịch hàng hóa, trừ trường hợp thành viên kinh doanh của
sở giao dịch hàng hóa hoạt động tự doanh.
Trước khi thiết lập quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa,
người bán, người mua (gọi chung là khách hàng) phải tham gia vào quan hệ dịch
vụ, đó là dịch vụ môi giới hay ủy thác mua bán hàng hóa theo pháp luật từng
nước. Nếu khách hàng thỏa mãn điều kiện do thành viên sở giao dịch yêu cầu,

họ sẽ tham gia quan hệ dịch vụ trực tiếp với thành viên sở giao dịch; nếu không,
họ sẽ tham gia quan hệ với người môi giới của mình, người môi giới của khách
hàng có thể trực tiếp hoặc thông qua một hoặc một vài chủ thể trung gian để
chuyển lệnh mua, lệnh bán của khách hàng đến thành viên sở giao dịch. Như
vậy, một hoặc một chuỗi quan hệ dịch vụ được thiết lập trước khi khách hàng
mua, bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Quan hệ dịch vụ hay những quan
hệ dịch vụ này là tiền đề, là điều kiện để khách hàng tiến hành mua, bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Khi tham gia quan hệ dịch vụ, lệnh mua, lệnh
bán hàng hóa của khách hàng sẽ được các chủ thể thực hiện dịch vụ chuyển lên
sở giao dịch hàng hóa để khớp lệnh, qua đó thỏa mãn nhu cầu mua, bán hàng
hóa của khách hàng nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bù lại, các chủ thể thực hiện dịch
vụ trung gian bao gồm: thành viên sở giao dịch, người môi giới của khách hàng,
một hoặc một số chủ thể trung gian (nếu có) và bản thân sở giao dịch sẽ được
hưởng thù lao khi lệnh mua, lệnh bán của khách hàng được khớp trên sở giao
dịch. Tuy nhiên, quan hệ dịch vụ sẽ không xảy ra nếu thành viên sở giao dịch
hàng hóa tự mua, bán hàng hóa cho chính mình nhằm mục đích lợi nhuận.


12

Khi lệnh mua, lệnh bán hàng hóa của khách hàng được khớp trên sở giao
dịch hàng hóa, hình thành một quan hệ thứ hai là quan hệ mua bán hàng hóa qua
sở giao dịch hàng hóa.Đây là giao dịch chính, là mục đích của các bên khi tham
gia quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Thứ năm, đối tượng của giao dịch mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa là hàng hóa. Tuy nhiên, hàng hóa được các bên thỏa thuận giao kết phải là
hàng hóa được phép giao dịch tại sở giao dịch, tuân thủ các quy định về loại
hàng, tiêu chuẩn chất lượng, chủng loại …. Theo thông lệ chung, hàng hóa được
mua bán qua sở giao dịch thường là những hàng hóa được giao kết với số lượng
lớn và có sự biến động mạnh về giá cả, ví dụ: nông sản (gạo, hạt tiêu, cà phê

…), vàng, kim loại màu …. Hàng hóa được giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa
có thể đã hiện hữu hoặc chưa hiện hữu vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Thứ sáu, trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, giá
mua hàng hóa là giá tại thời điểm giao kết hợp đồng còn thời gian giao hàng
được các bên ấn định vào một thời điểm trong tương lai theo quy định của từng
sở giao dịch hàng hóa.
Thứ bảy, hình thức mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là hợp
đồng, bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
Như vậy, hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa có những
điểm khác biệt so với hoạt động động mua bán hàng hóa thông thường và mua
bán hàng hóa tương lai ngoài sở giao dịch. Sự khác biệt đó là: (i) Trong hoạt
động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, không có sự giao dịch trực
tiếp giữa người bán và người mua. Người bán, người mua không cần phải biết
nhau, không cần quan tâm đến độ tín nhiệm của nhau mà tất cả đều được đảm
bảo bởi chủ thể trung gian là sở giao dịch hàng hóa. (ii) Giá hàng hóa được các
bên thỏa thuận vào thời điểm giao kết hợp đồng không phải là giá hàng hóa
được giao dịch vào thời điểm hiện tại mà là mức giá giao sau trên cơ sở phòng
ngừa rủi ro về biến động giá của người mua và người bán. (iii) Khi lệnh mua
được khớp với lệnh bán tương thích, hay nói cách khác, khi hợp đồng mua bán


13

hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được giao kết, người mua chỉ phải đặt một
khoản tiền ký quỹ để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng mà chưa phải thanh
toán cho toàn bộ giá trị hàng hóa mà mình đã đặt mua; ngược lại, người bán
cũng chưa phải giao hàng mà chỉ phải đặt một khoản tiền ký quỹ để đảm bảo
việc thực hiện nghĩa vụ. (iv) Trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa, các bên không phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sự vi phạm hợp
đồng đối với nhau mà chủ thể trung gian sẽ chịu trách nhiệm nếu xảy ra vi

phạm, tranh chấp liên quan đến giao hàng, thanh toán trong quan hệ mua bán.
1.2. Khái niệm và đặc điểm các hợp đồng có liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Như đã trình bày ở trên, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được
thực hiện thông qua hai nhóm quan hệ: một là nhóm quan hệ dịch vụ, hai là
nhóm quan hệ mua bán hàng hóa.
Quan hệ dịch vụ là quan hệ giữa người có nhu cầu mua, bán hàng hóa qua
sở giao dịch hàng hóa (khách hàng) với những người thực hiện dịch vụ (thành
viên môi giới và thành viên kinh doanh của sở giao dịch hàng hóa).Quan hệ dịch
vụ được thể hiện dưới hình thức hợp đồng môi giới mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa.
Quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được thiết lập giữa
người bán và người mua thông qua sở giao dịch; hoặc thành viên sở giao dịch
hàng hóa hoạt động tự doanh, mua bán hàng hóa cho chính mình nhằm tìm kiếm
lợi nhuận.Quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được thể hiện
dưới hình thức hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng kỳ hạn
Theo Điều 64 Luật Thương mại năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
“Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam


14

kết nhận hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng” (Khoản 2
Điều 64).
Có thể thấy, việc Luật Thương mại năm 2005 đưa ra khái niệm hợp đồng
kỳ hạn, một trong hai loại hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa đã đặt nền móng cho các quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở

giao dịch. Tuy nhiên, khái niệm này tỏ ra chưa thật chuẩn xác, chưa mô tả được
đầy đủ nội dung của hoạt động này và không thực sự tương thích với pháp luật
của các nước trên thế giới. Hoạt động mua bán hàng hóa tương lai, bao gồm mua
bán hàng hóa tương lai qua sở giao dịch hàng hóa và mua bán hàng hóa tương
lai ngoài sở giao dịch hàng hóa được thực hiện dưới các dạng: mua bán kỳ hạn,
thể hiện dưới hình thức hợp đồng kỳ hạn (tiếng Anh là Forward contract); mua
bán hàng hóa tương lai, thể hiện dưới hình thức hợp đồng tương lai (tiếng Anh
là Futures contract); mua bán quyền chọn đối với hàng hóa tương lai, thể hiện
dưới hình thức hợp đồng quyền chọn (tiếng Anh là Options contract). Hợp đồng
kỳ hạn dùng để chỉ những quan hệ mua bán hàng hóa tương lai được thực hiện
ngoài sở giao dịch hàng hóa; hợp đồng tương lai dùng để chỉ những quan hệ
mua bán hàng hóa tương lai qua sở giao dịch hàng hóa; hợp đồng quyền chọn
được thực hiện trong hoặc ngoài sở giao dịch hàng hóa [18, tr 116]. Ở đây, Luật
Thương mại năm 2005 quy định hợp đồng kỳ hạn là một trong hai loại hợp đồng
mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Điều này có thể dẫn đến sự nhầm
lẫn trong cách hiểu về hợp đồng này.
Về cơ bản, có thể thấy hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng mua hay bán một số
lượng hàng hóa nhất định ở một thời điểm xác định trong tương lai theo một
mức giá nhất định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Thời điểm xác định
trong tương lai gọi là ngày thanh toán hợp đồng hay ngày đáo hạn. Thời gian từ
khi ký kết hợp đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của hợp đồng. Tại thời
điểm ký kết hợp đồng kỳ hạn, không hề có sự trao đổi hàng hóa hay thanh toán
tiền.Hoạt động thanh toán xảy ra trong tương lai tại thời điểm xác định trong
hợp đồng. Vào lúc đó, hai bên thỏa thuận buộc phải thực hiện nghĩa vụ mua bán


15

theo mức giá đã xác định trong hợp đồng, bất chấp giá thị trường lúc đó là bao
nhiêu.

Về đặc điểm, theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định
số 158/2006/NĐ - CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về
hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa (gọi tắt là Nghị định số
158/2006/NĐ - CP), hợp đồng kỳ hạn có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng kỳ hạn. Trong hoạt động mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa, người mua và người bán không trực tiếp thực hiện
các giao dịch với sở giao dịch hàng hóa mà phải thông qua một chủ thể trung
gian, đó là thành viên kinh doanh của sở giao dịch hàng hóa.Pháp luật các nước
đều ghi nhận quyền nhận ủy thác mua bán hàng hóa từ khách hàng của thành
viên kinh doanh. Thông qua hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa, khi thực hiện các giao dịch mua, bán hàng hóa với sở giao dịch
hàng hóa, thành viên kinh doanh sẽ nhân danh chính mình và những hành vi của
thành viên kinh doanh sẽ mang lại hậu quả pháp lý cho chính họ chứ không phải
khách hàng.
Như vậy, chủ thể của hợp đồng kỳ hạn lúc này không phải là người mua,
người bán hàng hóa (khách hàng) mà thành viên kinh doanh doanh được nhận
ủy thác từ phía khách hàng. Trong trường hợp thành viên kinh doanh mua bán
hàng hóa cho chính mình, thành viên kinh doanh sẽ có tư cách của một nhà đầu
tư, một khách hàng có quyền đặt lệnh trực tiếp tại sở giao dịch hàng hóa.
Thành viên kinh doanh của sở giao dịch hàng hóa phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện theo quy định của Điều 21 Nghị định số 158/2006/NĐ - CP, bao gồm:
(i) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp; (ii)
Vốn pháp định là bẩy mươi lăm tỷ đồng trở lên; (iii) Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và
không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật


16

Doanh nghiệp, (iv) Các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của

Sở giao dịch hàng hóa.
Thứ hai,về đối tượng của hợp đồng. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
kỳ hạn khi các bên hướng tới việc giao nhận hàng trên thực tế.Trong trường hợp
người bán, người mua trong hợp đồngkỳ hạn không hướng tới việc giao và nhận
hàng thực qua sở giao dịch hàng hóa mà dùng hợp đồng để đầu cơ về giá hàng
hóa nhằm tìm kiếm lợi nhuận, đối tượng của các giao dịch lúc này chính là hợp
đồng kỳ hạn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đối tượng của hợp đồng kỳ hạn là
hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, được Bộ trưởng Bộ
Công thương công bố trong từng thời kỳ và theo điều lệ của từng sở giao dịch
hàng hóa.
Thứ ba, thời điểm giao hàng và giá cả. Trong hợp đồng kỳ hạn, thời điểm
giao hàng không phải là thời điểm giao kết hợp đồng mà là một thời điểm trong
tương lai được các bên thỏa thuận ấn định. Theo thông lệ chung của các sở giao
dịch hàng hóa các nước, thời gian giao hàng do từng sở giao dịch quy định áp
dụng đối với từng mặt hàng cụ thể.
Giá hàng hóa trong hợp đồng kỳ hạn cũng không phải là giá hàng hóa đang
giao dịch trên thị trường vào thời điểm giao kết hợp đồng do sở giao dịch hàng
hóa công bố mà là giá giao sau, một mức giá mà cả người bán và người mua đều
dự liệu rủi ro về giá trong tương lai và là mức giá mà cả hai bên đều chấp nhận
được. Đây được coi là điểm đặc trưng nhất của hợp đồng kỳ hạn so với các hợp
đồng mua bán hàng hóa thông thường.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng. Nội dung hợp đồng kỳ hạn phải tuân thủ
các điều khoản được tiêu chuẩn hóa tại sở giao dịch hàng hóa nơi hợp đồng
được giao dịch. Cụ thể, những điều khoản mẫu như: đối tượng hợp đồng, số
lượng, chất lượng, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán …. đã được sở giao
dịch hàng hóa quy định cụ thể. Hợp đồng kỳ hạn có nội dung tương tự giống
như hợp đồng theo mẫu, có nghĩa là các điều khoản đã được chuẩn hóa và buộc



17

các bên phải tuân theo khi muốn tham gia vào hợp đồng. Nhưng hợp đồng kỳ
hạn không phải là hợp đồng theo mẫu, vì hợp đồng theo mẫu chỉ do một bên
soạn thảo và đưa ra, bên kia của hợp đồng chỉ có quyền ký hoặc không ký. Còn
trong hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng là do một bên đưa ra các yêu cầu mua hoặc
bán một lượng hàng hóa với giá cả, số lượng, kỳ hạn …. nhất định, một bên
chấp nhận mua hoặc bán lượng hàng hóa đó thông qua trung gian là sở giao dịch
hàng hóa với giá cả trùng hoặc sát nhất với mức giá mà bên kia đưa ra.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng quyền chọn
Khoản 3Điều 64 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Hợp đồng về
quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua quyền có
quyền được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước
(gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi
là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực
hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó”.
Như vậy, hợp đồng quyền chọn xác lập quyền chứ không phải nghĩa vụ, đó
là quyền mua hoặc quyền bán một lượng hàng hóa nhất định với mức giá nhất
định (giá thực hiện) tại một thời điểm trong tương lai.
Hợp đồng quyền chọn đưa ra một quyền lựa chọn thực hiện hay không thực
hiện một giao dịch nhất định vào một thời điểm trong tương lai. Nếu hợp đồng
quyền chọn được thực hiện, bên mua hoặc bên bán quyền chọn sẽ chịu trách
nhiệm thực hiện các điều khoản hợp đồng bằng cách giao hàng, hoặc nếu không
thực hiện quyền chọn, thì sẽ thanh toán bằng tiền mặt.Đối với bên mua, khả
năng lỗ sẽ chỉ giới hạn trong giá phải trả để mua quyền chọn mua. Lý do là vì
nếu tại thời điểm thực hiện quyền chọn mua, giá thị trường thấp hơn giá thực
hiện, bên mua quyền chọn sẽ không thực hiện quyền chọn mua nữa mà sẽ mua
hàng hóa trên thị trường.Nếu một quyền chọn không được thực hiện, nó sẽ hết
hiệu lực, không xảy ra trao đổi hàng hóa và bên mua quyền chọn sẽ mất khoản
tiền mua quyền chọn.



18

Hợp đồng quyền chọn mang lại lợi ích cho cả bên mua và bán quyền. Bên
bán quyền chắc chắn được hưởng khoản tiền bán quyền, không phụ thuộc vào
việc bên mua quyền có giao và nhận hàng thực trong tương lai hay không; chỉ
khi sự biến động của hàng hóa vượt quá khoản tiền này, bên bán quyền mới gặp
rủi ro. Bên mua quyền giữ thế chủ động trong giao dịch, nếu giá cả biến động
vượt quá khoản tiền bán quyền, họ sẽ được hưởng lợi nhuận không giới hạn; nếu
giá cả ít biến động hoặc biến động theo chiều hướng bất lợi, rủi ro của họ chỉ
giới hạn ở khoản tiền mua quyền.
“Hợp đồng quyền chọn không phải là giao dịch trung hòa – lợi nhuận của
bên mua quyền chọn sẽ không phản ánh đúng thiệt hại của bên bán quyền chọn
và ngược lại” [1, tr 7].
Tham khảo luật pháp các nước, có thể thấy khái niệm hợp đồng quyền chọn
trong Luật Thương mại năm 2005 có sự tương đồng với luật pháp một số nước.
Cụ thể, tại Mục 1 phần Giải thích từ ngữ, Luật mua bán hàng hóa tương lai của
bang Otario, Canada (ban hành năm 1990, sửa đổi lần cuối năm 2010): “Quyền
chọn hàng hóa tương lai được hiểu là quyền được mua hoặc được bán liên quan
đến hợp đồng hàng hóa tương lai với mức giá cụ thể và trong khoảng thời gian
cụ thể, hoặc bất kỳ sự lựa chọn nào khác có đối tượng của quyền là một hợp
đồng hàng hóa tương lai” [1, tr141]. Luật mua bán hàng hóa tương lai Singapore
năm 2007 định nghĩa: “Giao dịch quyền chọn hàng hóa tương lai là một giao
dịch về hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai, trong đó cho phép một người có
quyền đối ứng mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa nhất định ở một mức giá
ấn định trước trong khoảng thời gian nhất định và bao gồm những lựa chọn về
đối tượng mua bán của hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai” [1, tr 39 ].
Về đặc điểm, hợp đồng quyền chọn có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, chủ thể của hợp đồng quyền chọn. Cũng giống như hợp đồng kỳ

hạn, chủ thể của hợp đồng quyền chọn là thành viên kinh doanh được nhận ủy
thác từ phía khách hàng thông qua hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.


19

Hai là, đối tượng của hợp đồng quyền chọn. Đối tượng của hợp đồng
quyền chọn là hàng hóa khi người mua quyền chọn thực hiện việc giao hoặc
nhận hàng thực qua sở giao dịch; hoặc là quyền không giao và nhận hàng thực
qua sở giao dịch khi người giữ quyền chọn rơi vào thế bất lợi hơn so với thời
điểm giao kết hợp đồng; hoặc là quyền chọn mua, quyền chọn bán hàng hóa gắn
với việc mua hoặc bán lượng hàng hóa xác định với mức giá định trước đã được
giao kết.
Ba là, giá trong hợp đồng quyền chọn. Giá trong hợp đồng quyền chọn
không phải là giá trả cho lô hàng mà khách hàng muốn mua mà là phí quyền
chọn hay còn gọi là tiền mua quyền (premium). Khoản tiền này do bên mua
quyền đề nghị và bên bán quyền chấp nhận và sẽ không hoàn trả nếu bên mua
không thực hiện hợp đồng. Nói cách khác, hợp đồng quyền chọn mua, quyền
chọn bán cho phép dồn nghĩa vụ về một bên – bên bán quyền. Khi đã nhận
khoản tiền bán quyền (chọn mua hoặc chọn bán), bên bán quyền bị ràng buộc về
nghĩa vụ theo hợp đồng. Nếu giá cả thị trường biến động theo hướng bất lợi cho
bên bán quyền (cao hơn hoặc thấp hơn so với giá thỏa thuận trong hợp đồng),
bên bán quyền vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của mình nếu bên mua quyền thực
hiện việc nhận hàng (đối với quyền chọn mua) và giao hàng (đối với quyền chọn
bán). Trường hợp này bên bán quyền sẽ gặp rủi ro, vì khoản tiền mà bên bán
quyền thu được là giới hạn nhưng rủi ro về giá cả thị trường là không giới hạn.
Nếu giá cả thị trường biến động theo hướng có lợi cho bên bán quyền, bên mua
quyền không thực hiện hợp đồng quyền chọn đã giao kết, bên bán quyền cũng
chỉ được lợi trong phạm vi khoản tiền bán quyền hay phí quyền chọn đã được
nhận. Điều này đòi hỏi bên bán quyền phải có tiềm lực kinh tế mạnh và phải có

dự đoán tốt về sự biến động giá cả trong tương lai để không bị rủi ro quá cao
đồng thời vẫn thu được lợi nhuận từ việc bán, mua hàng hóa và bán quyền chọn
mua, quyền chọn bán đối với hàng hóa. Còn đối với bên mua quyền, rủi ro của
họ đã được hạn chế trong khoản tiền mua quyền mà họ phải trả cho bên chấp
nhận bán quyền, nếu mất, họ chỉ mất khoản phí này, còn nếu được, họ sẽ được


20

nhiều hơn khoản phí đã bỏ ra. Điều này tạo ra sự khác biệt cơ bản với hợp đồng
kỳ hạn: “Hợp đồng kỳ hạn là một giao dịch trung hòa, nghĩa là mỗi một đô – la
mà bên mua kỳ hạn thu được sẽ là một đô – la mà bên bán kỳ hạn bị mất. Số đô
la mà mỗi bên thu được hay mất đi trong một hợp đồng kỳ hạn bằng nhau và đối
ngược nhau.
Rủi ro đối với bên mua là không giới hạn, và rủi ro đối với bên bán cũng
vậy.” [1, tr 6]
Bốn là, mục đích của hợp đồng quyền chọn. Cũng giống như hợp đồng kỳ
hạn, hợp đồng quyền chọn được xác lập nhằm hạn chế rủi ro cho cả bên bán và
bên mua. Tuy nhiên, nếu trong hợp đồng kỳ hạn, đến thời điểm giao hàng, bên
bán bắt buộc phải giao và bên mua bắt buộc phải nhận hàng hóa hoặc thanh toán
khoản tiền chênh lệch, cho dù giá cả trên thị trường đã thay đổi khiến một bên
không còn có lợi trong hợp đồng. Nhưng với hợp đồng quyền chọn, đối với bên
mua quyền, họ có quyền thực hiện hoặc không thực hiện hợp đồng đã giao kết.
Sự lựa chọn không thực hiện hợp đồng không bị coi là vi phạm hợp đồng. Như
vậy, khoản phí quyền chọn thực sự là khoản tiền để bảo hiểm rủi ro cho bên mua
quyền, nếu giá cả biến động mạnh, họ cũng chỉ chịu rủi ro là khoản tiền phí mà
mình đã trả mà không phải chịu toàn bộ rủi ro từ hợp đồng.
Bên bán quyền cũng được lợi từ hợp đồng quyền chọn, bởi vì sự biến động
giá cả trên thị trường không quá mạnh, không vượt quá khoản phí quyền chọn
mà họ đã nhận được thì họ sẽ được lợi. Ngược lại, nếu sự biến động thị trường

theo hướng bất lợi, khoản tiền bán quyền thu được sẽ bù đắp cho họ một phần
rủi ro, trong khi ở hợp đồng kỳ hạn, rủi ro này hoàn toàn không được bù đắp.
Như vậy, sau khi thực hiện việc mua và bán quyền chọn, mặc dù nghĩa vụ và sự
bị động trong việc thực hiện hợp đồng đều thuộc về bên bán quyền nhưng lợi ích
về cơ hội giảm thiểu rủi ro trong quan hệ mua bán hàng hóa vẫn được chia cho
cả hai bên.


21

Từ sự phân tích khái niệm và đặc điểm hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền
chọn nêu trên, có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa bao gồm có đặc trưng cơ bản sau:
(i) Sở giao dịch hàng hóa có vai trò quan trọng trong việc ký kết, thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Việc mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa giúp các nhà đầu tư có điều kiện dễ dàng và thuận lợi
để lựa chọn đối tác của mình.Đồng thời, sở giao dịch hàng hóacũng là đơn vị
chịu trách nhiệm cuối cùng về mọi hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa.Trong sở giao dịch hàng hóa còn có thể xuất hiện nhiều chủ thể
làm trung gian cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa như
thành viên sở giao dịch, trung tâm thanh toán, trung tâm giao nhận hàng hóa.
(ii) Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là hợp đồng song
vụ, theo đó, các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Trong hợp đồng
kỳ hạn, bên bán có nghĩa vụ giao một khối lượng hàng xác định cho bên mua và
có quyền nhận tiền vào một thời điểm trong tương lai với mức giá đã thỏa thuận
trước; bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền như đã thỏa thuận trong hợp đồng và
có quyền nhận hàng vào thời điểm đã thỏa thuận. Trong hợp đồng quyền chọn,
bên mua quyền được mua hoặc được bán hàng hóa có nghĩa vụ trả một khoản
tiền nhất định và có quyền chọn mua hoặc chọn bán hàng hóa tại thời điểm trong
tương lai theo thỏa thuận, bên bán quyền có quyền nhận tiền và phải thực hiện

nghĩa vụ mà mình đã cam kết với bên mua.
(iii) Hàng hóa được các bên thỏa thuận giao kết trong hợp đồng mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa phải là hàng hóa được phép giao dịch tại sở giao
dịch hàng hóa; tuân thủ các quy định về loại hàng, tiêu chuẩn chất lượng, chủng
loại và các điều kiện khác mà sở giao dịch hàng hóa đặt ra. Hàng hóa được giao
dịch tại sở giao dịch hàng hóa có thể đã hiện hữu hoặc chưa hiện hữu vào thời
điểm giao kết hợp đồng (hàng hóa hình thành trong tương lai). Theo quy định tại
Nghị định số 158/2006/NĐ - CP, danh mục hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch


×